Thứ Hai, 18 tháng 6, 2007
Tù Chính Trị: Nguồn Khai Thác của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Sau những đồn đoán lúc ban đầu rằng chuyến đi Mỹ của Nguyễn Minh Triết Chủ tịch nhà nước cộng sản Việt Nam sẽ gặp khó khăn, thậm chí có thể bị hủy bỏ, do những bất đồng quan điểm của đôi bên do việc nhà nước Việt Nam bị tố cáo vi phạm nhân quyền, thì nay chuyến Mỹ du của Nguyễn Minh Triết đã được sắp xếp và tiến hành như dư định. Theo như lịch trình này thì Nguyễn Minh Triết sẽ cầm đầu một phái đoàn gồm nhiều quan chức cao cấp các bộ, cùng với trên một trăm các đại diện doanh nghiệp sẽ viếng thăm Hoa Kỳ trong bốn ngày, bắt đầu từ ngày 18/6 cho đến ngày 23/6. Cao điểm của chuyến viếng thăm này là cuộc hội đàm với Tổng thống Bush tại Hoa Thạnh Đốn vào ngày 22/6. Để tạo ra một bộ mặt cởi mở, cấp tiến, và để lấy tiếng khen cho chuyến Mỹ du sắp tới của Nguyễn Minh Triết, nhà nước cộng sản Việt Nam, qua Thứ trưởng ngoại giao Lê Văn Bằng đã hứa là sẽ thả ba nhà bất đồng chính kiến, nhưng đã không tiết lộ ngay danh tính của những người này. Việc này là một tiểu xảo truyền thông để nhằm gia tăng sự chú ý vào chuyện thả vài tù nhân chính trị.
Từ trước đến nay, cộng sản Việt Nam vẫn luôn phủ nhận là không có tù chính trị tại Việt Nam , những người bị bắt giữ cầm tù là những người vi phạm luật pháp Việt Nam . Lời tuyên bố thả tù của Lê Văn Bằng trước ngày đi Mỹ của Nguyễn Minh Triết đã là một bằng chứng cho thấy cộng sản Việt Nam đã coi những người tù chính trị là những mặt hàng để đổi lấy sự ủng hộ của chính phủ Mỹ trong quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Cộng sản Việt Nam xử dụng tù chính trị cho mục tiêu “rửa mặt” mỗi khi có nhu cầu. Dùng tù chính trị để đánh bóng cho bộ mặt của chế độ đã trở thành chiến thuật quen thuộc của nhà nước Việt Nam . Chiến thuật này xem ra vẫn còn “ăn khách”. Tại sao gọi là vẫn còn ăn khách? Bởi vì, vẫn còn có nhiều người đặt câu hỏi là : liệu cộng sản Việt Nam có mâu thuẫn hay không, trong khi muốn mở cửa để hội nhập vào thế giới, mặt khác thì vẫn ra tay đàn áp những người bất đồng chính kiến? Thực tế cho thấy rằng, không có gì gọi là mâu thuẫn trong chính sách đối với tù chính trị của cộng sản Việt Nam cả. Cộng sản Việt Nam có nhu cầu tạo ra các cuộc đàn áp những nhân vật có tên tuổi như đã thấy trong thời gian gần đây, nhằm đáp ứng hai mục tiêu chính trị. Thứ nhất, tạo một không khí khủng bố bao trùm để ngăn chặn sự bành trướng của những người chống đối. Thứ hai, lùng bắt và bỏ tù những người chống đối được dư luận thế giới biết đến để sẵn sàng cho mục tiêu “rửa mặt” cho các chuyến công du của lãnh đạo cộng sản Việt Nam sau này. Việc tuyên bố thả ba nhà bất đồng chính kiến của Lê Văn Bằng nhân chuyến đi Mỹ sắp tới của Nguyễn Minh Triết là một thí dụ điển hình cho chính sách về tù chính trị của nhà nước cộng sản Việt Nam. Số phận của người tù chính trị Việt Nam hoàn toàn tùy thuộc vào các mục tiêu chính trị mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam nhắm tới. Có thể nói, nếu không có chuyến đi Mỹ của Nguyễn Minh Triết, chưa chắc gì hai người tù người tù chính trị nổi tiếng là Nguyễn Vũ Bình và Lê Quốc Quân đã được thả ra, mặc dù trước đây ba tháng Phó Thủ tướng cộng sản Việt Nam Phạm Gia Khiêm đã đề cập đến vấn đề này với ngoại trưởng Hoa Kỳ bà Condoleezza Rice, trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của Phạm Gia Khiêm vào tháng ba vừa qua. Tù chính trị đã trở thành món hàng đắt giá của cộng sản Việt Nam . Món hàng này chỉ được đem ra rao bán mỗi khi có nhu cầu “đòi hỏi” từ các đối tác thương mại của nhà nước cộng sản Việt Nam, bằng không thì cứ tạm giữ đó chờ dịp khác. Tù chính trị càng được nói nhiều trên báo chí thế giới thì nhà nước cộng sản Việt Nam càng làm giá cao. Do đó, đối tác thương mại lại phải càng quan trọng thêm hơn. Trường hợp Nguyễn Vũ Bình, Lê Quốc Quân, và chuyến đi Mỹ của Nguyễn Minh Triết đã nói lên được điều này.
Căn bản để tồn tại của chế độ cộng sản Việt Nam là dựa vào bạo lực để trấn áp. Để chống lại một chính quyền bạo ngược dựa vào bạo lực để trấn áp thì người làm công việc chống đối phải biết đo lường để tránh đi sở trường của địch,. Còn như nếu cố tin là tình thế ngày nay đã đổi khác mà nghĩ rằng sự can thiệp của thế giới đủ sức bảo vệ mình để công khai chống đối Cộng sản Hà nội, thì chẳng những không mang lại kết quả mong muốn mà còn làm cho tiềm lực đấu tranh suy giảm đi. Nhìn lại các đợt đàn áp gần đây của cộng sản Việt Nam, hầu hết những người chống đối đều đã phải ngồi tù hoặc lẩn tránh, trong khi phản ứng của thế giới thì vẫn chừng mực, không có gì khác ngoài vài lời lên tiếng của các nhân vật chính trị. Nói khác đi một chút thì phản đối thì vẫn phải phản đối, nhưng cũng chỉ ở mức độ tương đối, còn thì vẫn phải buôn bán làm ăn với nhà nước cộng sản Việt Nam . Tất cả cũng chỉ vì quyền lợi mà thôi!
Cũng qua chuyến Mỹ du của Nguyễn Minh Triết lần này, và chuyện thả 3 người tù, người ta lại thấy nổi lên những xì xào nhận định quanh việc phe cấp tiến thân Mỹ đang thắng thế, phe bảo thủ thân Tầu đang rơi vào thế yếu. Trước đây thì người ta cũng đã nghe nói về Tổng Cục 2 với phe này thắng, phe kia thua, và chuyện này nay cũng đã xẹp xuống theo thời gian vì chẳng có ai người ta để ý đến chuyện này, ngoài những người muốn thổi phồng chuyện này lên nhằm mục đích tạo nên một hình ảnh là hiện đang có hai phe kình chống nhau trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam, hay còn được gọi là phe bảo thủ, phe cấp tiến. Căn cứ vào cái mà các nhà báo gọi là lịch sử ngoại giao “đu dây” của công sản Việt Nam thì chẳng có phe nào là phe thân Tây phương hay phe thân Tầu. Lãnh đạo cộng sản Việt Nam chỉ có một phe, gọi là phe “thân nhau” vì chỉ có thân nhau mới mong được tồn tại để tiếp tục nắm quyền và nắm tiền. Thân Tây phương hay thân Tầu thực sự chỉ là chính sách chui luồn để mà không xúc phạm đến những thế lực ngoại bang mà Hà nội phải dựa vào đó để trị dân. Hồ Chí Minh đã thi hành đường lối này, khi hai thế lực cộng sản Nga - Tầu kình chống nhau. Nghiã là em nhắm mắt bưng tai trước những đấu đá của hai anh lớn. Hay nói cho đúng là em theo cả hai anh, trừ khi mà hai anh đục nhau thì em xin lỗi đứng ngoài.
Chính sách ngoại giao này cho đến nay vẫn chưa thay đổi.. Cho nên, nếu mà lãnh đạo Hà nội có đi Mỹ thì cũng có đi Tầu. Cho nên những nhà báo mới chế ra là có một phe thân Mỹ, một phe thân Tầu, và những nhà chính trị thời cơ mới bám lấy để làm kế hoạch dựa vào Tây phương mà hy vọng mình có chỗ trên sân khấu chính trị nhờ dựa vào Tây phương.
Hiểu rõ cái gọi là hai phe thân Tây thân Tầu như thế trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam thì ta thấy ngay rằng những người tù chính trị Việt Nam vẫn sẽ còn bị tiếp tục khai thác bởi “phe thân Tây”, và cộng sản Việt Nam sẽ không ngần ngại tạo ra thêm nhiều vụ án chính trị cho mục tiêu tìm kiếm tù chính trị, kể cả ngụy tạo, để làm phương tiện mặc cả với phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Nói theo ngôn ngữ của ông Hà Sĩ Phu là mặc cả giữa chủ trại vịt và tay lái buôn vịt.
Đào Minh Tri
Tâm Thức Việt Nam
Jun 18, 2007
Anh biết… em đi chẳng trở về
Bữa tiệc nào không tàn? Tàn tiệc nào không buồn? Những buồn vui ở lại là mong ước của người tiễn chân nhưng thật ra buồn vui đã theo gót người đi một nửa. Người ở, bọc điều những kỷ niệm lơ là để ưu trầm từ đó về sau. Mấy ai không buồn khi nhìn ly rượu chỉ còn thủy tinh và vệt son trên mép ly. Những điều chưa nói thì ấm ức, những điều đã nói thì hối hận. Quy luật của muôn đời trong quan hệ con người luôn hụt hẫng: “triệu người quen có mấy người thân.”* Trong giòng sống không ngừng nghỉ luôn có những quãng lặng như trong âm nhạc, và hai người hợp soạn không nổi một hòa khúc thì mỗi người tự viết gì cho mình sau quãng lặng đó?!
Tôi đứng nhìn theo bước thiên di. Cuộc đời của cô ấy đang kể lại từ đầu trong tiềm thức chưa xa. Cô ấy không giống những người thợ nail tất bật với công việc, bận rộn với đồng tiền kiếm được để lập lại sự nhàm chán của đời sống vì cô ấy có sẵn sự nhàm chán từ khi bị tạo hóa liệng vô cuộc đời này. Từ khi cha cô ấy bước chân vô tù cải tạo để đứa con gái mong manh mồ côi tạm thời, có thể mồ côi vĩnh viễn - tùy thuộc vào sức chịu đựng của người cha. (Tôi mới coi phim “Vượt sóng”. Ngồi trong rạp mà đầu óc tôi cứ ở những truyện ngắn về trại cải tạo của Phan Nhật Nam, Lâm Chương. Phim chưa lột tả được như truyện, nhưng thấy mừng là điện ảnh Việt Nam đã bắt đầu khởi sắc. Không tả nổi nỗi vui mừng khi chính mắt mình nhìn thấy mấy trăm mái đầu đen bước vô một rạp hát của Mỹ để xem phim Việt Nam. Tôi sẽ viết lời cảm tạ đạo diễn Hàm Trần, sau. Để trở lại với chuyện vỉa hè không bao gìơ dứt)
Và tù ngục cộng sản không thiếu chỗ ở cho người lính miền Nam thua trận, nhưng vợ con người ấy trong xã hội Sàigòn sau ’75 thì thật là không chỗ nương thân, bị tống ra khỏi nhà mình như đồ rau rế rách. (Đừng bao gìơ nói chuyện xóa bỏ hận thù cho cô ấy nổi giận. Một cô bé lớn lên bên lề xã hội như cỏ dại với xấp vé số trên tay và những vỉa hè chợt nắng chợt mưa của Sàigòn đổi chủ. May là còn đi học để trở thành cô sinh viên ngất xỉu trong giảng đường Đại học kinh tế vì đói bụng mà thầy lang của nhà trường cho là thiếu máu! Lương y xhcn như từ mẫu mà từ là bỏ! Đôi khi, cô này cũng hài hước dữ. Cười đi rồi khóc với một linh hồn xác xơ trên biển Đông để từ đó hận đời. Nhưng hình như ý trời không muốn cô ấy chết, sống để khẳng định tư chất người miền Nam - không dễ bị đánh gục, không dễ gì thay đổi. Để phủ nhận cụm từ: “đàn bà con gái yếu đuối” không đúng cho hết đàn bà con gái, đâu). Cô ấy đã sống những tháng ngày lặng lẽ ở quê nhà với sự thù địch của chính quyền mới, với lý lịch gia đình đen như mõm chó: “Gia đình Ngụy quân”; “Thành phần không thể cải tạo”; “Phản động thuộc về bản chất”… loại người đáng đem bắn bỏ đó đã nhổ bãi nước bọt vào mặt chính quyền sở tại trước khi bước xuống xuồng vượt biên chứ đừng hiểu lầm nhổ bãi nước bọt với mảnh đất ân tình. Thì ra con người ta có thể thù hằn, không đội trời chung với ai đó! Một chế độ, một nhóm người bất nhất vô lương. Nhưng quê hương vẫn lộng lẫy trong lòng kẻ hận thù. Mà hình như càng hận thù thì người ta càng yêu tha thiết hơn quê hương bị chiếm đoạt của mình. (Những lần trò chuyện với tôi, cô ấy cứ thầm mong có một tác phẩm tầm cỡ “Exodus” viết về miền đất hứa của chúng ta. Nhưng chưa thấy Leon Uris của Việt Nam xuất hiện trên Văn đàn hải ngoại. Tôi chỉ thấy quê tôi trong mắt cô ấy những lúc nói về thánh địa Sàigòn của chúng tôi.
Thật ra chỉ là những con đường bụi bặm, những hàng quán ruồi bu và những tâm hồn đầy mộng tưởng để vỡ dần theo ngày tháng phôi pha.
***
Lịch sử Việt Nam sau “giải phóng” không lạ gì với một người có trở về từ địa ngục, còn hít thở nhưng thật ra đã chết từ ngày vong quốc, từ trong trại cải tạo, từ đổ vỡ sự nghiệp, gia đình. Cô ấy cũng còn hít thở như người cha. Nhưng tâm thức cũng đã chết từ thảm kịch vượt biển, từ cuộc tình lãnh cảm vì không quên được một lần bị hãm hiếp bởi những con thú hoang lạc loài trên biển Đông. Những ngư dân hiền lành trộn chung với ngu dốt, quê mùa của Thái Lan - Bỗng lịch sử Việt Nam sang trang đã biến họ thành thú vật, tệ hơn thú vật cũng đâu đã là lỗi họ. Cô này lý luận khá ngược đời nhưng biện chứng lắm! Cô ấy không trách người đánh cá Thái Lan nào đó là một điều khó hiểu! Cô ấy quy trách nhiệm cho việc: Không có phân biệt đối xử, trù dập thì đâu có vượt biển, vượt biên. Làm sao có hải tặc? (Hải tặc chỉ là từ ngữ dùng chung cho cướp biển. Cướp biển cũng có nhiều loại chứ không phải toàn là dân vô học, bất lương. Tại mình xui. Không gặp Lương Hải Bạc!) Nghĩ đến chế từ của cô ấy, tôi cười một mình để lại ưu tư về một hồng nhan bạc phận, một cánh chim di trong kiếp người vô định trước và sau. (đời cũng chỉ là những sân tàu rải rác / của kiếp người vô định trước và sau - thầy Tịnh Đức) Có những người chỉ gặp một lần nhưng ấn tượng còn hoài để ngược lại với những bông hoa hữu sắc vô hương. Bạn tôi, có trở lại đời thường được không? Bao cố gắng cho khỏi phụ lòng một kẻ có lòng với cô ấy nhưng cuộc tình không có gì vui để khám phá ra cuộc sống khủng khiếp với người này nhưng ưu ái người kia, con người có thể tàn nhẫn hơn dã thú với người này chứ không phải người khác để có kẻ yêu đời và người chán sống. (Hình như cô ấy lý luận ngày càng tiêu cực mà tôi thì không đủ tư duy để chống đối. Thua trong thắng hay thắng trong thua để cứu một con người - chẳng hề gì với tôi. Nhưng không phải lúc nào mình cũng làm chủ được những cuộc đối thoại.) Tôi chỉ còn nhận thức được: Những nguyên liệu cấu tạo nên một người nữ trầm cảm có rất nhiều trong cuộc sống, nhất là người nữ có một chút học thức, gia phong có trước cuộc đời lao lung theo vận nước. Một chút nhan sắc để dễ bị lọc lừa trong thời đại lắm kẻ ham vui, nhiều người bộn bạc và khoa học đang thắng những gía trị tâm linh, đạo đức là điều gì xa xỉ đến không còn chỗ đứng trong con người và thời đại, này. Cuộc sống hưởng thụ là chân lý đang dần dần hiện thực hóa con người quên đi con người theo tôn giáo và nhân bản. Trên hết là một vết chàm qúa khứ đã hủy hoại phần đời còn lại của một con người còn có suy tư. Có lần, cô ấy nói với tôi, giải thích lý do không đi nhà thờ mà tôi không hiểu gì hết: “Những người đang rao giảng đạo đức, có hiểu: Thứ đạo đức đó chỉ như miếng giẻ rách trước cửa thiên đàng. Con người đã cắt đứt quan hệ với thượng đế từ lâu. Chẳng nghe ai nói đến cách gì để quan hệ lại với thượng đế cho con người có chỗ trú tâm. Người ta đến nhà thờ vì quan hệ con người nhiều hơn quan hệ với bề trên nên sự sợ hãi không mất đi vì niềm tin không lớn lên được. Sự sợ hãi cứ vẩn vơ khôn nguôi vì khoa học kỹ thuật ngoài mặt tốt là giúp con người hiểu biết về thế giới tự nhiên, nhưng mặt trái của nó là làm cho người ta qúa hiểu về những tội lỗi của mình - không cách gì gột rửa. Nhà thờ không còn là kho chứa niềm tin, tiếng chuông chùa không còn đánh động nổi lương tri con người. Oâng cha với ông sư đã đến lúc tự chán mình. Niềm tin (on sale) không ai mua, cho không ai lấy nữa đâu anh.”
Nói chuyện với cô ấy thú vị hơn những bữa tiệc, thịt thơm, rượu ngon và những người phóng túng nhiều hơn phóng khoáng có đủ cách để xưng tụng cái tôi của mình - hơn thiên hạ. Hoan hô những người uyên bác! Chúc các ngài có ngày gặp đại bác cô nương thì hết… lộn xộn.
Giòng ký ức trong tôi trôi trôi theo gío đông tàn. Năm ngoái. Người phụ nữ chín mùi như trái lê thơm thoảng, chau mày không ưng ý với bài báo lúc rảnh rang. Cô không ngờ đã tỏ thái độ đối kháng với tác gỉa - đang nhìn cô…! Vậy là họ gặp nhau trong cùng tần số giữa nơi không mấy ai quan tâm về văn học, chữ nghĩa báo chợ chỉ để lót nồi. Những bài báo mang tính văn học bị lật qua một cách thờ ơ như coi ca nhạc, người ta cũng (pass) qua phần trình diễn của Tuấn Ngọc, Khánh Ly… với giòng nhạc của những nhạc sĩ thời thượng, không đáp ứng được nhu cầu thưởng thức của những người không ưa hoài niệm. Không có qúa khứ trong hiện tại. Và tương lai của họ là bôi xóa càng mất dấu qúa khứ càng tốt. Chẳng ai còn muốn nhận mình đã từng bới rác tìm bịt ny-lon. Nhưng bàn tay bới móc đã thành cố tật nên ưa có động tác dư, thừa trong hoàn cảnh trưởng gỉa học làm sang, bây gìơ.
Hai người lẻ loi trong xô bồ nghiệt ngã của giòng sống bon chen, đua đòi… chỉ còn chữ nghĩa giúp vui cho họ được phần nào hay phần đó. Đã nhiều hôm không gặp, hôm nay cô ấy gọi tôi để chào tạm biệt mà cũng có thể là vĩnh biệt nếu tin vào linh tính. Tôi mời vội vã trước chia tay một ly gì uống cho trôi đi những nghẹn ngào. Tôi đưa cô ấy về vì tôi đã mời cô ấy đến đây. Cô ấy đến đây để tôi đưa cô ấy về, vào, vô… qúa khứ! Có rất nhiều quan hệ “đang” trở thành “đã” một cách rất tự nhiên không có lý giải vì lý giải được thì quan hệ không có lý do để thoát khỏi hiện tại tiếp diễn mà trở thành qúa khứ.
Chiếc taxi và người tài xế chờ ngoài nhà hàng sẽ đưa cô ấy ra phi trường. Từ nay, thành phố quen nhau chỉ còn tôi với những hàng cây… vơi lá lại đầy khi đông tàn xuân đến. Cái nhà hàng mà chúng tôi đến đây lần đầu cũng như lần cuối, này - sẽ làm chứng cho tôi - không bao gìơ nhớ hết những cuộc chia tay trong đời.
Người tài xế taxi mở cửa cho khách. Anh ta là một người lịch lãm hơn công việc anh ta đang làm đòi hỏi. Anh trao cho tôi bó hoa mà tôi đã nhờ anh đi mua trong khi chúng tôi ngồi trong nhà hàng. Anh không nhận tiền hoa và cả tiền boa (tip) của tôi. Ước gì tôi có được con mắt tinh đời và tấm lòng chia chung với người khác, của anh ấy! - Một người vừa thất nghiệp đâu đó, phải qua ngày với nghề chạy taxi.
Cô bạn tôi nói tiếng Việt cho người tài xế taxi không hiểu: “Để em tính luôn cho anh ấy trong khoản tiền xe, khi tới phi trường. Những người đáng yêu, sao cứ bị mất việc đều chi? Sao cứ phải vất vả từng ngày để có sự sống… còn buồn hơn nỗi vất vả?”
“Suy ra, những người đang đua vô Nhà trắng là những người thấy ghét?”
“Trường liên tưởng của anh hơi bị bệnh!”
“Thời sự thôi. Anh muốn nói đến con người và lòng hy vọng. Nỗi khát khao được vào nhà trắng của những chính trị gia sofa ấy cũng ngang ngửa với lòng hy vọng của anh… anh hy vọng một người đáng yêu nào đó! Sẽ đón em ở nơi đến. Anh chỉ là người thấy ghét, thấy ghét nhất là tiễn em đi.”
Cô ấy suy tư qua nét buồn muôn thuở của đôi mắt không biết cười. Bàn tay lạnh ngắt siết tay tôi. “Cho em xin lỗi đã làm phiền anh nhiều hơn em muốn. Anh bảo trọng. Em đi nghen.”
“ Anh cũng muốn nói lời xin lỗi - không làm được gì hơn cho em.”
“ …Đừng để lòng những điều ấy. Em nghĩ… chắc em không trở lại Dallas lần nào nữa đâu. Nhớ về một nơi mà mình đã đi qua, đương nhiên có người quen kẻ thuộc. Nhớ về Dallas… cảm ơn anh những ngày qua. Thôi em đi nha.”
***
Bầu trời xám xịt tàn đông đã buồn cố hỷ lại trôi vào bóng đêm theo hai cái đèn đỏ sau chiếc taxi chở đi một người nữ đã mất hết lòng tin ở con người, cuộc sống. Tôi là người có gia đình nên chân thắng không buông lên được! Chân ga chần chờ tay lái quẹo về nhà là thứ đạo đức mà cả hai cùng cố gắng lượm lại trong hổ lốn đường trần - đông tây nhào trộn một cách lố bịch trong từng ngày vẫn sống. Không nên dẫn thân, bước sâu vào tội lỗi, không thể vì người này mà làm cho người khác mất thăng bằng! Cuộc sống sẽ loạn mất. Sự tu luyện luôn luôn thách đố với bản năng con người để đạt đạo. Đạo làm người là khó nhất trong tu đạo. Chẳng có ai đạt đạo làm người vì đời sống không cho phép nói ra những gì mình nghĩ, không được làm những gì mình muốn. Bởi nghĩ và muốn của mình rất ích kỷ, làm tổn thương người khác. Trong cuộc sống bây gìơ, người ta làm tổn thương người khác rất nhiều vì từng người đã qúa yêu mình.
Tôi hiểu những điều chưa nói từ sâu thẳm trong lòng tôi và cả cõi lòng cô ấy trong quan hệ này, nên hối hận về những điều đã nói. Tôi lấy tư cách gì để khuyên một người muốn chối bỏ, chạy trốn cuộc sống - hãy quay lại với cuộc đời mà theo cô ấy: Luôn thiếu một bàn tay vẫy gọi. (Có những bàn tay đàn ông còn đủ năm ngón nhưng chỉ để sàm sở, móc túi phụ nữ. Những bàn tay năm ngón / em vẫn kiêu sa nhưng không có linh hồn thì để đeo trang sức đắt tiền cho người thợ kim hoàn khỏi thất nghiệp - cũng là một thứ đạo đức vì người khác - giải nghĩa được sự thành dù không có công vì thành từ công người khác! Những bàn tay qua đêm mọc đầy nhẫn qúy do công tạo hóa làm ra bàn tay đẹp một cách vô dụng, chẳng làm được gì ngoài việc đeo trang sức nhưng người sở hữu bàn tay hoàn toàn không có trách nhiệm gì hết!) Bàn tay con người chỉ còn tuân lệnh trí óc: Kiếm tiền. Thật nhiều. Đã hết những bàn tay vẫy gọi sẻ chia! Hình như ngày tận thế đâu đây nên ai ai cũng vơ vét của cải, gía trị vật chất làm hành trang cho ngày tận thế! Sự ban thưởng và trừng phạt không còn nằm trong giới hạn tâm linh. Bạn kể tôi nghe những nỗi khổ tâm của riêng bạn là một cách nào đó bạn đã trút nỗi khổ ấy sang tôi. Sự cứu rỗi của bạn không nằm trong đức tin của tôi nên sự gieo rắc khổ đau tràn lan ngõ ngách một cách vô tội vạ. Người ta lùa khổ não ra cửa trước để nó tràn vào cửa sau của chính tâm hồn mình. Tôi đã mất một người tranh luận mà tôi rất yêu qúy nên không nói chuyện này nữa. Kẻ cần có một người hướng dẫn cách thức mổ sẻ nỗi lòng mình để tự tiêu hủy những nỗi niềm cố chấp, tự vươn lên trên những khổ đau mà hoàn thiện một nhân cách mới trong tâm tư cũ rích những niềm đau - vẫn vô vọng đi về phía tối. Tôi giúp gì được cho cô ấy khi tôi đối diện với cô ấy bằng mắt (sự tham lam cố hữu) và đối diện với tôi bằng lòng (hiển hiện sự trắc ẩn giữa lòng tham, sự ích kỷ và một chút hướng thiện còn sót lại sau năm tháng dài vô giáo dục giữa trần ai.)
Mong cho cánh chim di bay về miền Bắc khi mùa xuân đến, sẽ có chỗ trú đông khi mùa hạ qua mau, mùa thu vội vàng xóa dấu xanh tươi của xuân hạ tưng bừng đã quên cảnh giác thu đông! Như đời người ta vậy, chẳng mấy chốc tuổi đời đáng yêu bỏ đi đâu để đối diện, độc thoại với tuổi đời đáng ghét. Chẳng có bước chân nào không trở về nguyên quán là nơi cát bụi mà mọi người từ đó đi ra, đi vô cuộc trần này. Cô ấy ra đi từ mảnh đất quê nhà, chu du bốn bể để trở về quê nhà khi đã đi hết biển là kết thúc một đời người. Tôi chỉ là một trạm dừng chân có người đối thoại. Tôi hài lòng với ngụy lý riêng tôi, đời sống là một chuỗi dài những ngụy lý để chứng minh con người đã qúa yêu mình trong cuộc sống hôm nay, không có gì cho kẻ khác ngoài sự kỳ thị và phân biệt. Tôi không thể nào đi qua tôi không phải vì tôi mà vì những ràng buộc rất xã hội.
Tôi về đọc lại đoản văn đã viết lúc quen nhau, đoản văn mà bạn bè thắc mắc là sao tôi đặt tựa lãng òm: “Ghi chép ở tiệm nail”.
“… Cánh cửa mở ra, bà lão ăn mày cầm cái lon nhôm cáu bẩn trên cánh tay gầy guộc, run rẩy. Đôi mắt gìa nua nhìn lên cô nhỏ, van lơn bằng giọng gìa thiểu não: “Cô làm ơn bố thí cho gìa chút cơm thừa canh cặn, sống qua ngày”. Đôi mắt mỏi mòn trông của bà lão làm cho Na bấn loạn tâm thần. Na đã từng gặp ăn mày mọi nơi, mọi nẻo… chưa thấy ai gần đất xa trời hơn bà lão. Lòng trinh nguyên con gái làm cho Na ứa nước mắt, Na nói vội trước khi òa khóc: “Bà chờ cháu chút…”
Cô bé khuất sau bức vách phòng khách, úp mặt vô kệ sách khóc nức nở, ngon lành. Na mới đi học về, lục lạo nát cái bếp của mẹ cũng không có chút gì ăn được. Lục hết cái bóp sinh viên năm thứ nhất cũng không còn đồng bạc lẻ để mua đỡ cây kem chuối bên nhà hàng xóm, cầm hơi. Gặp kẻ cùng đường đi cầu người mạt rệp. Trong đầu Na lóe lên một hy vọng hay là một ước mơ! Ước gì Na nghe được tiếng rao quen: “Ve chai… dép đứt, thau nhôm hư, tập báo cũ… bán hôn?” Lời rao thường ngày làm cho Na mất tập trung những khi học bài, những trưa đang yên vắng… có thể nói là bực bội. Nhưng khi cần thì lại không nghe. Rồi không lâu cho ước mơ thành hiện thực. Sự hiển linh vô hình nào đó! Tiếng rao quen bực bội mới dễ nghe làm sao: “Ve chai… dép đứt, thau nhôm hư, tập báo cũ… bán… h… ô… n?”
Na quệt nhanh nước mắt, rút đại quyển sách trên kệ mà Na ước lượng chừng một kí lô, phóng ra cửa vì sợ bà ve chai đi mất. Vừa quay lại đã vướng bà lão ăn mày sau lưng, Na hết hồn đã làm bà đau vì đụng chạm.
“Bà có sao không?”
“Gìa không sao…” (Thều thào không rõ nữa.)
Na rót vội cho bà ly nước.
“Bà uống miếng nước đi, chờ cháu chút nha bà.”
Na lao nhanh ra cửa vì bà ve chai đã đi qúa lố nhà Na. Một chút mắc cỡ con gái không cản được Na nhanh bước theo bà ve chai. Cuốn sách bán được bao nhiêu, Na cho bà lão hết.
“Bà ra đầu hẻm, mua đỡ gì ăn đi bà. Nhà cháu không có gì ăn. Xin lỗi bà.”
Bà lão ăn mày nhìn sâu trong mắt Na, đôi môi khô khốc nhả ra lời cảm ơn thật thà nhất mà Na nghe được trong đời.
Mươi ngày sau, Na đang học bài trong nhà. Cũng bà lão cũ gõ cửa xin ăn.
“Hôm nay cháu có đồ ăn rồi. Bà chờ cháu chút nha.”
Nụ cười khó khăn vì chắc lâu lắm rồi bà không cười. Bà lão nhìn Na âu yếm như mẹ nhìn con trong nôi, làm Na sượng sùng.
“Cảm ơn cháu, hôm nay bà không đói.”
“Vậy… bà muốn uống nước không?”
“Cũng không còn khát nữa…”
“Vậy bà… cần cháu giúp gì không?”
“Chỉ sợ cháu từ chối.”
“Bà cần gì?… cháu ráng làm cho.”
“Cháu tên là gì?”
“Dạ! Cháu tên Na. Còn bà?”
“… Không nhớ nữa cháu ơi!”
“Bà cần gì… ở cháu?”
“…Bà… b… à… đi tìm con giai bà, đã lâu lắm rồi! Nó nói với bà: Nó đi giải phóng miền Nam, rồi về. Cháu ơi!… Hòa bình đã lâu lắm rồi! Bà không chờ được nữa nên đi tìm con giai bà. Chỉ có nó mới cho bà miếng ăn không khinh bỉ. Nhưng ông Giời không cho bà tìm ra đứa con giai. Bà không còn sống bao lâu nữa đâu!… Tạ ơn Giời cho bà có cháu. Cháu cho bà ăn cả quyển sách của Giời, mà…!
“Bà muốn cháu tìm giúp bà?”
“Không còn kịp nữa đâu cháu… ngoan. Bà chỉ xin cháu ăn hết phần cơm… bà đã mua cho cháu. Cháu hứa với bà đi.”
“…”
“Dạ! Cháu hứa ăn hết… gì bà cho.”
“Cầu Giời ban phúc cho cháu tôi…”
…
Bà lão biến đi trong cái nắng oi bức sau cơn mưa Sàigòn - chợt nắng chợt mưa. Na đứng thẫn thờ nơi thềm cửa, tay cầm lon nhôm cáu bẩn của bà lão hôm nào, sao hôm nay sạch sẽ? Ký ức chiến tranh tràn về… khói lửa ngập đầy ký ức tuổi thơ. Chạy giặc! Khung trời tuổi nhỏ tưởng đã quên rồi.
Mẹ về đến cửa mà Na còn không hay. Cô An dẫn chiếc xe đạp vào nhà rồi nhìn con hớt hãi.
“Con sao vậy Na?”
Na kể hết chuyện cho mẹ nghe. Cô An đón lon nhôm trên tay Na. Hai mẹ con trút ra cái tô mẻ cho chó ăn ngoài hè. Miếng đậu hũ dồn thịt chiên giòn còn ấm, ít cơm trắng tinh thơm mùi lúa mới. Lạ! Cái lon nhôm không, sao mà nặng hơn ước lượng?! Không tin được dù đó là sự thật! Mẹ Na trút ra những cái khâu vàng y, bóng lưỡng. Tất cả là ba cây vàng, từng khâu… từng khâu.
Cô An phóng ra đường tìm bà lão trong vô vọng. Trở về nhìn Na vừa khóc vừa ăn… đến hạt cơm cuối cùng trong cái tô mẻ giành cho chó. Hai mẹ con đưa nhau vào kệ sách. Quyển “Đường xưa mây trắng” của mẹ đã mất rồi. Na xin lỗi mẹ, hứa mua lại quyển sách. Nhưng cô An nói:
“Ngoại con đặt tên cho mẹ là An, nhưng tâm mẹ chưa bao gìơ tịnh. Mẹ đặt cho con tên Na là ngược lại với mẹ, là ước nguyện: Con được bình an ngay trong tâm hồn con. Quyển sách ấy không cần mua lại nữa vì chữ thì mẹ đã đọc nhưng nghĩa thì hôm nay đã hiểu rồi. Mẹ không cần quyển sách ấy nữa.
***
“Ba cây vàng đã thay đổi cả cuộc đời Na. Sự bình an trong tâm thuở dại khờ chết theo những vết thương đời hằn theo năm tháng. Bây gìơ Na không dễ gì cho ai như xưa nữa đâu anh! Lỗi tại Na hay tại tuổi đời?!”
“Tôi cũng đọc quyển sách ấy từ hồi còn trẻ, những lần đọc lại để tìm sự thanh an… rất tiếc là vô vọng. Cảm ơn Na đã kể chuyện cho nghe. Cảm ơn lớn nhất về ý nghĩa mà tôi vừa bắt gặp. Chữ thì ai cũng biết viết, biết đọc. Nhưng nghĩa thì không phải ai cũng hiểu. Ngày xưa chưa đọc thì Na hiểu quyển sách ấy còn hơn tác gỉa. Bây gìơ chữ đầy mình đến có thể viết ra quyển sách thì nghĩa đã tiêu tan.
Con đường Theo gót chân Bụt, không nhất thiết phải mặc áo cà sa mà là làm sao để trở lại mình khi còn vô danh trong thiên hạ - gánh đời chưa nặng trĩu đôi vai. Khi những vết thương đời chưa gõ cửa đến thăm. Lòng chưa dấy lên những cơn đau một mình lúc nửa đêm… làm sao quên đi được những ngày đã sống nghĩa là sống; nhớ hết những ngày qua nghĩa là ta đã chết ngay trong tâm mình.
Chúc bình an trở lại với Na.”
Đoản văn đầu tiên tôi viết cho cô ấy, cô ấy cũng chưa đọc. Nay đoản cuối cho cùng người nhận. Đọc cũng như không! Có nghĩa gì đâu một buổi chiều tàn đông xuân đến chỉ hoàn toàn là chuyện của thiên nhiên. Tôi chỉ biết: “Anh biết em đi chẳng trở về”. Hãy đi giùm anh hết biển để về lại quê ta.
Phan
Khối 8406: Tâm thư gởi Đồng bào
Kính gởi tới toàn thể Đồng bào, nhất là Đồng bào tại Hoa Kỳ, bức tâm thư của Khối 8406 nhân chuyến Mỹ du của chủ tịch nhà nước CSVN, như một sự hiệp thông với những gì Đồng bào thân yêu đang chuẩn bị để "dàn chào", phản kháng tập đoàn lãnh đạo CSVN. Khối 8406
--------------------------
Khối 8406
Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt Nam 2006
Bloc 8406 of Manifesto on Freedom & Democracy for Viet Nam 2006
vanphong8406@gmail.com
---------------------------------
Tâm thư gởi toàn thể Đồng bào,
đặc biệt Đồng bào tại Hoa Kỳ
nhân chuyến Mỹ du của
Chủ tịch nhà nước CSVN
Việt Nam, ngày 13 tháng 06 năm 2007
Kính thưa toàn thể Đồng bào
1- Kể từ Tết Đinh Hợi, nhà cầm quyền CSVN đã mở một cuộc tấn công tổng lực vào phong trào dân chủ quốc nội, bất chấp những cam kết với Quốc tế trước khi Việt Nam được gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, được rút tên khỏi danh sách Các nước cần đặc biệt quan tâm về tôn giáo, được cấp Quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn. Họ đã mở liên tục các phiên tòa vào các ngày: 30-03-2007 tại Huế, ngày 03-05-2007 tại Đồng Tháp, ngày 10-05-2007 tại Sài Gòn, ngày 11-05-2007 tại Hà Nội, ngày 15-05-2007 tại Sài Gòn, với những thể thức tiến hành phi pháp man rợ, với những tội danh vô lý bịa đặt, với những bản án bất công nặng nề. Cộng sản muốn dùng luật rừng để khóa họng công lý, muốn dùng một cơ chế phi dân chủ để bịt miệng các nhà ái quốc dân chủ. Tiếp đến, cuộc bầu cử ngày 20-5 với những trò gian trá và cưỡng bức không cần che đậy, nhằm tạo ra một Quốc hội chỉ thuần là người của đảng, bầy tôi của đảng, đã cho thấy Cộng sản coi thường nhân dân, thách thức quốc tế, bất chấp công luận một cách ngang ngược, kiêu căng và mù quáng.
2- Thế nhưng, ác giả ác báo! Hình ảnh linh mục Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng trước phiên tòa ngày 30-3 đã được truyền đi khắp thế giới, in ra hàng triệu triệu bản, đặc biệt dựng thành panô vĩ đại tại nhiều thành phố như San Jose và Dallas (Hoa Kỳ) mới đây, đã gây phẫn nộ cho lương tri loài người và là một cái tát như trời giáng vào mặt Cộng sản. Hình ảnh đó trở thành biểu tượng cho “Việt Nam hôm nay” và sẽ là chứng tích muôn đời về cái chế độ dối gian và tàn ác không biết tự giới hạn này.
Tiếp đến, ngày 29-05, lại một cái tát thứ hai do chính Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush tặng cho Cộng sản khi ông tiếp 4/6 vị đại diện các tổ chức và đảng phái đấu tranh dân chủ tiêu biểu của người Việt tại Hoa Kỳ và quốc nội, mà trong đó có một nhân vật và một chính đảng từng bị Cộng sản vu cáo là khủng bố. Rồi Tổng thống Mỹ còn bồi thêm hai phát nữa, một vào ngày 05-06 tại Hội nghị về Dân chủ toàn cầu tổ chức ở Praha, Tiệp Khắc, khi ông minh nhiên mong gặp linh mục Nguyễn Văn Lý tại chỗ và rõ ràng kết án CSVN “gần đây đã bắt giữ và cầm tù nhiều nhà hoạt động tôn giáo và chính trị ôn hòa”; hai là vào ngày12-06, tại buổi lễ khánh thành Đài kỷ niệm các Nạn nhân CS ở thủ đô Washington, khi ông tố cáo chủ nghĩa và chế độ CS toàn thế giới (trong đó có CSVN) đã giết hại trên 100 triệu người. Đó là chưa kể nhiều cái tát khác xuất phát từ nhiều chính phủ, quốc hội, tổ chức, cộng đồng, cơ quan nhân quyền, văn nhân nghệ sĩ trên toàn thế giới kể từ ngày 30-3 đến nay.
3- Trong vài ngày tới, dưới quyền Chủ tịch nhà nước Nguyễn Minh Triết, CSVN sẽ đưa qua Hoa Kỳ hai phái đoàn, một là đại diện “Hội nạn nhân chất độc da cam”, hai là nhóm hùng hậu gồm viên chức, doanh nhân Cộng sản lên tới trên 200 người.
Vụ kiện “chất độc Da cam”, như cách CS nói, thật ra chỉ là một chiêu bài CS sử dụng trước hết nhằm chuyển sự đối kháng trong nước giữa đảng và nhân dân ra bên ngoài thành sự đối kháng giữa hai chính phủ, tiếp đến là nhằm khỏa lấp vô số hành động bạo tàn mà đảng CS đã thực hiện suốt hơn nửa thế kỷ qua, gây vô vàn dị tật trên thân thể nước Việt và vô vàn vết thương trong tâm hồn thể xác dân Việt. Ngoài ra, ai nấy đều biết: từ hơn hai thập niên qua, với đường lối phát triển công nghiệp thiếu kiểm soát, trình độ yếu kém về chuyên môn, thái độ vô trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường (như tàn phá rừng hàng loạt, dùng tràn lan hóa chất trong thực phẩm, sử dụng bừa bãi thuốc bảo vệ thực vật, không xử lý đủ các chất thải công nghiệp…), cộng thêm sự buông lỏng về luật pháp và lòng ham hố lợi nhuận vô đáy, nhà cầm quyền CS đã làm cho môi trường Việt Nam, từ không khí, đất đai, sông ngòi đến thực phẩm… đều bị nhiễm độc một cách trầm trọng, gây bao bệnh tật, dị tật và cái chết oan ức cho nhiều người dân, kéo dài thêm danh sách nạn nhân của họ từ ngày họ tiếm quyền cai trị đất nước.
Tiếp đến, việc giao dịch thương mãi với thế giới để phát triển nền kinh tế quốc gia là điều cần thiết. Nhưng trong hoàn cảnh Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện tại, đảng và nhà cầm quyền CS chỉ chủ yếu phục vụ quyền lợi của các tập đoàn kinh tế nước ngoài và của giai cấp lãnh đạo cộng sản. Những cơ ngơi lớn lao, những tài sản kếch sù, những hợp đồng béo bở đều là của giai cấp này. Ngoại viện một phần đem sử dụng cho các công trình công cộng, một phần đem chia chác nhau trong đảng viên, bắt nhân dân chúng ta và con cháu chúng ta nai lưng trả nợ từ đời này sang đời khác. Giai cấp mới ấy, tầng lớp tư bản đỏ ấy đang tạo nên một ốc đảo xa hoa giàu có giữa một đại dương bao la cùng khổ là đa số nhân dân Việt Nam. Ngoài ra, hội nhập đúng nghĩa phải là hội nhập toàn diện, về khía cạnh kinh tế lẫn chính trị, văn hóa... Thế nhưng, càng mở rộng cửa cho kinh tế bao nhiêu, CSVN càng khép chặt cửa đối với chính trị bấy nhiêu. Người dân có phần dễ thở hơn trước đây chút ít trong việc kiếm sống, nhưng ngày càng ngột ngạt về mặt chính trị, nhân quyền. Điều này chẳng có gì lạ vì bản chất của thể chế độc tài Cộng sản là muốn nắm trong tay mọi tài nguyên để dễ bề đoạt lấy và củng cố mọi quyền lực.
4- Thành thử Khối 8406 chúng tôi rất hân hoan khi biết toàn thể đồng bào hải ngoại khắp thế giới, đặc biệt tại Hoa Kỳ, đang chuẩn bị “dàn chào” các phái đoàn của Cộng sản Việt Nam, một sự chuẩn bị chưa từng thấy từ trước đến giờ. Việc kết hợp hơn 30 tổ chức, đảng phái và cộng đồng để thành lập “Ủy Ban Phối hợp Hành động Phản đối Cộng sản” bằng những cuộc vận động, biểu tình, tuyệt thực, cầu nguyện, đăng báo, trình diễn… là một thành công của Đồng bào hải ngoại, hứa hẹn sẽ đem lại vô vàn kết quả. Nhân dân trong nước nói chung và các nhà dân chủ quốc nội nói riêng hết lòng tán thưởng, ủng hộ và hiệp thông với các hoạt động ấy. Đây chính là cái tát tập thể của người Việt yêu nước chúng ta vào mặt cái tập đoàn cũng da vàng máu đỏ nhưng chỉ vì cuồng vọng thống trị mà quên đi tình tự dân tộc, quyền lợi đất nước, tiền đồ tổ quốc. Cái tập đoàn này đã xua đuổi Đồng bào ra đi từ mấy thập niên vì chủ trương trả thù tàn nhẫn, chính sách cai trị hà khắc, đường lối điều hành đất nước mê muội và vô nhân đạo, nay thì ác giả ác báo, những kẻ cầm quyền ấy -vốn không bao giờ xứng đáng là đại diện của quốc gia- lại bị chính đồng bào mình xua đuổi. Một chuyện mà các kiều bào nước khác không bao giờ làm đối với chính phủ của quê hương họ! Điều ấy có làm cho tập đoàn lãnh đạo CSVN cảm thấy ô nhục để cải quá tự tân chăng? để từ bỏ não trạng thâm căn cố đế là lừa gạt bên ngoài, đàn áp bên trong mà chân thành đối thoại với các nhà dân chủ trong việc xây dựng đất nước chăng?
Kính thưa toàn thể Đồng bào
Qua tâm thư này, Khối 8406 chúng tôi xin kêu mời đồng bào tại Hoa Kỳ, nhất là các bạn trẻ, tham gia đông đảo các cuộc biểu tình, các sinh hoạt phản kháng nhân chuyến Mỹ du của phái đoàn CS. Trước hết để cho chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ thấy rằng chúng ta không chấp nhận chế độ độc tài cộng sản trên đất nước Việt Nam, vì chế độ này mang bản chất dối trá bạo tàn, phi nhân phi nghĩa, chuyên gây muôn vàn tội ác và thống khổ cho dân tộc. Thứ đến để cho chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ biết rằng họ lập quan hệ ngoại giao với 80 triệu người dân Việt Nam chứ không phải với đảng CS; do đó các hiệp ước được ký kết phải nhằm đem phúc lợi cho dân chúng hai quốc gia, chứ không được là phương tiện giúp đảng CS tiếp tục đàn áp nhân dân trong nước như hiện giờ. Cuối cùng, để cho chính Phủ và nhân dân Hoa Kỳ hiểu rằng việc giao hảo giữa Hoa Kỳ và Việt Nam là nhằm san sẻ những giá trị nhân bản của hai dân tộc, đặc biệt giúp nhân dân Việt Nam giành lại được các quyền căn bản của con người đang bị cộng sản cưỡng đoạt.
Chúng tôi cũng xin kêu mời đồng bào ở mọi châu lục khác hãy đồng loạt biểu tình trong cùng thời gian để bày tỏ ý chí và nguyện vọng chung của toàn thể dân tộc. Kính đề nghị tất cả mặc áo trắng in hình linh mục Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng và tay cầm ảnh các nhà đấu tranh đang bị cầm tù. Chúng tôi hy vọng rằng đây là một kinh nghiệm quý báu cho cuộc xuống đường vĩ đại của dân tộc Việt Nam trên chính quê hương đất nước trong một ngày không xa!
Gởi đi từ Việt Nam, ngày 13-06-2007.
Đại diện lâm thời Khối 8406:
Đỗ Nam Hải, kỹ sư, Sài Gòn
Trần Anh Kim, cựu sỹ quan, Thái Bình.
Phan Văn Lợi, linh mục, Huế
Đảng CSVN lại phong Thánh cho HCM, ÐỂ "BÁC" MÃI MÃI ÐƯỢC SỐNG TRONG QUẦN, CHÚNG TA
Sau ngày 30-4-1975, cộng sản VN làm chủ cả nước, đã hành xử như những đế quốc thực dân từng chiếm đóng nước ta buổi trước: Tàu, Pháp, Nhật... Vì đã tự coi mình là chủ nhân ông, nên chúng đã hủy bỏ tư cách làm người, làm dân của đồng bào Miền Nam chiến bại, từ vĩ tuyến 17 trở vào. Các lãnh tụ đảng mà gần hết thuộc thành phần bần cố nông đúng nghĩa, gặp dịp vàng ròng, nên ai nấy tha hồ chuyển vận tài sản của miền Nam, công cũng như tư, trong đó có 16 tấn vàng y và hằng trăm triệu đô la công khố quốc gia, ra Bắc để cùng chia chác làm của riêng, vì cho rằng đây là chiến lợi phẩm. Một nền kinh tế thời hậu chiến, do chênh lệch trình độ quá mức giữa hai miền Nam-Bắc, từ sự phát triển tới cung cách quản lý, đã đem tới kết quả thê thảm, gần như cướp bóc và phá hoại hoàn toàn tài nguyên của đất nước và tài sản đồng bào Miền Nam bị giặc đô hộ.
Cũng từ đó, xã hội VN xuất hiện thành phần thực dân đỏ, bao gồm nhà cầm quyền mới và nhân dân mới, hầu hết đều là người miền Bắc hay Miền Nam tập kết, cán bộ đảng, công an bộ đội và bọn nằm vùng, trở cờ miền Nam. Tất cả đều kiêu ngạo, lì lợm, tự phụ, vì đã nắm giữ hết các quyền lợi, truyền thống, tạo thành nếp sống mới, yêu nước là phải nhắm mắt hi sinh, bằng lòng chấp nhận xưng tụng, tôn thờ tổ quốc xã hội chũ nghĩa. Phận người Miền Nam chiến bại, thành hạng công dân thứ hai, bất kể ở thành phố hay nông thôn, nguỵ hay loại đâm sau lưng chiến sĩ ngày trước, sống lêu bêu bên lề cuộc sống đói nghèo. Thì ra cách mạng chỉ là sự thay ngôi đổi chủ, nhờ phương tiện máu xương của nhiều thế hệ và cuối cùng hầu hết những người có công giúp đảng, đều ôm nhau tủi nhục, trong cảnh đói nghèo, mất hết tất cả tự do kể cả quyền được làm một kiếp người rất bình thường, chỉ cần có cơm ăn áo mặc, một sự việc, nếu đem so sánh với cuộc nhân sinh qua các giai đọan lịch sử của dân tộc, thì còn tệ mạt cả trăm lần hồi Pháp thuộc, nói chi tới thời VNCH hai mươi năm, dù bị chiến tranh liên tục, nhưng đâu thấy ai đói cơm rách áo và bị bóp nghẹt đời sống riêng tư, ai phải làm dâu khắp xứ hay bán xác lao động như hiện nay, cho dù thời đó có một vài phụ nữ do hoàn cảnh chiến tranh đã phải làm vợ người ngoại quốc.
Tóm lại VC vì lượm được chiến thắng thật bất ngờ và quá dễ dàng tại Miền Nam, nên nhóm lãnh đạo cộng sản tại Bắc Bộ Phủ, càng kiêu căng phách lối, điên cuồng mơ mộng đến nổi thành mê muội. Cuối cùng đã nhận chìm cả nước vào vũng bùn xã nghĩa u tối tanh hôi. Có điều, chiến thắng là đồng nghĩa với sự chấm dứt viện trợ của các nước trong khối cộng sản đệ tam quốc tế. Ngoài ra, tới lúc VC phải bắt đầu trả nợ súng đạn mua chịu của Nga, Tàu, Ðông Âu. cùng tất cả những gì đã vay mượn trong quá khứ, cộng với tiền lời. Số nợ núi trên của đảng cộng sản, hoàn toàn chỉ dùng để làm phương tiện cưỡng chiếm cho bằng được Miền Nam, chứ không hề liên hệ tới công ích của đồng bào miền Bắc, vì trong suốt thời gian từ 1955-1975, Bắc Việt tức Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, chỉ có hai công trình vĩ đại, đó là Lăng Hồ ở Ba Ðình do Nga xây và Khách Sạn quốc tế tại Hà Nội, được Fidel Castro giúp. Tóm lại cả hai miền VN đều sống bằng ngoại viện, chứ không phải chỉ có miền Nam. Có điều chính phủ VNCH từ TT Ngô Ðình Diệm, các tướng Nguyễn Khánh, Nguyễn Cao Kỳ, cho tới TT Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương và cuối cùng la Dương Văn Minh, . tuy phải qui lạy xin quân viện Mỹ để có phương tiện chiến đấu giữ nước nhưng không hề có một cấp lãnh đạo nào, đã cắt bán hay bí mật nhượng đất đai của tổ quốc mình cho ngoại bang. Trái lại Việt Gian Cộng Sản, từ Hồ Chí Minh, Pham văn Ðồng, Lê Duẩn cho tới Ðổ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Ðức Mạnh, Võ Văn Kiệt, Trần Ðức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết... Tất cả từ lớn tới nhỏ, lúc nào cũng bí mật thậm thụt đủ điều, tìm đủ mọi cách mãi quốc cầu vinh để giữ đảng, giữ chức, đã bán đứng Hoàng Sa, Biên Giới Việt-Bắc và Biển Ðông cho giặc Tàu và ngoại bang, tới nay ai cũng biết. Ðây mới chính là điều sỉ nhục nhất trong giòng sử Việt.
Ðể tuyên truyền, lừa bịp quần chúng cũng như đầu độc dư luận trong và ngoài nước, nên từ khi xuất hiện cho tới nay, cộng sản VN luôn luôn tìm đủ mọi cách để chà đạp và hạ uy tín các chúa Nguyễn Ðàng Trong cũng như Nhà Nguyễn (1802-1945). Có làm như vậy, đảng mới đánh bóng và đưa Hồ Chí Minh lên tận mây xanh, đồng thời ngụy tạo được nhiều chứng liệu lịch sử để vu khống người xưa, mà điển hình là câu vè dưới nay, được đảng phổ biến ở miền Bắc VN trước ngày 30-4-1975:
"vạn niên là vạn niên nào?
thành xây xương lính, hào đào máu dân"
Ngày nay, qua cuộc phong trần, trước đống núi tài liệu và bằng cớ xác thực những hành động quan liêu, phong kiến, bán nước và hủ bại của những người cộng sản, nhất là trong cung cách suy tôn Hồ Chí Minh, kể cả đám táng, cái xác thối nằm ở Ba Ðình và những tuyên truyền lố lăng coi thường dư luận trong và ngoài nước, đặc biệt là việc phung phí công khố quốc gia, để bảo quản suốt mấy chục năm qua cái xác ướp của Hồ, rồi còn lập chùa, đúc tượng đồng mạ vàng thật, để Hồ chễm chệ ngồi ngang hàng với Phật-Thánh và Quốc Tổ Hùng Vương, hiện nay diễn ra khắp nước mà lố lăng nhất là đám phường chèo đang bày trò khỉ đột, tại một ngôi chùa quốc doanh trong tỉnh Bình Dương. Do trên dân chúng VN lại hát:
"Ba Ðình còn gấp chục lần,
Dân đen gãy cổ, mát thân cụ Hồ. "
Không có gì tồn tại với thời gian, ngoại trừ xú danh bia truyền muôn thuở, cho nên ta cũng đừng bận tâm làm gì những mất mát trong thời loạn. Ðược làm vua, thua là giặc, như là một biện chứng bi thảm trong thời đại chúng ta phải chứng kiến, do các tên giặc cỏ, được thời cơ, dành giựt công lao và xương máu của toàn dân suốt thời kỳ đánh đuổi thực dân Pháp, mục đích cũng chỉ để cải thiện cuộc sống cơ cực bần hàn, của một lớp người không còn biết làm gì hơn là nghề chém thuê giết mướn.
Bây giờ, trước cánh cửa tri thức, điện toán và trên hết là sự giải mật phần lớn các tài liệu có liên hệ tới những lãnh tụ chính trị, trong đó có đảng cộng sản VN, từ lúc chưa ăn thôi nôi, năm 1930 tới tận ngày nay. Hơn nữa, dù VC đang siết cổ họng để bịt miệng dân chúng trong nước bằng súng đạn và ngục tù, nhưng thực tế chẳng ai sợ ai, khi cái chính sách công an khu vực, hộ khẩu và phiếu tem cung cấp lương thực đã không còn giá trị trên kinh tế thị trường. Có tiền mua tổng bí thư và đảng cũng được, như bác Năm Cam đã làm, thì chuyện sang Mỹ du hý và vào Tòa Bạch Ốc để bắt tay các yếu nhân Hoa Kỳ cùng Tổng Thống G. W. Bush vào năm 2005 của Phan Văn Khải và Nguyễn Minh Triết sắp tới vào tháng 6-2007, xét cho cùng, cũng đâu có gì là kinh thiên động địa, nhất là từ khi cựu Tổng Thống Mỹ Bill Clinton đã biến Bạch Cung thành một siêu khách sạn, mở cửa đón nhận tất cả mọi người vào ăn chơi nhậu nhẹt, kể cả ngủ đêm, miễn sao trả đủ tiền nong thuế má đã được ấn định sẵn là xong chuyện
Bởi vậy khi đọc qua những tài liệu có dính líu tới lịch sử, đã cho nhiều cảm xúc bất ngờ. Hơn ai hết, người Bình Thuận-Phan Thiết, không biết trời xui đất khiến, tạo nên nghịch cảnh éo le, trong màn kịch đồng song, chung khoá giữa cử nhân Trương Gia Mô với Phó Bảng Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Nguyễn Sinh Sắc. Rồi thì trong một chuyến đưa bạn Trần Quý Cáp tới nhiệm sở Ninh Hòa, thẳng đường vào Phan Thiết, gây cho hậu thế trăm năm sau, cái họa "anh thanh niên Nguyễn Tất Thành" dạy học tại trường Dục Thanh và sau đó xuất dương tìm đường cứu nước. Người Phan Thiết vô cớ lãng xẹt, phải làm nhân chứng bất đắc dĩ của một thời đại nhiễu nhương ba xạo. Buổi trước ông cha ta, vì bản chất an phận thủ thường, và trên hết là do nghịch cảnh một tròng bốn cổ, nên phải giả vờ lấy vải thưa che mắt thánh, để miệng hoan hô đã đảo loạn ngầu cho an thân. Trò hề trống đánh xuôi kèn thổi ngược hòa đồng trong tiếng trống chầu của bọn hề chèo ngông nghênh viết lách, nhiều chuyện trên trời dưới biển, vu vơ sáo rỗng, chỉ có tác động tuyên truyền ra oai, làm cho người nay càng bi phẫn khinh miệt. Lịch sử, nhất là lịch sử VN, đã dạy cho hậu thế nhiều đạo lý làm người, nhất là trong thời đại mạt pháp, mạt vận của dân tộc đang ngoi ngóp trong vũng bùn xã nghĩa.
Năm 1989, qua những khuôn mặt đấu tranh như Lech Walesa, Vaclav Havel... từ Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung, Lỗ... khiến cho các chế độ cộng sản đệ tam tại Ðông Âu, lần lượt sụp đổ. Năm 1990 nước Ðức thống nhất sau khi Ðông Ðức từ bỏ thiên đàng xã nghĩa và đập nát bức tường ô nhục Bá Linh. Cuối cùng tại Liên Xô, đất tổ và sào huyệt của Ðệ Tam CSQT, chẳng những chế độ cộng sản bị diệt tuyệt, mà tính đến tháng 8-1990, đã có 13 trong số 15 nước Cộng Hòa trực thuộc Liên Bang Xô Viết, tuyên bố tách rời và độc lập hoàn toàn. Như vậy trên thế giới chỉ còn lại bốn thiên đàng xã nghĩa là Bắc Hàn, Cu Ba, Trung Cộng và Việt Cộng, từ đó đến nay, qua bao nhiêu năm, dựa vào tư bản, để cố lội ngược thời gian, tiến thẳng lên cách mạng xã hội chủ nghĩa... như luận cương của đệ tam quốc tế cộng sản đề ra năm 1930.
Tại VN, sau khi chủ thuyết Marx-Lenin bị nhân loại quăng vào sọt rác, đảng vội vã vơ vét lại những lời nói của Hồ cách đây hơn nửa thế kỷ trước, và gọi đó là "Tư Tưởng Hồ Chí Minh", vừa để dụ khị bọn cán bộ trung kiên già nua đang chao đảo trước cuộc đổi đời, vừa lừa gạt thế giới rằng là đảng ta độc lập, không liên hệ gì tới chủ nghĩa LêMarx... Nói một cách tử tế không cần úp mở, VC khi cho Hồ Chí Minh bật dậy sống lại với đảng, để khẳng định một đường lối cho đất nước, bằng thứ tư tưởng có hơn nửa thế kỷ trước, đã lỗi thời trước sự tiến hóa của nhân loại, chẳng qua cũng chỉ mượn miệng Hồ, để khẳng định: "Quyết tâm của VC là tiêu diệt các hình thức sở hữu không thuộc xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế riêng rẽ trở thành thuần nhất và trên hết chế độ sở hữu của toàn dân, là không ai có được của riêng vì nhà nước là chủ tất cả từ người tới của cải vật chất... "Ðã coi chủ nghĩa Marx-Lenin là lỗi thời, đã biết Hồ Chí Minh một đời gây ra không biết bao nhiêu là tội ác và nỗi bất hạnh trầm thống cho dân tộc, đã biết xã hội chủ nghĩa là đói nghèo và huyễn hoặc, đã phải quì gối van lạy người Việt tị nạn cũng như thế giới văn minh của loài người, để cứu đảng. Thế nhưng VC chứng nào tật nay, không bao giờ biết nghĩ tới dân tộc và non sông, không bao giờ chịu thành tâm ăn năn sám hối trước biển tội ác, vẫn cứ tiếp tục làm tôi tớ cho ngoại bang Nga-Tàu, kể cả Mỹ-Nhật và bọn Tàu Trắng, Nam Hàn. Trò hề kéo xác chết Hồ ra khỏi nhà mồ vĩ đại Ba Ðình, xây chùa tạc tượng, bắt mọi người sùng bái như Phật-Thánh, chẳng qua chỉ để dựng lại những huyền thoại tưởng tượng, tuy có gây chút hào khí nơi bọn đảng viên VC già nua trong nước và một đám Việt gian trí thức, ăn chén đá bát, no cơm rửng mỡ nơi hải ngoại, thì cũng không thể dấu nổi Sự Ngiệp Vĩ Ðại Bán Nước và làm tôi tớ cho Nga Tàu, của Cáo Hồ và đồng đảng trong bảy mươi lăm năm qua...
+ ÐI TÌM CHÂN TƯỚNG HỒ CHÍ MINH, QUA CÁC LỐI MÒN TRONG THÂM CUNG BÍ SỬ DƯỚi TRIỀU HỒ:
Tới bây giờ, dù sự thật lịch sử VN đã gần như phơi bày toàn vẹn trước ánh sáng của nhân loại nhưng trong nước, hầu hết người dân kể cả người miền Bắc, vẫn không biết đích thực" Hồ Chí Minh" là ai ? vì từ lúc ra đời với cái tên Nguyễn Sinh Cung (Cuông), tới năm 1942 Hồ đã thay tên đổi họ tới 26 lần (Nguyễn tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, Linov, PC Lin, Hồ Quang, Vương Quốc Tuấn, Sáu Sán, Hồ Chí Minh...). Năm 1944 Hồ từ Côn Minh về nước, lúc đó chỉ mới 53 tuổi nhưng bắt buộc mọi người gọi mình là "Cụ". Nhưng Trần Huy Liệu đang làm trưởng ban tuyên truyền của đảng, nghe các cán bộ gốc Thanh, Nghệ, Tỉnh mỗi khi gọi Hồ là "Cụ" lại phát âm như không có dấu nặng, nên âm thanh rất chướng tai và bất nhã. Do đó Ðảng không cho mọi người gọi Hồ là "Cụ" mà đổi thành "Bác" từ đó.
Về chuyện tếu có liên hệ tới việc dân ta đã gọi "bác Hồ" là Người, cũng lại được chính Hồ sáng tạo như đã tự mình viết sách ca tụng mình. Ðể nhận chữ Người, Hồ bịa chuyện từ định nghĩa "Nhân là thật thà yêu thương, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào", nên chữ nhân này là Ðức Nhân, chứ không phải là chữ Nhân thông thường, dùng để chỉ con người. Hởi ơi sự đời tráo trở đến thế là hết ý, vì ai cũng biết "Nhân giả nhân dã" của triết lý Ðông Phương tự ngàn đời, nói về "Ðức Người". Chính Khổng Phu Tử cũng đã nhận rằng "Nhân viễn hồ tai, ngã dục nhân tư nhân chí hĩ" ý ngài nói lòng Nhân đâu ở xa, nếu ta muốn thực hiện, thì sẽ có ngay trước mặt. Ngoài ra ai cũng biết "Ðức Nhân" là sự kết tụ tinh túy của mọi đức tính khác của con người như Trung, Tín, Trí, Dũng, Nghĩa, Lễ, Cương Nghị, Hiền Lành... Hồ Chí Minh suốt một kiếp người, từ khi xuất dương năm 1911 tới lúc nhắm mắt năm 1969, là một kẻ xảo ngôn, phô sắc, gian ác, hiểm độc, bán nước, phản dân tộc, xét về tư cách và hành động, đích thật là một tiểu nhân. Như vậy đương sự lấy gì, để tự mình cuồng điệu về Ðức Nhân, Lòng Khoan Hồng Ðại Ðộ cùng với sự Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Công Bằng... để bắt buộc mọi người gọi Mình là Cụ, Bác và Người (viết Hoa).
Sau ngày 30-4-1975, bộ mặt thật của Hồ và Ðảng CSVN lần lượt rơi rớt vì đã hết cơ hội, để "Bác" tạo thêm sự nghiệp cứu nước, khi đòi độc lập và thống nhất cho quốc gia dân tộc. Tất cả đã trở thành phường chèo trước mắt của đồng bào miền Nam, khiến cho không ai, kể cả đám văn nô quốc doanh, còn dám bẽ cong ngòi bút, để tuyên truyền dụ dổ những người nhẹ dạ nhắm mắt chạy theo Hồ và đảng Cộng Sản như thuở hồng hoang buổi trước:
"đồng bào hãy vùng lên
quyết tâm theo bác Hồ
nông dân sẽ có đất
người nghèo sẽ có ăn
gạo lúa sẽ đầy sân... ".
Bởi vì các thế hệ VN, kể cả lớp người sinh sau cuộc chiến, đâu có ai quên được những cuộc thanh trừng đẵm máu của Hồ và phe cánh, đối với những người được gọi là đồng chí đồng đảng, để tranh giành quyền lực, trong thâm cung bí sử triều Hồ. Ai quên được sự sát hại người Quốc Gia của Hồ, trong Mặt Trận Việt Minh và những lần hòa hợp, hòa giải Quốc-Cộng, suốt chín năm kháng Pháp. Ai quên được Hồ ra lệnh tàn sát hằng triệu đồng bào vô tội ở miền Bắc, qua chiến dịch cải cách ruộng đất vào thập niên 50, mà trong số này có rất nhiều người đã từng xả thân chống Pháp, để dành độc lập cho dất nước và nửa mảnh sơn hà cho Hồ. Ai quên được xương máu VN của cả hai miền Nam Bắc, khi Hồ bày trò "Ðánh Mỹ-Ngụy cứu nước". Thảm tuyệt nhất trong lịch sử Việt, cũng vẫn là những vụ tàn sát đồng bào vào Tết Mậu Thân 1968 tại Huế, trên các đại lộ kinh hoàng Quảng Trị-Huế, Bình Ðịnh, Kon Tum-Pleiku và Bình Long-An Lộc năm 1972 và khắp VNCH vào những ngày tháng 4-1975. Ai quên được các cuộc tàn sát trả thù Quân Công Cán Cảnh VNCH của CS Hà Nội sau ngày 30-4-1975, các cuộc cướp giựt tài sản đồng bào Miền Nam VN qua những lần đổi tiền, đánh tư sản, xuất cảng người vươt biển, lao động, làm điếm... để Hồ và Ðảng hoàn thành sự nghiệp cách mạng vô sản quốc tế, đưa đất nước lên Xã Hội Chủ Nghĩa.
Ðó cũng là lý do Dương Thu Hương đã dám viết "Dân tộc VN tự ngàn xưa bao nhiêu lần ngăn chống giặc Tàu phương Bắc để giữ và cứu nước. Ho luôn cần tới những vi anh hùng dân tộc như Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung... chứ đâu có ai cần tới Ðảng CS và lãnh tụ Hồ Chí Minh". Còn Trần Văn Giàu, một Việt Cộng gộc có tới 60 tuổi đảng, trước sự tan rã của chủ nghĩa CS Ðệ Tam tại Ðông Âu, Ðông Ðức và Liên Xô, nên không còn biết làm gì hơn để gỡ gạc, vì vậy trong lần hội nghị của Trung Ương Ðảng VC vào tháng 6-1992 tại Hà Nội, Giáp đã thẳng thừng đề nghị Bắc Bộ Phủ hãy quăng cái lý luận Mac Lê lỗi thời vô dụng vào sọt rác, như nhân loại vừa làm, bởi đồng bào VN cả nước đang đói rách ngu nghèo, nên không còn ai muốn nghe thêm lời Ðảng tuyên truyền nữa. Tuy nhiên nhức nhối và nhục nhã nhất đối với VC, đó là sự kiện cơ quan UNESCO của tổ chức Liên Hiệp Quốc, trước sự chống đối của Cộng Ðồng Người Việt Tị Nạn CS khắp trên thế giới, cũng như dư luận toàn cầu. Nhờ đó Họ đã nhìn rõ con người Hồ và bộ mặt thật của Ðảng CSVN suốt thời gian qua, nên quyết định hủy bỏ Việc Vinh Danh Hồ là Vĩ Nhân theo đề nghị của Ðảng, qua lần sinh nhật thứ 100 của Ðảng CS. Tóm lại từ sau ngày 30-4-1975, bộ mặt thật của Xã Hội Chủ Nghĩa VN đã gần như phơi bày một cách trần trụi khắp nước, nhờ đó mọi người mới thấu triệt được "sự nghiệp cách mạng của Hồ" suốt 75 năm qua, chủ yếu dựa trên nền tảng của "Thần Quyền" để trấn áp mọi người. Ðiều này cũng dễ hiểu vì Hồ vốn xuất thân từ lò chính trị "Ðông Phương Hồng" do Lê Nin sáng lập. Trong khi đó họ Lê trước khi lập Ðảng CS chống lại Nga Hoàng, vốn xuất thân từ giới quý tộc, nên đã nhận thức rõ ràng về giá trị thần quyền của tín ngưỡng. Vì vậy Lê Nin đã tôn giáo hóa lập thuyết kinh tế chính trị của cả Mark và mình, tổng hợp thành "Học Thuyết Mác Lê" để các nước Xã Hội Chủ Nghĩa trong đó có Ðảng CSVN, đã được Hồ và các lãnh tụ khác mang về nước, làm thành Ý Hệ Cầm Quyền cho tới mgày nay vẫn không có gì thay đổi.
Ðó là tất cả nguyên lý bất khả phân của Ðảng CSVN, suốt 75 năm qua, tự coi mình như là một thần tượng, một thứ Tôn Giáo qua giáo lý "Bác Hồ chỉ Một, Ðảng không thể Hai", có vậy mới Thần Hóa Ðảng, Thánh Hóa Nhà Nước... để Ðảng và Nhà Nước thay Trời cai trị cả nước, theo đường lối chính sách Giáo Ðiều, cấm không cho ai được chỉ trích phê phán. Bởi vậy dưới triều đại Thiên Ðàng Xã Nghĩa, toàn bộ quyền lực các cấp thuộc Ðảng đều "Bất Khả Xâm Phạm", đặc biệt Hồ Chí Minh, đã hóa kiếp thành Thần Linh ngay lúc còn sống, nên khi chết phải có lăng tẩm Ba Ðình và tạc tượng đem vào thờ phụng trong các đình chùa cả nước. Sự tâng bốc Hồ của Ðảng CSVN qua núi tài liệu Ðảng vừa công bố, cho thấy Hoàng Ðế Ðỏ Hồ Chí Minh khi băng hà tới nay, đâu có thua gì bạo chúa Tần Thỉ Hoàng của Tàu hơn 2000 năm về trước.
Nhưng Hồ Chí Minh là ai, tới bây giờ đố ai biết hết, ngoại trừ chính bản thân của đương sự. Vì chỉ riêng năm sinh của "bác" theo các tài liệu hiện hành đã có tới năm thời điểm khác nhau như 1890, 1891, 1892, 1894 và 1895. Trong thông hành vào Liên Bang Sô Viết lần đầu, Hồ mang tên Nguyễn tất Thành bí danh Chen Vang, sinh năm 1895. Năm 1920, Hồ qua thông hành mang tên Nguyễn Ái Quốc, sinh năm 1894. Sau khi cướp được chính quyền vào tháng 9-1945, Hồ Chí Minh công bố vào năm 1946, sinh ngày 19-5-1890. Về ngày sinh của Hồ là 19-5 cũng là huyễn hoặc, được ngụy tạo vì nhu cầu chính trị mà thôi. Theo nhiều nguồn tài liệu được phổ biến, thì sở dĩ Hồ bịa ngày sinh của mình là 19-5, để hôm đó bắt nhân dân Hà Nội mở hội hoa đăng, nói là ăn mừng sinh nhật Hồ, mặt thật là để đón tiếp Cao Ủy Pháp là Ðô Ðốc D'Argenlieu khi hắn tới nơi này. Cũng nhờ có cuộc đón tiếp long trọng trên, mà Hồ và thực dân Pháp đã đạt được sự dồng thuận, cho phép quân Pháp từ Sài Gòn đổ bộ lên đất Bắc, tiếp tục gây chến tranh. Có như vậy Hồ mới nhân danh là lãnh tụ Mặt Trận Liên Hiệp Việt Minh, kêu gọi đồng bào cả nước kháng chiến chống Pháp từ cuối năm 1946. Còn Pháp thì vin vào cớ Việt Minh gây chiến, nên phải đánh nhau, chứ không phải vì muốn cướp nước VN như dư luận thế giới đã lên án.
Ngoài ra để danh chánh ngôn thuận như Phạm Văn Ðồng thường nói "Bác là ánh sáng dân tộc". Bắc Bộ Phủ đã sửa soạn cho Hồ rất chu đáo trước khi ra diễn tuồng, Ðảng ra lệnh cho Cao Xuân Huy, Ðào Duy Anh, Trần Văn Giáp... ngay từ năm 1956, phải ngụy tạo cho "bác" một lá số tử vi, thật le lói vì có chân mạng đế vương, cốt cách thần thánh. Có vậy Hồ mới tuyên truyền dụ dỗ được dân chúng Miền Nam theo Ðảng đánh Mỹ-Ngụy cứu nước.
Về tướng diện của Hồ Chí Minh, qua các bức ảnh cũ trên báo chí sách vở lưu hành trong và ngoài nước, trước năm 1955 là niên lịch Hồ sang Nga sửa sắc đẹp. Theo tướng mệnh học, thì mặt Hồ thuộc loại tứ phủ trơ xương, râu lơ thơ như râu tôm kho có thể đếm được. Trong các giác quan, đôi tai không thay đổi từ lúc sinh ra cho tới chết và là biểu hiện đặc tính của con người. Tai Hồ to thuộc loại luân quách phản, đó là tướng của người bất nhân độc ác. Do hình tướng như vậy, nên trước năm 1955, mọi người xếp Hồ vào loại "Mặt Dơi Tai Chuột". Và dù sau đó qua Nga sửa mặt, cấy râu cấy tóc để có dung nhan của cha già dân tộc Nhưng tai Hồ cho tới khi chết vẫn là tai chuột, vì khoa học thẩm mỹ thời đó bất lực.
Lịch sử là sinh mệnh của dân tộc, nhờ nó mà người miền Bắc mới biết được sự tàn khốc của chế độ Cộng Sản, khi Hồ và Ðảng chiếm được nửa nước VN từ bên kia cầu Hiền Lương chạy lên tới biên giới Hoa-Việt qua Hiệp Ðinh Ngưng Bắn Genève năm 1954. Rồi ngày 30-4-1975 quân Bắc Việt vào Sài Gòn và từ ấy đến nay (2007) nhờ lịch sử, người Miền Nam mới biết rõ bộ mặt thật của Hồ và Ðảng là gì ? Cho nên dù người Việt trong nước hôm nay vì bị bóp họng bịt miệng khóa tay nên đã không thể ghi được những câu chuyện thật của cận sử nhưng họ đã dồn hết biển thù quốc hận suốt bao chục năm qua, thành những vết hằn lịch sử vong quốc trên từng khuôn mặt, khóe môi, vừng trán, ánh mắt kể cả nụ cười của người dân đang sống dưới cùm gông nô lệ. Ðó mới chính là sự bảo lưu quá khứ để biến thành cái "Thần" của Việt Sử, một sự trái ngược hoàn toàn với những câu chuyện "Sử Ngụy Tạo" của bồi bút Ðảng dành tâng bốc và phong thánh cho lãnh tụ Hồ Chí Minh.
+ CHUYỆN DÀI CỦA HOÀNG ÐẾ HỒ CHÍ MINH QUA SÁCH BÁO ÐẢNG:
Cõi thế vốn vô thường nên con người từ xưa tới nay không ai có thể thoát được qui luật tử sinh, một điều tất yếu cho dù ai cũng đều khao khát đến sự vĩnh cửu trường tồn, để kéo dài thêm sinh mệnh như trời đất. Ðể đạt được khát vọng trường sinh bất tử, vua chúa Tàu ngày xưa đã không ngớt đi tìm linh đan thần dược, giúp họ trở thành thiên thu bất hoại. Tư Mã Thiên trong Sử Ký, có ghi lại cái chết đột ngột của Tần Thỉ Hoàng khi đi tuần thú tại Sa Khâu. Lúc đó thừa tướng Lý Tư sợ có biến loạn, nên không phát tang và bày kế cho người gánh cá thối đi kềm theo xe chở xác nhà vua, để che mắt văn võ bá quan theo hộ tống. Bức tranh vân cẩu trên đầy mai mỉa và bi thảm, nói về lòng tham vô đá của con người.
1955-1975, Hồ Chí Minh làm hoàng đế nửa nước VN nên đảng mặc sức tuyên truyền, chẳng những bằng hò vè thơ truyện, mà còn đề ra sách lược đánh bóng và đưa lãnh tụ lên tận mây xanh, trong đó có những bịa đặt lịch sử địa chất liên quan tới dân tộc Việt ngay từ thời Tổ Hùng dựng nước Văn Lang. Ðây là mục đích chính của đảng CSVN, vì các vua Hùng được chứng minh là có thật trong lịch sử Việt, chẳng qua để tạo cơ hội cho Hồ có dịp nói "Các vua Hùng đã có công dựng nước, "bác" cháu ta phải cùng nhau giữ nước". Có như vậy, Hồ mới theo chân Lê Nin, Stalin cũng ướp xác, xây lăng như các bậc đế vương thời trước, bắt quần chúng rồng rắn xếp hàng chờ vào thi hành bổn phận "chiêm ngưỡng một xác ướp". Thật sự chuyện Hồ và đảng CS lợi dụng lịch sử vào mục đích chính trị, xét cho cùng cũng đã xa xưa như trái đất nhưng điều đang nói ở đây là những mẩu chuyện có liên quan tới Hồ, đã trở thành kinh nhật tụng cho đảng và cả một hệ thống quan lại cung đình mới, đã dùng truyền thống theo một dụng ý trục lợi, đã khiến cho ai đọc tới cũng thấy xấu lây và đau xót, phần chính không phải vì Miền Nam đã bị Hà Nội cưỡng chiếm vào trưa ngày 30-4-1975, mà còn phải bắt buộc tiếp nhận một hình tượng ác quỹ là Hồ Chí Minh, được đảng nâng vai trở thành "vị cha già dân tộc" và mang tên của một thành phố xinh đẹp quan trọng vào bậc nhất của nước Việt.
+ Những ngày tháng cuối cùng của Hồ Chí Minh:
Báo đảng viết, kể từ tháng 5-1967, sức khỏe của Hồ càng ngày càng sút kém, nên bộ chính trị do Lê Duẩn chủ trì, đã mở cuộc họp bí mật, bàn về việc giữ xác Hồ lâu dài khi hắn về chầu tổ Mác. Có làm vậy, đảng qua Duẩn, Thọ, Ðồng... mới tiếp tục sử dụng được sự mù quáng cuồng tín của cán binh bộ đội, đang sinh bắc tử nam, giúp đảng hoàn thành sứ mệnh nghĩa vụ quốc tế. Dịp này đảng sai Lê Thanh Nghi sang Liên Xô, để điều đình về việc dạy nghề ướp xác chết cho cán bộ y tế VN, còn Nguyễn Lương Bằng được giao nhiệm vụ trực tiếp nuôi bệnh và chăm sóc Hồ vào những ngày cuối đời. Cũng theo lời đảng nói, thì Hồ có để lại di chúc, muốn hỏa táng thi hài sau khi chết nhưng đảng lại muốn ướp xác Hồ để sống mãi với thời gian. Sau thảm bại Tết Mậu Thân (1968) tại Miền Nam, Hồ tuyệt vọng đến nỗi bị nhồi máu cơ tim. Tháng 5-1969 Hồ sửa lại bản di chúc viết từ năm 1965, được coi như một tài liệu tối mật, vì cho tới giờ, ngoài Hồ và đám cận thần quyền thế lúc đó như Duẩn, Tho... chưa ai biết được Hồ muốn gì, thì làm sao khẳng định là "bác" thích hỏa táng (?) để biệt tích, đối với một kẻ đầy tham vọng và hám danh như Nguyễn Tất Thành. Cuối cùng, lúc 9 giờ 47 ngày 2-9-1969, Hồ về nước Thiên Ðường Xã Nghĩa gặp lại tổ Lê Mác.
Ngay từ tháng 5-1969, dù Hồ còn sống nhăn răng nhưng đảng đã chuẩn bị sẵn mọi nghi lễ đặc biệt dành cho đám táng, trong đó có phần âm nhạc suy tôn công đức cứu nước của "bác". Quang Hải, một nghiên cứu sinh âm nhạc, vừa tốt nghiệp ở Liên Xô về, được Nguyễn Xuân Khoát và Ðỗ Nhuận, là lãnh đạo Hội Nhạc Sĩ Miền Bắc lúc đó, giao cho công tác soạn thảo các bài hát cũng như phần hòa âm, để phổ biến trên các đài phát thanh trong và ngoài nước, phần âm nhạc sử dụng nơi quàng xác Hồ và phần truy điệu tại quảng trường Ba Ðình. Vào hạ tuần tháng 8-1969, đảng ra lệnh tập trung tất cả các đơn vị văn công lúc đó như Ban ca nhạc của Ðài phát thanh Hà Nội, các nam nữ nghệ sỹ tại Nhà hát giao hưởng, hợp xướng, nhạc vũ kịch Miền Bắc, nhà hát ca múa, Ðoàn ca múa Tổng cục chính trị... tất cả hơn 300 người. Tất cả làm việc ngày đêm dưới quyền điều khiển của Quang Hải, Trần Quý, Ðổ Dũng, Cao Việt Bách... để sáng tạo những ca khúc theo toa đặt hàng của đảng, với yêu cầu chỉ tiêu phải viết sao cho thật bi thương cùng tận. Có như vậy, đảng qua đám tang của Hồ, mới tiếp tục "chiêu hồn" những cán binh đang "sinh bắc tử nam" ở bên kia vĩ tuyến.
+ Ðem Xác Hồ Chi Minh Lên Biên Giới Hoa Việt (1969-1975):
Tại Miền Nam VN, ngày 4-9-1967, liên danh Thiệu-Kỳ đắc cử tổng thống VNCH, chấm dứt những xáo trộn chính trị liên tục từ 1964-1967. Nhờ vậy mà QLVNCH đã lấy lại tinh thần chiến đấu, chẳng những đã bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ, trước sự gia tăng xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt, mà còn đứng vững trước sự tấn công lén của Hà Nội vào dịp hưu chiến Tết Mậu Thân (1968). Trong cuộc tổng công kích này, Bắc Việt tung hơn 184. 000 cán binh, đồng loạt tấn công vào 36 tỉnh, 64 quận, 50 xã và 5 thành phố lớn, trong đó có thủ đô Sài Gòn của VNCH. Nhưng chúng đã chuốc lấy thảm bại nặng nề về nhân mạng, với số thương vong của hai lần tổng công kích, lên tới 111. 036 người.
Tại Bắc Việt, bắt đầu ngày 29-5-1966, tổng thống Johnson ra lệnh oanh tạc trở lại lãnh thổ miền Bắc. Theo thống kê của cả hai phía (Mỹ và Bắc Việt), trong khoảng thời gian từ 1965-1968, Hoa Kỳ đã oanh tạc khắp lãnh thổ Bắc Việt. Ngày 13-2-1967 tổng thống Johnson tuyên bố Mỹ chỉ ngưng oanh tạc khi nào quân Bắc Việt hết xâm nhập vào Nam VN. Từ tháng 2-1967 tới 5-1967 Mỹ leo thang các cuộc oanh tạc tại Hà Nội, Hải Phòng, Sơn Tây, Thái Nguyên. Cuộc oanh tạc Miền Bắc tạm ngưng từ ngày 29-9-1967 khi Bắc Việt chấp nhận hòa đàm với Mỹ tại Ba Lê.
Ðó là lý do khiến Bắc Bộ Phủ phải đem thi hài của Hồ lên quàng tại một địa điểm vô cùng bí mật ở gần biên giới Hoa Việt. Ðọc báo đảng mới phổ biến gần đây, cho biết từ tháng 9-1967 sức khỏe của Hồ dần mòn giảm sút, thậm chí còn bị liệt nửa thân sau khi từ Thái Bình về. Do đó Lê Ðức Thọ, đã chỉ thị cho các bác sĩ VC lúc đó như Nguyễn Gia Quyền, Lê Ngọc Mẫn, Lê Ðiều sang Liên Xô để học phương pháp ướp và bảo trì xác chết. Ba người đáp xe hỏa từ Ga Ðồng Ðăng (Lạng Sơn VN), sang Bắc Kinh và tới Mạc Tư Khoa ngày 14-9-1967. Tuy nhiên Liên Xô chỉ dạy cho các bác sỹ trên phương pháp ướp giữ thi hài người chết từ 15-20 ngày đầu mà thôi. Tất cả còn lại đều do người Nga đảm trách, từ ấy cho tới bây giờ không có gì thay đổi.
Tháng 6-1968, Quân Ủy Trung Ương VC phối hơp các cục Quân Y và Công Binh, lập một phòng ướp xác dành cho Hồ tại Quân Y Viện 108, đồng thời các kỹ sư Liên Xô cũng đang thực hiện đồ án thiết kế Lăng Hồ tại Quảng trường Ba Ðình (Hà Nội). Phòng ướp và giữ xác Hồ mang bí danh 75A, được Trung đoàn 259 Công Binh Bắc Việt thực hiện xong vào cuối năm 1968. Tháng 3-1969, Vương Quốc Mỹ lại được lệnh đảng sang Liên Xô học nghề xây lăng mộ LêNin, đồng thời Công Binh thuộc công trình 75 B cũng gấp rút làm một chiếc hòm kính đặc biệt, dày, trong suốt và không gợn sóng. Câu chuyện khôi hài cười ra nước mắt, là chẳng những phải làm hòm để chứa xác Hồ, mà còn phải bảo toàn "đôi dép râu của bác", vì vậy công binh lại phải làm thêm một hòm kính nhỏ. Chưa hết, đảng còn bắt 150 bộ đội thuộc lữ Ðoàn 144 ngày đêm chỉ lo chuyện tập dượt các nghi thức chào kính, rập khuôn theo lính Nga trong Ðiện Cẩm Linh, để chuẩn bị tang lễ cho Hồ. Riêng đội quân Tô Bia gồm 16 cán binh, hằng ngày tập luyện các động tác khiêng linh cữu, bằng một hòm gỗ Ngọc Am nặng trên 200 ký, thêm hai tạ gạo bên trong. Ngoài ra còn có các bộ phận khác canh giữ khu vực 75 A, toán hộ tống xác Hồ từ Phủ Chủ Tịch tới Quảng trường Ba Ðình... Tóm lại đọc báo VC và xem phim Tàu, nếu đem so sánh thì đám táng của Tần Thỉ Hòang ngày trước còn thua xa tang lễ của Hồ Chí Minh.
Ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời trong căn phòng nằm sâu dưới lòng đất, trong khi dó đoàn chuyên gia y tế của Liên Xô đã tới Hà Nội vào cuối tháng 8-1969, nên đã kịp thời bảo quản xác Hồ qua giai đoạn đầu, từ tóc râu mặt mũi cho tới hai tai chuột, không cho biến dạng, qua các hóa chất, thuốc sát trùng cực mạnh và tia quang tuyến màu tím. Sau cùng vào lúc 8 giờ tối đêm 5-9-1969, xác Hồ được đưa từ Quân y viện 108 ra Hội trường Ba Ðình với sự hiện diện của Ðồng, Duẩn và văn võ bá quan đất Bắc.
Cuối năm 1969 Nixon sau khi đắc cử tổng thống Mỹ, đã leo thang chiến tranh VN. Lo sợ Hà Nội bi oanh tạc làm hủy hoại xác ướp của Hồ đang quàng tại công trình 75A. Do đó Ðảng quyết định di chuyển quan tài Hồ lên dấu tại một địa điểm vô cùng bí mật có ám số là K9, nằm trên một ngọn đồi thông ở một tỉnh tượng du, gần biên giới Hoa Việt. Dù tới bây giờ, đảng vẫn không cho biết đính xác địa điểm như qua sự mô tả trong các bài viết, có thể đoán, đó là Bắc Kạn, nơi có Hồ Ba Bể nổi tiếng. Ðây cũng chính là nơi nghỉ mát của cán bộ cao cấp đảng, được Tổng Cục Hậu Cần xây cất từ năm 1960. Trong khu vực còn có một ngôi nhà sàn là nơi hội họp của Hồ và Bộ Chính trị, cùng với một hệ thống phòng thủ vô cùng kiên cố. Ngoài ngôi nhà kính trên mặt đất là chỗ quàng xác Hồ, Ðảng còn làm thêm một căn phòng chứa xác khác, cũng đầy đủ tiện nghi dành cho xác ướp, nằm sâu trong lòng núi đá, đề phòng tránh Mỹ có oanh tạc. Một hệ thống đường ray trong đường hầm, để chuyển vận hòm kính đựng xác Hồ lên xuống khi cần. Tất cả các công trình được hoàn thành vào ngày 15-12-1969. Lại để giữ bí mật tuyệt đối, đảng cho đổi K9 thành K84 và bí số này được giữ nguyên cho tới khi xác ươp Hồ được di chuyển về Lăng Ba Ðình Hà Nội.
Giai đọan chót là việc di chuyển xác Hồ từ Hà Nội lên K84 bằng đường bộ. Một chiếc xe vận tải lớn hiệu Zin 137, loại 3 cầu của Nga, được thiết kế như một phòng lạnh trong bệnh viện, dùng để chở chiếc hòm kính chứa xác ướp Hồ. Lữ đoàn 144 Công binh nhận trách nhiệm sửa sang đường xá cầu cống và xóa sạch những dấu vết khi đoàn quân chở xác đã đi qua, trên đoạn đường từ Hà Nội tới K84. Qua sự hướng dẫn của các cố vấn Nga, cơ xưởng Công binh 49 lại phải làm thêm hai chiếc hòm kính nữa, một dành đựng xác Hồ khi di chuyển, một chứa nước hóa chất đặc biệt để rửa thi thể Hồ. Ðể giữ cho thân xác "bác" không bị xóc khi di chuyển, Ðảng lại bắt những người phụ trách lái chiếc Zin 157 phải thực tập ròng rã trong đêm tối, đi về trên đoan đường sắp sử dụng, qua sự quan sát theo dõi của các đơn vị trưởng suốt ba tháng dài cực nhọc nhưng đâu có ai dám hé miệng, vì nếu có lời nào tới tai đảng, không chết thì cũng bị đưa vào Nam, thì còn khổ và nguy hiểm gấp trăm lần. Người đắm mình ngoài sương tuyết mưa lạnh thì đói khổ là cái chắc nhưng những người phục vụ ở hậu phương tại 75A cũng đâu có hơn gì, vì họ cũng phải luyện tập đêm ngày về các động tác khiêng hòm xác ướp lên xuống xe, bể thủy tinh, các bình đựng hóa chất.
Ngày 20-12-1969 Quân uỷ VC họp bàn và quyết định việc di chuyển xác Hồ tới K84 để tránh Mỹ oanh tạc. Sáng ngày 22-12-1969 các chuyên viên Nga và tổ y tế đặc biệt, chở bể thủy tinh đựng hóa chất lên K84 trước, để chuẩn bị. lữ đoàn 144 rải quân, phối họp với cảnh vệ và công an địa phương giữ an ninh lộ trình. Lúc 23 giờ đêm 23-12-1969, toàn bộ Bắc Bộ Phủ và các cán lớn của Mặt trận GPMN lạy chào giã từ xác ướp. Cũng từ đó, đoàn xe chở xác chính thức xuất phát. Trong xe chở linh cửu, ngoài hòm kính đựng xác, còn chất đầy những cây nước đá bao quanh hòm để giữ độ lạnh. Nguyễn Gia Quyền và một chuyên gia Nga là Igo, ngồi canh xác Hồ theo dõi ứng trực. Chỉ huy cuộc hành quân chở xác là Kinh Chi, xe chạy suốt đêm tới sáng sớm ngày 24-12-1969 thì tới địa điểm ấn định. Ngày 23-5-1970 một phái đoàn chuyên gia của Viện thi hài Lênin tới Hà Nội để khám xác của Hồ qua 8 tháng ướp. Sau tháng 5-1975, Miền Nam VN bị sụp đổ cũng là lúc Lăng Hồ ở Ba Ðình được Nga giúp xây dựng hoàn thành, nên đảng lại chuyển "xác ướp bác" về Hà Nội để ngày ngày triển lãm cho thiên hạ khen chê, dị nghị.
+ TỪ CHUYỆN XÂY LĂNG BA ÐÌNH (HÀNỘI) CHO TỚI VIỆC ÐẢNG LẬP CHÙA QUỐC DOANH ÐỂ THỜ CÚNG HỒ CHÍ MINH:
Tục ngữ ta có câu "sống về mồ về mả, không ai sống về cả bát cơm" như một căn bản về ý thức của chủ nghĩa dân tộc Việt. Bởi vậy gần suốt giòng sông lịch sử, người Việt đã đấu tranh không ngừng, đó chẳng phải vì chỉ lo cho chuyện cơm áo cá nhân, mà điều quan trọng hơn hết là bảo vệ mồ mả của tổ tiên ông bà. Nhiều người Việt thường hiểu sai lầm do ảnh hưởng khoa phong thủy đất cát, nên tưởng mồ mả ở đây có ý nghĩa đơn thuần là ba thước đất vùi chôn một xác thân đã lìa đời. Nói một cách tổng quát, tổ tiên ta ngày xưa khi dùng chữ mồ mã, là để nói tới anh linh của tiên tổ nòi giống Việt. Bởi vậy những kẻ tồi bại và đáng bị khinh bỉ nhất ở trên đời, chính là những tên Việt Gian "Rước Voi Về Dầy Mã Tổ", qua lịch sử Việt ta thấy có Trần Thiểm Bình, Lê Chiêu Thống, Hồ Chí Minh và Ðảng CSVN suốt bảy mươi lăm năm qua.
Trong cuộc đấu tranh để sinh tồn, chống lại sự thống trị và đồng hóa của người Tàu phương bắc, qua bao chục thế kỷ đã tạo cho dân tộc Việt một ý chí quật cường bất khuất, gần như một thứ tôn giáo nói về chủ nghĩa anh hùng của nòi giống Lạc Hồng. Cho nên ở đâu, cũng thấy người ta thờ cúng giống nhau: Ðức Phật, Thần Ðất và Các Vị Nam Nữ Anh hùng Dân Tộc. Tất cả đều xứng đáng để hậu thế ngưỡng vọng, tôn sùng và noi gương, vì ai cũng đều có công giúp nước, giúp dân, qua suốt một chuỗi dài lịch sử trên hai mươi thế kỷ chống giặc Tàu xâm lược.
Từ ngày xuất hiện tới nay, Hồ Chí Minh tự coi mình như vua chúa nên đã cuồng điệu hình thành một bước thang giai cấp trong chốn cung đình dưới triều Hồ. Ðể tạo ra một thứ ma lực trấn áp hồn phách dân chúng, hầu duy trì vững chắc chế độ, nên đảng đã đề ra nhiều điều cấm kỵ đối với Hồ cho tới lúc chết, dù chỉ còn là một xác ướp bất động nằm trong hòm kính. Sự kiện đảng ngày nay xuất công khố để cấp cho các địa phương xây dựng nhiều đình chùa thờ Cốt Hồ, đặt ngồi ngang hàng với Phật và Quốc Tổ, chẳng qua cũng chỉ muốn mượn sức mạnh của thần linh, để dọa dẵm, uy hiếp những người dân thường, khiến cho họ phải phục tùng và tiếp tục phục vụ cho đảng. Ðiều này cho thấy sự tham tàn bạo ngược có một không hai của Việt Cộng, khi chúng đã thâu tóm trọn vẹn chủ quyền của đất nước trong tay, nay còn ham hố tìm đủ mọi cách sang đoạt luôn thần quyền trong mọi tín ngưỡng, bằng cách gây xáo trộn khắp các tôn giáo đang hiện hữu trong nước.
Tóm lại theo dõi chuyện dài của Hồ Chí Minh và giới lãnh đạo CSVN, khiến cho ai cũng cảm thấy xiêu hồn bạt vía về những hành động tàn độc, gian hùng, tán tận lương tâm đối với cả dân tộc, người sống lẫn kẻ chết, làm cho ho xiêu mồ lạc nấm, nát cửa tan nhà, hủy hoại cả một nền văn hóa truyền thống và cương thường của nòi giống Lạc Hồng. Lúc sống thì buôn dân bán nước, làm di hại tới nhiều thế hệ của đất nước. Lúc chết lại hóa thân thành Hồ Ly Tinh từ xác ướp trong hòm kính nằm giữa lăng Ba Ðình, trù ếm và phá hỏng cả dòng sinh mệnh dân tộc phải tuột dốc xuống tận địa ngục đói nghèo lạc hậu, mà ai cũng đã hứng nhận suốt mấy chục năm qua.
Từ trước tới nay, Hà Nội có nhiều nghĩa trang lớn và thêm 100 bãi tha ma nhỏ khác, nằm rải rác khắp nơi trong thành phố và các vùng ngoại ô như nghĩa trang cạnh công viên Thủ Lê, hai cái khác ở thị trấn Nghĩa Tân và đường Minh Khai. Năm 1954 Ðảng vào Hà Nội và đã giải tỏa tất cả các nghĩa trang cũ, di chuyển ra tận các vùng ngoại ô xa xôi. Các khu Thủ Lê, Nghĩa Tân và Minh Khai trở thành công viên hay khu phố. Hiện Hà Nội chỉ còn duy nhất nghĩa trang Mai Dịch nằm trong nội thành, dành riêng cho các cán bộ và quan chức cao cấp đảng có quyền thế. Ngoài ra có một nghĩa trang lớn ở phía nam là Vân Ðiển, cùng hai nghĩa trang mới tân lập là Thanh Tước (Mê Linh-Phúc Yên) và Ba Vì (Bất Bạt-Sơn Tây).
Cũng theo Bùi Tín, thì các cán bộ có quyền thế tại Bắc Bộ Phủ, đã tranh dành nhau quyết liệt, để khi về chầu tổ Mác-Lê, được vào nằm ở Mai Dịch. Cũng vì vậy nhiều cán cao cuối đời bị thất sủng mất chức, đã phải chịu chôn chung với dân thường ở Vân Ðiển. Ðó là thân phận của các tướng VC Chu văn Tấn, Ðặng kim Quang, Trần Tử Bình... Kể cả những nhà khoa bảng, nhà văn nổi tiếng của Bắc Hà như Phan Khôi, Ðào Duy Anh, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Hồng, Nguyễn Tuân, Lưu Quang Vũ, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Gia Trí... cúc cui tận tuỵ cho đảng, cuối cùng cũng bị đi Văn Ðiển.
Theo nhiều người cho biết, thì khu nghĩa trang này, cũng chẳng có gì quý báu và trang trọng, ngoài việc được nằm giữa các cơ quan nhà nước như Cư xá Ðoàn Văn Công, Trường Ðại Học Sư Phạm và Thương Nghiệp. Chính vậy, nên các ngày nghỉ và đêm khuya thanh vắng, trai gái thường rủ nhau từng cặp, ra đó vừa giải quyết bầu tâm sự cũng như những ẩn ức tình cảm. Theo tin mới dây, người Hà Nội vì căm ghét tên Lê Ðức Thọ, cặp bịp bài trùng với Kissinger, trong cái gọi là hiệp định ngưng bắn Ba Lê 1973, nên rủ nhau vào phóng uế trên lăng của y trong Mai Dịch. Vì không làm gì được ai, cuối cùng thân nhân tên đại ác phải tức tốc bốc mộ Thọ, đem về quê tại Nam Ðịnh chôn, để tránh sự xấu hổ và miệng đời bôi bác hằng ngày.
Không biết Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng... sau khi qua đời, có được Ðảng xây lăng đắp tẩm hay không nhưng trước mắt ngoài lăng Ba Ðình vĩ đại của Hồ Chí Minh, còn có khu lưu niệm to lớn của Tôn Ðức Thắng, được xây dựng trên một khu đất rộng trên 6 ha đất, thuộc Cù lao ông Hổ, tỉnh An Giang. Chi riêng đền thờ "bác Tôn" đã chiếm một một diện tích rộng 110 m2, mái cong, trên nóc có trang trí rồng cọp đang tranh châu, tượng trưng cho các địa danh trong vùng như Rạch Hàm Rồng, cù lao ông Hổ là sinh quán của Tôn Ðức Thắng. Có 19 bậc tam cấp dẫn đền thờ. Tượng đồng của Thắng nói là do hảng Ba Son đúc. Ngoài ra còn có Nhà trưng bày di tích lịch sử, lưu lại những vặt vãnh của một tay tứ chiếng giang hồ, xuất thân là anh chị trong làng dao búa, nên cũng được đảng phong chức "bác" như "bác Hồ" sống mãi trong quần, chúng ta.
+ Lăng Ba Ðình: Ðược cóp theo đúng nguyên bản lăng tổ Lênin ở Mạc Tư Khoa, có chiều cao 21, 6 m gồm 3 lớp, nằm trên một phần đất của chùa Diên Hựu, tức chùa Một Cột là một trong những di tích nổi tiếng nhất của Thăng Long như Hồ Gươm, Tháp Bút, Cột Cờ Thủ Ngữ, Khuê Văn Các, Quốc Tử Giám... vì ngôi chùa đã hơn 1000 năm tuổi. Chùa được xây dựng vào đời vua Lý Thái Tôn (1028-1054) ứng theo điều mộng, nên đã kiến tạo ngôi Phật Tự có hình dạng một đóa hoa sen, đặt trên một cột đá đứng giữa hồ sen Linh Chiểu, để phụng thờ Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát, chuyên cứu nhân độ thế, rất phù hợp với triều đại và các vị thánh quân đời Lý. Ngôi chùa được trùng tu cũng như xây cất thêm các cơ sở, đúc chuông, dựng tháp và đặc biệt là nơi tổ chức Ðại Lễ Phật Ðản hằng năm vào ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch, suốt triều Lý. Hiện Chùa Một Cột Hà Nội chỉ còn là huyền thoại trong những trang cổ sử, từ khi giặc Pháp lẫn Cộng Sản VN nắm quyền làm chủ đất nước. Cả hai đế quốc đâu có khác gì bọn Hồi giáo cực đoan Taliban khi chiếm được A Phú Hãn vào năm 1998, đã ra lệnh tàn phá hết mọi di tích và tượng Phật bằng đá, trong thung lũng Bamiyan. Pháp thì chiếm đất chùa để lập Dinh Toàn Quyền Ðông Dương, sau năm 1955 cơ sở này biến thành quảng trường Ba Ðình. Từ năm 1967, Nga giúp xây Lăng Hồ, trên nền cũ của lễ đài, mặt trước hướng về phía đông, coi như che khuất hoàn ngôi cổ tự nằm phía sau lăng, vì chiều cao toàn thể ngôi chùa chỉ có 2, 20m...
Theo các nhà phong thủy, thì chính cái nhà mồ vĩ đại của Hồ là đầu giây mối nhợ gây nên sự ô nhiễm sinh khí của vận mệnh dân tộc, vì phát xuất từ một tử thi dù là xác ướp nhưng bị đặt trong hòm kính vô sinh, lâu ngày bí hơi nên đã xì ra ngoài mùi xú uế, khiến cho mặt mũi của "bác" đổi dạng, khiến đảng phải đóng cửa mồ, nhờ chuyên viên Nga sang giúp. Ðó là chưa nói tới chuyện hàng năm phải tiêu phí không biết bao nhiêu công khố, để bảo trì, ngâm tẩm trong bồn hóa chất định kỳ thời gian 6 tháng. Phung phí tiền bạc hằng tỉ tỉ đồng, suốt thời gian từ tháng 9-1969 tới nay (2007) với mục đích chỉ để "bác còn sống mãi" vì lúc nào cũng bị người cả nước nguyền rủa hận thù.
Từ đầu năm 1975, sau khi chiếm được Phước và biết chắc Hoa Kỳ đã bỏ rơi VNCH, nên CS Bắc Việt một mặt dồn hết khả năng quân sự để cưỡng đoạt Miền Nam, mặt khác lo thủ tục đem xác ướp "bác" về lăng Ba Ðình. Tại K84, đảng ra lệnh cho đoàn 69 là lực lượng chính bảo vệ xác Hồ từ cuối tháng 12-69 phải hoàn tất việc tập luyện công tác di chuyển "xác ướp Hồ" về lại Hà Nội. Song song, có 150 cán binh thuộc Lữ đoàn 144 lên tận đồi núi tỉnh Vĩnh Phú, dựng một lăng giả theo đúng nhà mồ Ba Ðình để thực tập các động tác liên quan tới việc phục vụ xác Hồ trong tương lai. Bắt đầu ngày 26-5-1975, Ðoàn 69 được lệnh tu bổ lại đường xá cầu cống từ căn cứ K84 về Hà Nội. Ngày 15-7-1975 Phạm Ngọc Mậu, phùng Thế Tài, Kinh Chi đại diện đảng, lên tận chổ để kiểm tra đôn đốc mọi công tác. Ngày 17-7 một số cán bộ quân y, chuyên chở các dụng cụ ướp xác về thủ đô trước. Sau đó lúc 16 giờ chiều ngày 18-7-1975, xác ướp của Hồ Chí Minh nằm trong hòm kính, được di chuyển về lăng Ba Ðình bằng chiếc xe tải lớn của Nga chế hiệu Pap. Sau rốt Ðảng chính thức khánh thành ngôi nhà mồ vĩ đại, được xây dựng ngay trung tâm thủ đô ngàn năm văn vật của dân tộc Hồng Lạc vào ngày 29-8-1975, vừa là nhà tù cùm xích vĩnh viễn xác thân của đại ma đầu Hồ tặc, cũng là tử huyệt, dùng để trù ếm phá thối tất cả mọi nguồn sinh khí của đất nước, đã khiến cho VN từ ngày ấy tới nay (2007), từ một quốc gia oai hùng văn hiến rạng rở trong cõi Ðông Nam Á Châu, trở thành một xứ sở nghèo hèn mạt rệp, suy đồi phong hóa, giáo dục, đến nổi người dân phải bỏ quê hương đi tứ xứ tha phương cầu thực, ai mà không biết, ai mà không từng là nạn nhân trầm thống hận hờn, ngoại trừ đảng CSVN và các thành phần Việt Gian phù trợ.
Ðây là một sự báo ứng ghê gớm trong thời đại chúng ta, nên Trời Phật mượn tay Ðảng, hành hạ trừng phạt một tên đại gian hùng, buôn dân bán nước cho ngoại bang để thỏa mãn dục vọng cá nhân. Ðó là việc Ðảng đem xác ướp Hồ làm món hàng câu khách du lịch và những kẻ hiếu kỳ, đồng thời dựa vào đó như một tấm bình phong để bảo tồn quyền lực của chủ nghĩa xã hội. Nên kể từ đó Hổ đâu có khác gì một tội nhân thiên cổ, thay vì bị quỷ sứ chốn âm ty cưa chân cắt lưỡi bỏ vào nấu trong chảo dầu sôi như bà Thanh Ðề xưa "buôn Phât hại tăng". Theo truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt (trừ duới chế độ CS), thì chết là an giấc nghìn thu, nên mồ mả phải được yên ổn thì con cháu đời sau mới phát tài hạnh phúc. Từ khi VN bị VC đô hộ, cả nước bị động mồ mả, nên luôn luôn gặp tai họa triền miên, thiên tai bão lụt, động đất cúm gà, đó là chưa kể tới những thảm họa chiến tranh giữa VC, Miên Cộng và Trung Cộng từ 1975-1990, làm thiệt thòi cho hàng triệu đồng bào và thanh niên nam nữ cả nước.
Ðó cũng là lý do mà các vua chúa ngày xưa của Tàu lẫn VN, đều chọn những chốn thâm sơn cùng cốc để được yên mồ. Hồ Chí Minh thì khác đời, thi hài chẳng những không được chôn cất hay hỏa táng, trái lại để nằm trong hòm kính trên mặt đất, hằng ngày được máy trục lên đẩy xuống cho người điểm mặt. Ngoài ra theo định kỳ, mỗi năm xác Hồ lại phải chở tới Nga Sô để ngâm trong bồn hóa chất, vào khoảng tháng 11-12. Riêng lăng Ba Ðình, theo nhận xét chung của mọi người, thì đâu có khác gì một sà lim vĩ đại với cửa nhỏ ra vào, có lính gác ngày đêm trong ngoài ngày đêm cẩn mật, đâu có khác gì các lò thiêu xác dân Do Thái thời đệ nhị thế chiến của Ðức quốc xã ?
Cường điệu tới mức trời hờn người kinh, còn thấy chưa đủ yếu tố, để cho "bác" thành "thần tượng", nên VC lại xuất công khố bắt các địa phương xây chùa lập đình tạc tượng thờ" bác" như là Phật Thánh, bên cạnh Vua Hùng và Ðức Phật. Nhưng trò chơi quý tộc này tồn tại được bao lâu nữa, trong khi cả nước đang sôi sục đứng lên để bứt xiềng xích nô lệ và tiêu diệt chế độ phi nhân phi thú của CSVN. Lịch sử vẫn còn lưu lại hằng ngàn trang nói về cái thói đời đua đòi khoe mẽ rởm rác của nhân loại. Nhưng cõi đời là một cuộc biển dâu, nên đâu có ai biết được ngày mai sẽ ra sao, bởi vậy nhìn cái gương của các vị hoàng đế Tàu ngày trước, chỉ vì muốn làm cho mình bất tử, nên đã lãng phí công khố để xây lăng tạc tượng. Ðâu có ai ngờ chính chuyện làm lãng xẹt đó, mà ngày nay số phận của họ bị trôi nổi hà phương, vì trò cướp mộ để đoạt báu vật, qua hình thức hoa mỹ là "khảo cổ". Tính đến nay, khu vực lăng mộ của 72 vị vua các đời Hán, Ðường, Tống kể cả lăng mộ của Tần Thỉ Hoàng, ở Cam Túc, Thiểm Tây, Hà Bắc... đều bị Trung Cộng đào xới tan hoang để tìm kho báu vật dưới lòng đất. Cùng chung số phận, là lăng mộ của các hoàng đế triều Minh, Mãn Thanh ở vùng đông bắc Trung Hoa. Xui xẻo nhất là lăng mộ của 17 vị hoàng đế Tây Tạng, được chôn rải rác từ cực tây Tứ Xuyên tới Lhassa, cũng bị cướp mồ, khi Trung Cộng xâm lăng và đô hộ nước này từ năm 1949. Biết trước số phận của mình sẽ bị phanh thây không sớm thì muộn, nên Thành Cát Tư Hãn(Mông Cổ) đã được chôn cất một nơi vô cùng bí mật, mà tới nay chẳng ai biết kể cả người Nhật hằng bao thế kỷ cố tìm mò ra vết tích nhưng đều bị thất bại. Ðó cũng là lý do Mao Trạch Ðông khi chết, xác cũng được đảng ướp nhưng lại được đem chôn giấu lặng lẽ một nơi nào đó, không hề nghe ai nhắc tới.
Chỉ có Nga Sô và CSVN thì biểu dương lực lượng: Lênin được ướp xác xây lăng và mở cửa triển lãm vào ngày 26-5-1924 nhưng vì bị động mồ nên thần tượng Lênin và đảng CS Liên Xô chỉ tồn từ năm 1917 tới 1990 thì diệt tuyệt. Mới đây tại Ðài Loan, đài tưởng niệm Tổng Thống Tưởng Giới Thạch cũng bị đổi tên, vì bị người Tàu kết tội làm mất lục địa. Những cuộc dâu biển trước mắt diễn ra không ngừng, như vậy "bác sẽ còn sống mãi" trong chiếc hòm kinh bịt bùng tại Ba Ðình được bao lâu, nói chi tới những tượng đài ngoài đường, cốt khỉ trong chùa... những thứ mà bất cứ người VN nào cũng chờ, chính tay mình được hủy hoại như người Ðức phá bức tường ô nhục Bá Linh, người Nga giựt đổ tượng Lênin trên đất nước họ, vào những ngày đảng CS bị tiêu diệt.
Bỗng dưng thấy thấm thía vô cùng khi đọc được những câu vè dân gian do các thế hệ trẻ Hà Nội làm sau ngày 30-4-1975, khi đất nước đã không còn chiến tranh và coi như thống nhất:
"bác Hồ nằm ở trong lăng
nhiều năm bác bỗng nghiến răng giật mình...
vì
chiều chiều lại nhớ chiều chiều
dưới chân tượng bác, đĩ nhiều hơn dân... "
Xóm Cồn
Tháng 6-2007
Mường Giang
Bịt Miệng Hay Lên Tiếng?
LTS : Linh Mục Đinh Xuân Long thuộc Giáo Phận Charlotte, TB North Carolina, hiện đang thi hành mục vụ cho 2 giáo xứ Mỹ nên rất bận rộn. Nhưng Cha luôn luôn hy sinh công sức và thời giờ, đáng lẽ được nghỉ ngơi, để lên tiếng không mệt mỏi cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại VN. Cha không ngần ngại sát cánh với cộng đồng tham dự các cuộc biểu tình, thắp nến cầu nguyện. LM Long còn viết nhiều bài báo sắc bén, nhưng giản dị và chân thành lên án chế độ phi nhân hiện nay tại VN . Cha Long hiện là cố vấn tinh thần cho Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Vùng Đông Nam Hoa Kỳ.
Trước khi bước vào Tuần Thánh 2007, tôi đã trải qua một tuần thật nhiều vất vả và biến động. Suốt tuần lễ đó lo đi giảng phòng, giúp giải tội các giáo xứ lân cận, tổ chức chương trình xám hối cho giáo xứ mình, kèm theo việc theo dõi các biến động đang xẩy ra tại Việt Nam và phản ứng của đồng bào hải ngoại, tôi cảm thấy mình gần như kiệt sức. Dầu vậy, đáp lời mời của cô Diễm Hương, phát ngôn viền đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) và ban tổ chức hội luận Paltalk Nhân Quyền và Canh Tân Viet-Nam, tội nhận lời là một trong những diễn giả của buổi hội luận vào Thứ Bẩy 31-03-2007, một ngày sau khi LM nguyễn Văn Lý bị xử án tại Việt-Nam .
Buổi hội luận được bắt đầu lúc 8 giờ tối bên California, tức 11 giờ đêm bên Carolina và kéo dài tới 3 giờ sáng. Dù đã khuya và cần dưỡng sức cho ngày maì Chủ Nhật, nhưng tôi hầu như quên hết mệt nhọc khi thấy rất nhiều người tham gia vào phòng Paltalk này. Đặc biệt nhiều bạn trẻ đã lên tiếng và đưa ra những nhận định chính xác làm tôi rất phấn khởi và ngưỡng mộ. Chủ đề của hội luận là nhân quyền và bầu cử Quốc Hội bù nhìn csVN sắp tới. Nhưng trọng tâm cuộc hội luận lại xoay quanh vấn đề Cha Lý bị kết án 8 năm tù vì tội “rừng rú” của csVN:”Tuyên truyền chống phá nhà nước CHXHCNVN”, một tội không hề có trong công pháp quốc tế và xã hội văn minh. Với phạm vi ngắn gọn của bài viết này, tôi không nhắc lại tính cách pháp lý của tòa án vì nhiều luật sư đã phân tích rõ ràng. Tôi xin đề cập đến hình ảnh của Cha Lý bị bịt miệng, một hình ảnh đã gây xôn xao và phẫn nộ đối với dư luận quần chúng, một hình ảnh thực sự tác động lương tri con người. Hình ảnh này đã được nhiều người phân tích và chia sẻ. Riêng tôi xin được chia sẻ 2 điểm:
1/ Bịt miệng:
Cộng sản Việt Nam đã bịt miệng Cha Lý trong phiên toà , không phải một lần mà tới 3 lần. Đây là bằng chứng hùng hồn nhất không thể chối cãi chính sách bịt miệng dân chúng của đảng cộng sản Việt Nam.
Trong 62 năm, cộng sản Việt Nam hầu như thành công trong vấn đề bịt miệng dân chúng qua hai công cụ rất nham hiểm là: bạo lực và tuyên truyền. Bạo lực cần có tuyên truyền kèm theo để nhồi sọ và tẩy não. Tuyên truyền không có bạo lực kèm theo sẽ không có hiệu quả. Bạo lực và tuyên truyền của CS đã gieo rắc sự sợ hãi khôn lường trên mọi tầng lớp dân chúng:
a/ Người dân vì khiếp sợ không dám lên tiếng chống lại những điều sai trái của đảng cs. Họ đã bị bịt miệng một cách tàn nhẫn và phi nhân bởi csVN.
b/ Các vị lãnh đạo tinh thần cũng không hơn gì. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (HĐGMVN), các Linh Mục, tu sĩ vì sợ hãi, cũng bị bịt miệng không dám lên tiếng cho nhân quyền và tự do tôn giáo. Điểm đáng chú ý trong buổi hội luận là khi tôi đặt vấn đề vì sợ hãi, HĐGMVN đã không đủ can đảm vượt lên trên sự khiếp sợ để lên tiếng cho nhân quyền và tự do tôn giáo, chúng ta nên “thông cảm’ cho các ngài. Tôi nêu rõ “ thông cảm” nhưng không hoàn toàn đồng ý với thái độ im lặng khó hiểu đó. Chúng ta cần tiếp tục thúc giục và kêu gọi các ngài lên tiếng. Các bạn trẻ đã “không đồng ý” với tôi với lý do là các Giám Mục và Linh Mục là những người đã dâng mình cho Chúa, đã được mời gọi trở nên những ngôn sứ cho Tin Mừng và Sự Thật, thì không có lý do gì phải khiếp nhược như ngưòi dân thưòng để không dám lên tiếng cho nhân quyền và phẩm giá con người. Tôi rất khâm phục nhận định thẳng thắn này của các bạn trẻ.
c/ Cộng sản Việt Nam còn vươn tay dài ra tận hải ngoại bịt miệng dân tị nạn. Một số “ Việt kiều” đã bị ru ngủ qua chính sách lừa bịp “hoà hợp hòa giải” , “VN cần ổn định để phát triển kinh tế” để rồi im lặng không dám lên tiếng tố cáo những tội ác cộng sản đã gây ra. Cộng sản Việt Nam còn ru ngủ cả giới lãnh đạo tinh thần tại hải ngoại qua chiêu bài “tha thứ và yêu thương”, “không làm chính trị”, để bịt miệng một số đông linh mục và chức sắc hải ngọai.
2/ Lên tiếng:
Cộng sản Việt Nam đã dùng mọi thủ đoạn để bịt miệng toàn dân VN một cách trân tráo và tàn nhẫn. Nhưng không phải ai cũng sống trong sợ hãi tại Việt Nam. Linh Mục Nguyễn Văn Lý, Luật sư Lê Thị Công Nhân , Luật sư Nguyễn Văn Đài, Anh Nguyễn Phong, Anh Nguyễn Vũ Bình, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Mục Sư Nguyễn Hồng Quang, Cụ Lê Quang Liêm...và hàng ngàn người trong khối 8406 đã vượt lên trên sự sợ hãi thường tình và kêu gọi mọi người đập tan sự sợ hãi cố hữu đó.
Sự lên tiếng của Linh Mục Lý tại phiên toà là bằng chứng hùng hồn nhất cộng sản Việt Nam không thể áp dụng sự sợ hãi để bịt miệng người dân. Tiếng nói của Cha Lý tại phiên toà thể hiện nguyện vọng sâu xa nhất của dân chúngVN: tự do và nhân phẩm con người trong đời sống.
Ngôn từ “Tự Do” là âm thanh quen thuộc đối với mọi người chúng ta. Tự do không có nghĩa là những ai đang sống trong một nước tự do là có tự do. Tự do là vấn đề của tinh thần. Nhiều người sống trong đất nước tự do nhưng lại bị xiềng xích bởi các tập quán xấu như nghiện ngập, cờ bạc hay tội lỗi. Những người này không có tự do đích thực vì sợ pháp luật và tiếng nói lương tâm. Tự do đích thực là không bị lệ thuộc vào điều gì hết mà tự do hành xử theo lương tri và pháp luật.
Những người Việt tại quốc nội vì sợ hãi đã không dám tự do phát biểu, hội họp, hành đạo là điều có thể ‘thông cảm” vì họ đang sống trong một đất nước không có tự do. Còn những người Việt hải ngoại, không vì một lý do gì để không hành xử theo đúng lương tri và pháp luật, để không lên tiếng cho những ngưòi bị “bịt miệng” tại VN.
Phải chăng nhiều ngưòi Việt tị nạn đã tự đánh mất tự do tại xứ ngưòi? Biết bao nhiêu người, kể cả hàng linh mục, đã vượt biên, đã đổi bằng máu và nước mắt để tìm tự do, nay họ đã “bán” lại sự tự do cho csVN để đánh đổi vài ân huệ tầm thường du lịch Việt Nam khi họ không dám lên tiếng chống lại những bất công, vi phạm nhân quyền và những tội ác csVN đã phạm.
Phải đập tan sự sợ hãi! Đó là tiếng kêu ai oán của Cha Lý tại “phiên tòa” của loài quỷ đỏ khi ngài bị bịt miệng. Phải đập tan sự sợ hãi để lên tiếng chống lại những tội phạm và bất công mà csVN đang đầy đọa thân xác Mẹ Việt Nam. Phải đập tan sự sợ hãi để sống như một dân tộc hào hùng và sĩ khí. Phải đập tan sự sơ hãi để cứu lấy một đất nước đang trên bờ vực thẩm của băng hoại và phá sản.
Thay lời kết:
Bịt miệng và lên tiếng, một đề tài mang lại nhiều thao thức cho bao người.
Xin mượn nơi này để bầy tỏ lòng ngưỡng mộ xâu xa đối với LM Nguyễn Văn Lý, anh Nguyễn Phong, anh Nguyễn Bình Thành, các chị Hoàng T. Anh Đào và Lê T. Lệ Hằng đã bộc lộ sĩ khí của những con người tự do thực sự trong “phiên tòa rừng rú” của csVN. Xin được tỏ lòng tri ân và ngưỡng mộ các nhà đấu tranh cho dân chủ nhân quyền tại Việt Nam vẫn đang miệt mài theo con đường chông gai và hiểm nguy vì vận mệnh của một dân tộc. Xin tỏ lòng tri ân cộng đồng ngưòi Việt hải ngoại trong gần hai tháng trời đã quyết liệt lên tiếng, thay vì bị bịt miệng, ủng hộ những người con bất khuất của Mẹ Việt Nam. Xin tỏ lòng tri ân cộng đồng quốc tế đã sát cánh cùng chúng ta trong thời gian qua vì nhân quyền và nhân phẩm cho VN.
Xin mời gọi mọi người chúng ta cần phải nỗ lực hơn nữa. Chúng ta cần phải ý thức và kêu gọi toàn dân đập tan sự sợ hãi, phải sống như những con ngưòi tự do, phải thể hiện tinh thần của những chiến sĩ tự do và hoà bình. Trên hết, chúng ta cần phải chỉ thẳng vào mặt đảng csVN và tuyên bố rằng csVN chỉ và chỉ có thể độc tài cai trị đất nước qua sự khiếp sợ của đại đa số quần chúng, đã đến lúc chúng tôi sẽ vưon mình đứng dậy trong hào khí của giòng giống Lạc Hồng, chúng tôi sẽ đập tan sự sợ hãi và sẽ gầy dựng lại một đất nưóc trong tự do, công bằng và nhân phẩm đích thực.
LM Đinh Xuân Long
NGHỀ CHỤP MŨ
Ba triệu người Việt Tự Do định cư tại nước ngoài chỉ là một số nhỏ so với trên tám chục triệu trong nước, nhưng chính là mối lo sợ hàng đầu đối với nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam. Đây là một cộng đồng đầy đủ thực lực, từ nguồn chất xám, tinh thần đoàn kết, khả năng tài chánh đến vai trò chính trị... Ngoại trừ tại Hoa kỳ, còn lại một số nhỏ định cư rải rác khắp toàn thế giới, nhưng cộng đồng người Việt chẳng những đã thu hút được cảm tình người bản xứ mà còn thay đổi được lối nhìn, quan niệm và thái độ của thế giới tự do đối với những người đã bỏ xứ ra đi sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tinh thần đoàn kết dưới màu cờ Vàng Ba Sọc Đỏ dù ở bất cứ nơi nào, người Việt Tự Do cũng đã giúp người dân bản xứ nhận ra sự hiểu biết thô sơ, lệch lạc cũng như những sai lầm của họ trước kia về chế độ Cộng sản Việt Nam. Ngoài ra cần phải nói thêm, các nỗ lực và thành quả tốt đẹp của người Việt trong việc hội nhập vào xã hội mới cũng như tinh thần chống Cộng triệt để đã vô hiệu hóa tất cả những lời tuyên truyền, bịp bợm, láo khoét của các cơ quan ngoại giao Cộng sản từ trong nước cũng như ở hải ngoại.
Khi vừa chiếm đoạt Miền Nam, Hà Nội đã vội vàng cướp tài sản, bỏ tù, đày đi kinh tế và xua ra đại dương những người mà Cộng sản cho là biếng nhác, ăn hại, phản động, tay sai, đánh thuê và là mầm mống nguy hiểm cho chế độ. Nhưng chỉ một thời gian sau, chính Hà Nội lại âu yếm gọi bằng "khúc ruột ngàn dặm" và trân trọng trải thảm đỏ, mời những người bị chúng đã xua ra biển nên quên hận thù, quay về đùm bọc lấy anh em ruột thịtxây dựng lại quê hương! Vừa van lạy xin "tiền khúc ruột ngàn dặm", vừa lo sợ trước tinh thần đoàn kết cũng như những thành công về kinh tế và chính trị của cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Trên bình diện quốc tế, tập đoàn Cộng sản đã thua hẳn cộng đông người Việt tự do tại hải ngoại về mọi phương diện. Muốn đánh bại cộng đồng, con đường tốt nhất là phải phá thối và gây chia rẽ nội bộ... Do đó, để phá hoại cộng đồng, Cộng sản Việt Nam đã nghiên cứu và dành một ngân khoảng lớn để huấn luyện, tổ chức và tưởng thưởng cho điệp viên, cán bộ nằm vùng và những ai đã lỡ "dính chàm" phải cúi đầu chờ lệnh.
Chỉ có hai sức mạnh khả dĩ đánh đổ được tập đoàn bạo quyền Hà Nội mà thôi, đó là tinh thần Đoàn Kết và Ngoại Tệ của cộng đồng người Việt hải ngoại mà tinh thần đoàn kết của người Việt hải ngoại mới đích thực là mối lo trầm trọng của tập đoàn Cộng sản Việt Nam. Do đó, chúng ta không lạ gì khi Cộng sản Việt Nam chi ra nửa tỷ dollars cho âm mưu kiều vận và phá hoại qua nghị quyết 36.
Nghị quyết này gồm nhiều tiết mục nhưng chung quy có thể thu gọn trong 3 phần với 3 mục đích chính: Lường gạt, tuyên truyền và phá hoại!
- Lường gạt : Kêu gọi chất xám và tiền của người Việt nước ngoài. Đây là phần nổi của nghị quyết. Làm một công hai việc, vừa đánh bóng chế độ trong tinh thần hoà giải hòa hợp dân tộc và kêu gọi khúc ruột ngàn dặm đem hết khả năng và của cải về phục vụ đất nước. Nhưng thực chất là một sự lường gạt trắng trợn những người dễ tin để đem chất xám về phục vụ củng cố một tập đoàn thối nát, bất tài và tham nhũng, đồng thời khai thác tình thâm ruột thịt, liên hệ gia đình của những "con gà để trứng vàng" trong nước hầu móc túi thân nhân nước ngoài.
- Tuyên truyền: Lợi dụng truyền thông, văn hóa để len lỏi vào Cộng đồng bằng cách ru ngủ, mua chuộc, lôi kéo từ người lớn xuống trẻ em dưới nhiều hình thức, từ sách báo, ca nhạc, cải lương đến các hoạt động xã hội, tôn giáo và nhất là chú trọng vào chương trình dạy tiếng Việt cho trẻ nhỏ. Các tòa đại sứ Cộng sản được cấp những ngân sách khổng lồ để thi hành nghị quyết bằng cách tổ chức những đội ngũ cán bộ, mục đích len lỏi vào các cơ sở của người nước ngoài như báo chí, truyền thanh truyền hình, lập ra nhiều trang báo điện tử, diễn đàn hoặc dùng tiền mua chuộc từ cá nhận đến tập thể trong các tổ chức này. Đây là phần chìm mà các cơ quan ngoại giao tại hải ngoại phải thi hành theo lệnh của bộ chính trị của đảng. Nhưng trong năm qua Cộng sản Việt Nam đã thất bại, các cơ quan ngoại giao nước ngoài không đạt chỉ tiêu cho năm 2006 trong chương trình xâm nhập vào toàn bộ các hiệp hội, đoàn thể, đảng phái của người Việt hải ngoại. Quan trọng nhất là cuối năm 2006 chúng đã hoàn toàn thất bại trong âm mưu dùng tiền mua chuộc hoặc thay thế các chức vụ chủ tịch của cộng đồng bằng các cán bộ nằm vùng hay những tên cò mồi dễ dạy.
- Phá hoại : Len lỏi vào cộng đồng, đảng phái, đoàn thể để tạo mâu thuẫn, gây chia rẽ, phá rối Cộng đồng người Việt hải ngoại... đồng thời huấn luyện, nuôi dưỡng đám "chó săn" để chúng theo dõi, bôi xấu, hù dọa, chụp mũ những ai có hành động gây phương hại cho chế độ Cộng sản. Đây mới là chính phần trọng tâm của nghị quyết 36!
Phần nổi và phần chìm chúng tôi đã có dịp trình bày trong những bài trước, trong phạm vi lần này xin đề cập đến một đòn ma giáo thuộc phần trọng tâm của nghị quyết 36, là chụp những chiếc mũ Cộng sản cho những ai mà Hà Nội xem là thành phần cực kỳ phản động ở nước ngoài.
Chụp mũ hay đội nón cối lên đầu những người quốc gia có tinh thần chống Cộng kiên trì, đối với Cộng sản là thượng sách, vừa ít tốn tiền nhưng lại tạo được nhiều kết quả thật quan trọng. Bất cứ ai có tên trong sổ đỏ thuộc thành phần "cực kỳ phản động" ở hải ngoại mà Cộng sản Việt Nam không thể mua chuộc, hù dọa hay bắt bớ được thì cứ việc ra lệnh cho đàn em đội ngay lên đầu họ một vài chiếc nón cối thật lớn là xong chuyện! Vì Cộng sản biết rằng, cộng đồng người Việt Tự Do hải ngoại chẳng những căm thù người Cộng sản chính hiệu mà còn xa lánh, tẩy chay những tên tay sai ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản như trường hợp Trần Trường ở Cali cách đây vài năm. Cứ việc đội lên đầu người nào một vài cái nón cối thì trước sau gì danh dự của nạn nhân cũng bị tổn thương không nhiều thì ít. Đúng vậy, một khi dùng nón cối quật ngã được người nào thì xem như Cộng sản đã thắng một trận đánh lớn mà không mất một viên đạn. Điều tệ hại quan trọng nhất là một số ít người trong cộng đồng thiếu suy tư phán đoán, thiếu tìm hiểu nạn nhân để chận đứng và vạch trần âm mưu của Cộng sản, do đó họ đã vô tình nối giáo cho giặc bằng sự im lặng của mình. Nói chống Cộng, ngồi lại với nhau thì hùng hổ nói thật hay, nhưng khi có việc thì rút vào bóng tối... Chỉ một việc nhỏ như đi biểu tình chống Cộng trước tòa đại sứ Việt Cộng hằng năm vào ngày 30.4 thì thật đáng buồn khi so sánh số người tham dự với khách trong các buổi tiệc liên hoan, kỷ niệm của các hội đoàn chống Cộng!
Người chống Cộng nhiệt tình, công khai ra mặt thường bị cô đơn, vì bà con giòng họ, bạn bè, đồng hương, đồng chí trong các tổ chức lúc nào cũng tìm cách né tránh. Chuyện cũng thật dễ hiểu, vì những người này thường về Việt Nam du hí, thăm bà con, làm ăn... dĩ nhiên phập phồng lo sợ nhà nước Việt Nam sẽ làm khó dễ, gây trở ngại khó khăn khi Hà Nội khám phá ra họ có liên hệ giây dưa với những "tên phản động". Dựa vào thế mặc cảm sợ sệt của những người này đó, Cộng sản cứ đà tiến tới chụp mũ người này đến người kia. Do đó, vừa mấy năm trở lại đây, trò chụp mũ phát triển thật nhanh. Thử nghĩ lại xem, đã có biết bao nhiêu người yêu nước nhiệt tình, xả thân cho đại cuộc đã nhụt chí rút vào bóng tối vì những chiếc nón cối trên đầu!
Thành phần chuyên nghiệp hành nghề chụp mũ là những ai? Có thể là một trong ba hạng người sau đây: Cán bộ điệp viên đội lốt người tỵ nạn. Người nhẹ dạ đã-đang-sẽ hưởng bổng lộc của Cộng sản Việt Nam. Người bị "dính chàm" của Cộng sản vì một vấn đế nào đó và một khi vết "chàm" của Cộng sản đã dính lên người thì không bao giờ gội rửa được! Cái bẫy giăng ra thật đơn giản là khi ban ân huê cho một cá nhân nào, Cộng sản chỉ cần ghi lại tất cả dấu vết để sau đó áp lực nạn nhân phải thi hành những yêu cầu của chúng. Nhiều trường hợp đi tù, một vài cá nhân nào đó đã bán đứng đồng đội mục đích kiếm điểm với kẻ thù, để được làm "cai tù" ăn trên ngồi trước, để chạy tội hay hy vọng rút ngắn thời gian cải tạo trở về đoàn tụ với gia đình... Lúc cần thì Cộng sản xử dụng những bút tích đó để hù dọa, bắt chẹt và ép buộc phải tìm cách đội lên đầu cái nón cối cho những ai mà Cộng sản cần phải thanh toán! ... Đó là trò đểu của Hà Nội đang mang ra áp dụng tại hải ngoại để tách rời những người chống Cộng ra khỏi cộng đồng người Việt.
Các điệp viên núp bóng người tỵ nạn thường xử dụng nhiều tên ảo, dùng những lời chửi bới hạ cấp, thô tục trên các diễn đàn, gởi thư qua các hộp thư điện tử và dùng điện thoại cộng cộng để chửi bới hăm dọa. Phương thức này chưa được hoàn hảo, vì những lời hăm dọa chửi bới dưới tên ảo không gây xáo trộn cộng đồng bằng những pháp nhân có thật, nhưng những người này thì không trực diện nói chuyện với nạn nhân mà chỉ dùng lối rỉ tai người này người khác. Trường hợp này mới nguy hiểm vì cộng sản đã thành công trong việc gây xao trộn cộng đồng, tạo chia rẽ giữa người này người kia... Nhân cách của những kẻ thường dùng kỹ thuật rỉ tai đã là xấu vì nói lén sau lưng người khác, người "bị" nghe thường không chú ý, nhưng nghe mãi nghe hoài cũng thấm vào đầu óc họ. Đó là chiến thuật tuyên truyền của Cộng sản, cứ nói mãi, thế nào cũng còn lưu lại trong đầu người nghe không nhiều thì ít! Những người đội tên giả chửi bới vô liêm sĩ thật ra không nguy hiểm bằng hạng người rỉ tai người này người kia thì chúng ta cần phải cảnh giác. Kết quả Cộng sản đã thắng bằng lối tuyên truyền cố hữu, chỉ một viên đạn bắn ra đã sát hại nguyên cả đàn chim.
Một ít người ít hiểu biết, ích kỷ, ham danh... muốn trở thành lãnh tụ bằng con đường tắt với vài ba đàn em dưới trướng, khua chuông đánh trống, đấm đá lung tung để tìm cách vương lên bằng những trò hề rẻ tiền, tranh dành chức vụ rồi bôi xấu, chụp mũ... Hành động của thành phần này đã tạo ra những môi trường thuận lợi cho kế hoạch phá hoại của nghị quyết 36. Để kết nạp thành phần này, địch có thể cung cấp nhân lực cũng như tài chánh mục đích tạo ra thật nhiều hiệp hội, nhiều đoàn thể, đảng phái nhằm chia xẻ tinh thần đoàn kết của cộng đồng. Vô tình thành phần này trở thành công cụ không công cho địch, rồi một lúc nào đó, với một ân huệ hay hứa hẹn nào đó, những người này trở thành những tay đắc lực phụ vụ cho quyền lợi của đảng Cộng sản Việt Nam.
Chụp mũ là thủ đoạn của Cộng sản, hành động này là nghề nghiệp của các điệp viên, những tên cán bộ công an núp bóng trong hàng ngũ tỵ nạn. Những người quốc gia chân chính, đừng vì ganh ghét cá nhân, đừng vì một chút lợi lộc tiền bạc hay những lời hứa hẹn của địch mà nhắm mắt làm theo lệnh quan thầy, đánh lung tung người này đến người khác. Một khi Hà Nội chỉ thị phải đánh một người nào thì phải nghĩ rằng người đó là cái gai trước mặt mà chúng cần phải nhổ bỏ, nếu đánh gục họ thì xem như một người quốc gia đã dùng vũ khí Cộng sản đánh thẳng vào cộng đồng người Việt Tự Do ở hải ngoại.
Việc vạch mặt chỉ tên những tên Cộng sản nằm vùng phá hoại cộng đồng là một việc phải làm của tất cả mọi người, nhất trong giai đoạn này để loại ra khỏi cộng đồng những phần tử đang ráo riết gây rối và phá hoại cộng đồng trong nhiều lãnh vực. Nhưng tuyệt đối đừng nghe lời của những người có thành tích bất hảo, miệng chống Cộng vung vít nhưng đàng sau chúng đưa tay nhận tiền bạc lợi lộc của kẻ thù để đội lên đầu những người chống Cộng chân chính và nhiệt huyết những cái nón cối. Cần phải tìm hiểu, nghiên cứu thật chính xác về đời tư, quá trình hoạt động của hai đối tượng, người hành nghề chụp mũ cũng như nạn nhân để tránh việc xét đoán lầm người. Chỉ một hành động chuyền miệng rỉ tai bôi xấu một người nào đã là hành động của kẻ tiểu nhân, chưa kể đến những chuyện bày đặt buồn cười vô căn cứ thì chúng ta nên xét lại và ngăn chận kịp thời, tránh chuyện "tam sao thất bổn" nhỏ biến thành lớn, chuyện ruồi bu thành vấn đề quan trọng. Không có chuyện gì có thể bưng bít lâu dài, không nhanh thì chậm, tất cả sự thật sẽ được phơi bày dưới ánh mặt trời, chừng đó người đời sẽ phê phán hành động của những người hành nghề chụp mũ và con cái cháu chắc sẽ tủi nhục vì những hành động của cha ông mình. Nhưng hiện tại nếu không mau trừ khử những người hành nghề chụp mũ kịp thời thì trong giai đoạn quyết liệt này cộng đồng chúng ta sẽ thiếu hoặc mất đi những người tiên phong chống Cộng.
Chụp mũ là công việc của bọn công an, điệp viên nằm vùng, nếu là người quốc gia, những ai đã bỏ xứ ra đi vì không chấp nhận chế độ Cộng sản thì xin hãy dừng tay, đừng vì cá nhân, tiền bạc, phe nhóm mà nhắm mắt chụp mũ những người đang tranh đấu nhiệt tình trong lòng cộng đồng người Việt. Một điều khẳng định rằng, một khi Cộng sản ra lệnh chụp mũ một người nào thì chắc chắn rằng Hà Nội muốn bịt miệng và tách rời người đó ra khỏi cộng đồng bằng trò chia rẻ.
Cũng xin nhắc nhở những người đang hành nghề chụp mũ, không phải ai cũng sợ chiếc nón cối, mà một số người chống cộng nhiệt tình, có lý tưởng từ trong máu huyết mà họ đã chứng minh bằng những hành động bất vụ lợi từ lúc cắp sách đến trường cho đến ngày nay thì không bao giờ cái nón cối đánh gục được họ. Đối với những người này, càng bị chụp mũ, họ càng đứng dậy, hiên ngang tiếp tục con đường tranh đấu cho đến ngày nhắm mắt. Mong rằng những người trong hàng ngũ quốc gia thường xử dụng đòn chụp mũ hãy lấy lương tâm tìm hiểu nạn nhân. Thật tình mà nói, những người chống Cộng thật cô đơn, chính vợ con họ phản đối vì đã gây cho gia đình biết bao lo lắng buồn phiền mà còn bị những người thường về Việt Nam như bà con, thân nhân, bạn bè cũng như đồng hương, đồng chí... tránh né vì sợ Cộng sản khám phá ra có liên hệ thân thiết với những tên "cực kỳ phản động"ở nước ngoài!
Tóm lại, người trí thức quân tử dám nói dám làm, tôn trọng sự thật và sẵn sàng chấp nhận sai lầm của mình... Tiểu nhân, ngữa tay nhận ân huệ tiền bạc của bất cứ ai để thi hành bất cứ tội ác nào được giao phó từ ném đá giấu tay, mang tên ảo, rỉ tai, bôi xấu đến chụp mũ những người bị đối phương xếp vào loại "phản động". Thế thì nuôi dưỡng bao che cho tiểu nhân làm gì để chúng tiếp tay Hà Nội, bôi nhọ những phần tử Quốc gia... để rồi cộng đồng sẽ thiếu nhiều chiến sĩ tiền phong trong hàng ngũ chống Cộng sản.
Nếu còn chút lương tri, xin hãy nghĩ lại xem...
Đinh Lâm Thanh
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)