Hiển thị các bài đăng có nhãn Tham luận. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tham luận. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 22 tháng 7, 2007

Ngày tàn của CSVN gần kề

NGÀY TÀN CỦA CSVN GẦN KỀ,
KHI HÌNH ẢNH THỰC TẾ
CỦA BẠO LỰC ÐƯỢC PHƠI BÀY
TRƯỚC NHÂN LOẠI

Trên cõi đời này, đã không có cái gì đáng để gọi là tất yếu cả, giống như lịch sử được hoàn thành, chẳng qua cũng chỉ nhờ vào sự bất ngờ mà tạo nên những sự kiện. Bởi vậy nếu năm 1945 không có sự xuất hiện của Hồ Chí Minh và Ðảng Cộng Sản, thì chắc chắn Dân Tộc Việt đã thoát được cảnh núi xương sông máu và sự chậm tiến suốt 75 năm qua, khi phải sống dưới ách thống trị của chủ thuyết Mác-Lênin, được đảng ngụy trang qua cái gọi là "tư tưởng HCM". Kể làm sao cho hết được những thảm kịch VN trong thiên đàng xã nghĩa? sau khi Hồ và đảng đã cưỡng đoạt được chính quyền. Tóm lại VN ngày nay trong vòng tay nhân ái của đảng, đã trở thành một xã hội trộm cướp phi luân, từ trong cung đình ra tới hè phố mà thủ phạm không ai khác hơn là cán bộ, công an và bộ đội giải ngũ. Ðó chẳng phải là sự nghịch lý hay sao, vì cả nước ngày nay đâu có khác gì một nhà tù mà cai ngục là mạng lưới công an đen nghịt vây bủa. Do đó để sống còn, cả nước đã học theo guơng đảng nói láo và lừa bịp lẫn nhau kể cả người thân trong gia đình, đảng đoàn và ngoài xã hội. Trong hệ quả tất yếu của sinh mệnh, mọi tầng lớp đồng bào nghèo nhất là giới thanh niên chỉ còn biết buông xuôi tương lai, bê tha cuộc sống để tự giết mình quên đời. Tất cả mọi sự đổ vỡ của căn nhà văn hiến VN bao đời, cũng đều do chế độ và chủ nghĩa CS phá sập hay bôi lọ xuyên tạc những quan niệm, truyền thống nếp sống luân lý của dân tộc, để thay vào đó bằng mớ luận thuyết sặc mùi đấu tranh giai cấp Nga-Tàu, nhằm gây chia rẽ mọi người để đảng thao túng cai trị.

Ðó chính là những đóng góp và cái được gọi là tinh thần vô sản ưu việt của đảng CSVN trong dòng lịch sử dân tộc, mà Trần Bạch Ðằng trước khi chết đã to miệng bảo rằng thực thể VN đang thành tựu trong sự phồn vinh? Nhận xét trên thật đúng nhưng chỉ dành cho đảng mà thôi vì trong lúc dân nghèo mạt rệp thì chưa lúc nào đảng giàu bằng lúc này, qua nguồn tiền của tư bản đổ vào ào ào như nước chảy, giúp các giai cấp lãnh đạo chính quyền chỉ một sớm một chiều, từ bần cố nông trở nên địa chủ, phú nông và hàng thượng lưu trưởng giả nhất trong xã hội đương thời. VN từ ngày lập quốc tới nay vẫn dựa vào "nông, công và thương nghiệp" để mà sinh tồn mặc dù địa vị của người sĩ phu trí thức được đứng đầu và nông gia chiếm tới 85% dân số cả nước. Chính nhờ vào nền kinh tế tự túc có tính cách gia đình này, mà VN ngay thời kỳ chiến tranh hay bị Pháp đô hộ, vẫn nằm ngoài danh sách 20 quốc gia nghèo đói trên hoàn vũ, trong lúc đó dưới sự hỗn mang của chế độ "công tư sản lẫn lộn", nước ta bị các cơ quan quốc tế tài trợ như IMF, WB... xếp vào số 10 nước thiếu ăn, tệ mạt nhất thế giới.

Giữa lúc cả nước vẫn coi cái ăn là điều quan trong của kiếp người, thì đảng lại đốt giai đoạn một trăm năm lạc hậu, xóa bỏ cái nền kinh tế tự túc của dân tộc bao đời, để thay thế vào những bước nhảy vọt giống như Mao Trạch Ðông từng làm thuở nào, qua cái gọi "công nghiệp hóa, hiện đại hóa" nhưng thực chất là thừa cơ làm thêm một vụ "cải cách ruộng đất" như đã làm trên đất Bắc, để thu gọn vào tay tất cả đất đai vườn ruộng của đồng bào miền Nam VN, một giấc mơ vĩ đại mà đảng đã đeo đẳng suốt 32 năm qua nhưng chưa đạt được vì vấp phải sự chống đối mãnh liệt của tầng lớp nông dân Nam VN, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Nhìn lại lịch sử thế giới đặc biệt là tại Trung Hoa, ta thấy hầu hết các cuộc khởi nghĩa nổi dậy chống lại chính quyền, đều do nông dân khởi xướng và tham dự, vì họ chính là nạn nhân bị cường hào ác bá toa rập với bọn quan lại áp chế gây nên cảnh đói khổ lầm than. Ðó là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của Trần Thắng, Ngô Quảng rồi sau đó có Hạng Võ, Lưu Bang... vào năm 209 trước Tây Lịch, chống lại Tần Nhị Thế và đã làm sụp đổ cơ nghiệp bá quyền của Tần Thỉ Hoàng đã xây dựng trên xương máu của Hán tộc. Nói chung tất cả các triều đại Hán, Tuy, Ðường, Tống, Nguyên Mông, Minh, Thanh đều có các cuộc khởi nghĩa của nông dân để đòi quyền sống, trong số này lừng lẫy nhất là cuộc khởi nghĩa của Hoàng Sào với hơn 600.000 ngàn người tham dự vào năm 878 sau TL, chống lại nhà Ðường. Lịch sử lại tái diễn vào cuối đời Bắc Tống có Tống Giang khởi nghĩa tại Lương Son Bạc, đời Nguyên Mông có Từ Thọ Huy, Trương Sĩ Thành, Chu Nguyên Chương... cầm đầu những người nông dân nghèo khổ, đánh đuổi được giặc Mông ra khỏi Trường Thành vào năm 1368, khôi phục lại đất nước.

Ở nước ta cũng vậy, vào cuối các đời nhà Lý, Trần, Lê và đầu nhà Nguyễn, nông dân bị bọn quan lại địa phương cấu kết với đám địa chủ, cường hào bốc lột áp chế nên đã nổi dậy khắp nơi chống lại chính quyền. Năm 1945 quân phiệt Nhật cấu kết với thực dân Pháp chiếm gần như toàn bộ đất đai và lúa thóc của nông dân miền Bắc và các tỉnh Bắc Trung Phần, đã gây nên trận đói kinh khiếp nhất trong dòng sử Việt, làm hơn triệu người chết đói, tạo cơ hội để Hồ và đảng CS cướp được chính quyền. Tất cả những dẫn chứng trên, đều là những bài học đích thực của lịch sử chẳng lẽ đảng không biết hay cố tình tự lừa dối mình, để nhắm mắt lao vào một trận cuồng phong bảo táp, do nông dân các tỉnh Nam và Trung Phần tạo nên từ đầu tháng 6-2007 tới nay vẫn còn tiếp diễn, khi quyền sống và sinh mệnh của họ bị đảng cưởng bức, bốc lột và cướp giựt một cách tận tuyệt.

Ðầu tháng 6 năm 1989, cả thế giới bàng hoàng khựng điếng và phẫn nộ trước cuộc thảm sát tại Thiên An Môn, do Trung Cộng gây ra. Phải chăng nhờ có những hình ảnh thực tế của bạo lực được phơi bày ra trước mắt nhân loại, đã mở đường cho sự sụp đổ toàn diện sau đó của khối CS Ðông Âu, Ðông Ðức, Liên Bang Sô Viết và nhiều nước khác khắp thế giới, ngoại trừ Trung Cộng, Việt Cộng, Bắc Hàn và Cu Ba. Nhưng tình hình thế giới ngày nay đã thay đổi, nên dù bị đảng CS dấu kín những thông tin từ bên ngoài, người dân trong nước vẫn có đủ trăm phương ngàn kế để theo dõi ứng phó. Nhờ vậy nhân loại mới có được tấm hình lịch sử, nhìn rõ tận mắt cảnh Linh Mục Nguyễn Văn Lý bị công an VC bịt miệng bóp cổ ngay trước mặt quan tòa. Ðiều này cho thấy sau hàng rào kẽm gai và mạng lưới công an với súng đạn mã tấu dao găm, dân tộc VN suốt 32 năm qua đã trãi qua một cuộc sống nô lệ mới, dưới sự cai trị độc ác siêu phong kiến của những khuôn mặt già trẻ độc tài trong chính trị bộ. Thế giới bên ngoài ngày nay đã gần như từng phút một biết được một cách chính xác cuộc sống lầm than của đồng bào cả nước, đến nổi họ đã bất kể mạng sống liều chết đứng dậy tố cáo tội ác của đảng cầm quyền, đòi lại những gì đã bị Việt Cộng tước đoạt suốt 32 năm qua, trong đó có quyền được làm một kiếp người bình thường với những gì của mình được tạo dựng bằng mồ hội nước mắt. Tất cả sự thay đổi chỉ còn là thời gian rất ngắn, có điều chắc chắn là VN ngày nào còn bị đảng CS cai trị, ngày đó nạn ngoại xâm và họa thôn tính của Trung Cộng sẽ không còn bao xa như tin tức mới biết Hải quân Tàu Cộng lại bắn vào ngư dân VN khi họ hành nghề trên chính quê hương mình tại quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ tỉnh Bình Thuận.

1 TỪ LUẬT NGƯỜI CẦY CÓ RUỘNG TẠI VNCH TỚI VIỆC CẢI CÁCH RUỘNG ÐẤT TRÊN ÐẤT BẮC DO HỒ CHÍ MINH KHỞI XƯỚNG :

Ngày 7 tháng 7 năm 1954 Quốc Trưởng Bảo Ðại cử ông Ngô Ðình Diệm làm Thủ Tướng Quốc Gia VN. Ngày 20-7-1954 đất nước bị chia đôi theo hiệp định Genève nhưng Thủ Tướng Diệm vẫn tiếp tục chức vụ trên phần đất thuộc VNCH từ bên này vĩ tuyến 17 vào tới mũi Cà Mâu. Sau khi định cư cho hơn một triệu dân Miền Bắc di cư và giãi quyết được tình hình chính trị nội bộ, vào tháng 1-1955 Thủ Tướng Diệm đã ký hai Dụ số 2 và 7 nhằm thiết lập một Quy Chế liên hệ tới các Tá Canh đang thuê mướn ruộng để canh tác, chấm dứt các hợp đồng thuê mướn ruộng bằng miệng giữa chủ đất và nông dân với giá thuê rất cao, được trả bằng nông sản đã thu hoạch. Nhờ đó giá thuê đất chỉ còn có phân nữa và điều kiện thuê mướn cũng được ấn định rõ ràng, hoàn toàn có lợi cho nông dân nghèo.

Ngày 26-10-1955 Thủ Tướng Diệm trở thành Tổng Thống đầu tiên của nền đệ nhất Cộng Hòa Miền Nam qua một cuộc phổ thông đầu phiếu. Ngày 22-10-1957 Tổng Thống Diệm ban hành Dụ số 57 nhằm cải cách điền địa khắp lãnh thổ Miền Nam VN, trong đó qui định mỗi điền chủ tối đa chỉ có 100 mẫu tây (Ha) ruộng, gồm 30 mẫu trực canh và 70 mẫu cho thuê. Riêng số đất bị truất hữu, chính phủ đã bồi thường thỏa đáng cho các địa chủ với 10% tiền mặt, 90% còn lại trả trong 12 năm với tiền lời hằng năm là 3%, qua dạng trái phiếu, có giá trị như tiền mặt để trả thuế, mua cổ phiếu trong các xí nghiệp của chính phủ. Tất cả ruộng đất bị truất hữu, chính phủ đều bán lại cho các tá điền, mỗi người 5 mẫu tây, theo giá đã mua của địa chủ và được trả góp trong 12 năm. Qua luật cải cách này, chính phủ đã mua lại được hơn 430.319 mẫu tây đất, để bán lại cho giới tá điền, giúp họ cũng được làm chủ ngay trên mảnh đất mình đang canh tác.

Tiếp tục sự nghiệp dang dở của cố Tổng Thống Diệm, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa Miền Nam VN đã ban hành Ðạo Luật số 003/70 ngày 26-3-1970 cũng nhằm việc cải cách ruộng đất gọi là "Luật Người Cầy Có Ruộng".Sự khác biệt của đạo luật mới là luật được áp dụng chung cho các chủ đất không trực canh, không áp dụng cho các loại ruộng hương hỏa và những nông dân có số ruộng dưới 15 mẫu. Cũng theo luật mới này, chính phủ sẽ thu mua hết số đất trên 15 mẫu ấn định, để cấp phát cho các tá điền nghèo được ấn định 3 mẫu tây (Nam Phần) và 1 mẫu tây cho Miền Trung và Cao Nguyên. Riêng những chủ đất bị truất hữu, chính phủ sẽ bồi thường 20% tiền mặt, số còn lại trả bằng trái phiếu trong 8 năm với lãi suất thường niên là 10%.

Hỡi ôi đời là vậy, trong khi chính phủ VNCH đã làm hết trách nhiệm để giúp cho các tá điền nghèo cực thoát được cảnh bốc lột của chủ đất, thì một số lại chạy theo VC chống lại chính quyền, khiến cho Miền Nam phải sụp đổ vào ngày 30-4-1975, đất đai vườn ruộng của nông dân được chính phủ VNCH phân phát ngày trước đã bị đảng hợp tác hóa, rốt cục người nghèo tay trắng vẫn hoàn trắng tay, phải nai lưng cầy thuê cuốc mướn cho tầng lớp địa chủ mới không ai khác hơn là các giai cấp lãnh đạo của VC. Nhưng quan trọng hơn hết là qua hai lần cải cách điền địa tại VNCH, đều dựa vào sự bình đảng và tình người, cho nên đã không có cảnh đấu tố, giết người như đã xảy ra ở miền Bắc. Ðó là sự khác biệt giữa con người văn minh nhân bản được gọi là Người Việt Quốc Gia và Người Phát Xít không tim óc nhân tính quen sống với độc tài đảng trị mà nhân loại gọi là Cộng Sản.

+ Cuộc Cải Cách Ruộng Ðất của Hồ Chí Minh :

Ngày 5-6-1948 Cao Ủy Liên Bang Ðông Dương là Emile Bollaert qua Thỏa Ước Hạ Long đã thừa nhận Quốc Gia VN dưới sự lãnh đạo của Quốc Trưởng Bảo Ðại là một nước Ðộc Lập trong Liên Hiệp Pháp. Ngày 8-3-1949 Quốc Trưởng Bảo Ðại lại ký với Tổng Thống Pháp Vincent Auriol Thỏa Ước Elysée tại Paris, theo đó Pháp công nhận VN là một Quốc Gia thống nhất gồm 3 miền, Bắc, Trung và Nam Phần. Chính vì vậy nên Trung Cộng và Liên Xô trước sau vào tháng 1-1950 đã vội vã công nhận chính phủ VN Dân Chủ Cộng Hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Kể từ đó, VN đã có hai chính phủ đối lập, một của người Việt Quốc Gia và một của Ðệ Tam Cộng Sản Quốc Tế. Năm 1950, Hồ sang Liên Xô cầu viện đồng thời nhận chỉ thị của Staline đem về nước thi hành, trong đó có việc công khai hóa hoạt động của đảng Cộng Sản và đẩy mạnh công tác cải cách ruộng đất theo đường hướng của Sô Viết. Công tác này được Hồ cho thi hành qua năm đợt, bắt đầu năm 1949 tới 1956 mới tạm kết thúc vì nhu cầu tuyên truyền "sinh Bắc tử Nam"qua cuộc chiến xâm lăng VNCH.

Nói chung cảnh đấu tố của VC chỉ xảy ra dữ dội tại lãnh thổ của VN dân Chủ Cộng Hòa gồm Bắc Phần và các tỉnh Thanh, Nghệ, Tỉnh, Quảng Bình và một phần Quảng Trị nằm bên kia vĩ tuyến 17. Ở miền Nam VN trước ngày chia đôi đất nưóc năm 1954, các tình Nam. Ngãi, Bình, Phú bị Việt Minh chiếm đóng được gọi là Liên Khu 5 cũng diễn ra cảnh đấu tố nhưng không sắt máu chết người như ở miền Bắc, nhất là giai đoạn từ 1955-1956 khi Hồ thi hành theo lệnh của Staline và Mao Trạch Ðông.

Khởi đầu cuộc cải cách ruộng đất, Hồ đã ký sắc lệnh số 78 ngày 14-7-1949 thành lập Hội Ðồng Giảm Tô bắt các đia chủ phải giảm tiền thuê đất cho tá điền từ 25-30% và thông tư số 33 ngày 21-8-1949 về nguyên tắc phân chia số ruộng đất cho nông dân nghèo, vừa được tịch thu của các điền chủ người Pháp và người Việt bị đảng gán tội là Việt Gian. Năm 1950 Hồ ký hai sắc lệnh số 89 ngày 22-5 xóa bỏ tất cả hợp đồng thuê mướn ruộng giữa điền chủ tá điền trước và sau năm 1945 và sắc lệnh số 90 ký cùng ngày, quốc hữu hóa tất cả những ruộng đất đã bỏ hoang trên 5 năm, nói là để cấp phát cho người nghèo tạm thời sử dụng trong 10 năm và miễn đóng thuế trong 3 năm đầu. Một đại hội đảng CS đã được triệu tập vào cuối tháng 11-1953 tại chiến khu Việt Bắc để bàn về việc "cải cách ruộng đất" và quyết định này lại được Quốc Hội VC vừa mới được thành lập vào năm 1946 hợp thức hóa trước khi đem thi hành. Lần cải cách này, Hồ không theo Liên Xô mà lại theo đường lối của Trung Cộng và Bắc Hàn không bỏ hẳn quyền sở hữu đất đai của nông dân dù thực tế chỉ là lý thuyết vì đảng đã quản lý tất cả. Cũng trong đợt cải cách này đảng công khai tịch thu đất đai của các địa chủ đã bỏ về Tề bị kết tội là Việt Gian, của người Pháp và những ngoại kiều khác. Nhiều tòa án nhân dân đặc biệt được thành lập để xét xử bất cứ ai chống lại đảng về việc cải cách ruộng đất.

Sau khi đất nước bị chia đôi vào năm 1954, tình hình ruộng đất ở miền Bắc thuộc Cộng Sản cai trị đã có sự thay đổi rất lớn vì đã có hơn 1 triệu người di cư vào Nam bỏ lại toàn bộ điền sản, nên vào ngày 14-6-1955 HCM lại ký một sắc lệnh về cải cách ruộng đất mới, ra lệnh tịch thu toàn bộ đất đai tài sản của bất cứ ai bị gán cho cái tội phản động, Việt Gian, địa chủ, cường hào ác bá. trong đó có cả các cơ sở tôn giáo, những người từng tham gia cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp... Sự trưng thu trên chẳng những không được bồi thường mà Hồ còn ra lệnh cho các tòa án nhân dân đặc biệt định tội những nạn nhân bị đảng qui kết tội mà không cần phải xét xử điều tra gì cả vì mọi vấn đề liên quan tới sự phân chia tài sản, ruộng đất và thành phần xã hội đã được các chóp bu trong chính tri bộ quyết định sẳn theo sự chỉ đạo của Liên Xô và Trung Cộng.

Ðể tiến hành cuộc cải cách ruộng đất, Hồ ban hành lệnh "rèn cán chỉnh quân" và "rèn cán chỉnh cơ" vào năm 1949. Trong lúc cả nước đều phải học tập về chủ nghĩa Mác-Lênin nhưng Hồ vẫn chưa thấy đủ nên năm 1950 lại bắt "chỉnh huấn" vừa để thanh lọc hàng ngũ đảng, củng cố tư tưởng vô sản để hỗ trợ công tác sắp tới. Tháng 3-1953 đảng ban hành một sắc lệnh qui định lại những thành phần xã hội gồm : Ðịa Chủ là những người có từ 3 mẫu ta ruộng đất trở lên, Phú Nông có 3 mẫu ruộng và 1 con trâu, Trung Nông có 1 tới 3 mẫu ruộng và 1 con trâu, Bần Nông có ít ruộng đất và Bần Cố Nông là những tá điền không đất ruộng.

Ðể lôi cuốn quần chúng nông thôn, đảng khích động sự căm thù giai cấp, đưa cán bộ về tận nông thôn để sống với dân cùng ăn, cùng ở, cùng làm để nạp bè kết đảng. Có như vậy cán bộ đảng mới nắm rõ tình hình của địa phương, tìm đúng những tên đầu trộm đuôi cướp hung hãn để khuyến khích chúng đứng ra tố khổ các nạn nhân theo danh sách đảng đã lập sẳn, qua cái gọi là tòa án nhân dân đặc biệt. Công tác được tiến hành ngay khi đất nước vừa chia đôi vào ngày 20-7-1954 do một Uỷ Ban Cải Cách Ruộng Ðất lãnh đạo tại trung ương có Trường Chinh (TBT) và ba phụ tá là Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Hồ Viết Thắng. Tại địa phương, đảng cho thành lập mỗi tỉnh 10 đoàn với nhân số mỗi đoan có 100 cán bộ, đoàn trưởng có chức vụ ngang hàng với bí thư tỉnh uỷ, chỉ làm việc thẳng với trung ương. Mỗi đoàn lại chia thành nhiều đội cải cách với nhân số từ 6-7 người mà đội trưởng lại là thành phần bần cố nông sinh sống tại địa phương. Tất cả những thành phần trên được Hồ ra lệnh cho bộ đội chính qui vừa từ mặt trận Ðiện Biên Phủ trở về bảo vệ. Do đó chúng đã phóng tay, khiến cho chẳng những người sống phải khiếp sợ mà cả đất trời cây cỏ và súc vật cũng phải điêu đứng vì "Thà giết oan 10 người còn hơn bỏ sót một tên phản động".

Hiện vẫn còn nhiều người được chứng kiến cảnh đấu tố năm nào trên đất Bắc, khi kể lại cảnh tượng trên, vẫn không ngăn nổi sự khiếp đãm rùng mình về sự tra tấn các nạn nhân như bỏ cho chết đói, mắng chữi hành hạ trước khi đào hố chôn sống hay đánh đập cho tới chết...

+ Hậu Quả Cuộc Cải Cách Ruộng Ðất ở Miền Bắc :

Theo các tài liệu còn lưu trử, thì cuộc cải cách ruộng đất trong năm 1955-1956, đã bức hại từ 120.000 - 200.000 người, trong số này có khoảng 40.000 - 60.000 cán bộ đảng viên. Ngoài số người bị tử hình trên, còn có rất nhiều người khác bị liên hệ, phải chịu cảnh tù đày trong các trại cải tạo. Sự tàn bạo có một không hai trên trong dòng sử Việt, khiến cho cả nước oán hận căm thù nên họ bất chấp súng đạn, nổi lên phản đối, dữ dội nhất là tại huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An), khiến Hồ ngày 13-11-1956 phải điều động sư đoàn 325 tới đàn áp cuộc nổi dậy của nông dân trong tay chỉ có gậy gộc, cuốc xẻng... kéo dài hơn 10 ngày, cuối cùng có thêm 1000 người vô tội bị bắn chết, nhiều người khác bị bỏ tù.

Mặt khác để trấn an và trên hết là tiếp tục sử dụng máu xương của thanh thiếu niên nam nữ vào cuộc chiến xâm lăng Miền Nam đang bắt đầu, Hồ nhân danh đảng qua thư ngày 1-7-1956 và 18-8-1956 nhận lỗi sai lầm, đồng thời cách chức tổng bí thư của Trường Chinh cùng các chức vụ của Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương và Hồ Viết Thắng.... Nhưng đó cũng chỉ là hành động mị dân, vì chẳng bao lâu Hồ lại phục chức cho Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương và Hồ Viết Thắng.

Hậu quả cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc do Hồ khởi xướng theo lệnh của Liên Xô và Trung Cộng, chẳng những đã không cải thiện được cuộc sống nghèo nàn của người dân nơi thôn dã mà còn gây nên sự tê liệt về nông nghiệp vì những người còn sống sót sau cuộc cải cách vẫn cứ lo sợ một sự trả thù. Ngoài ra qua lần cải cách trên, Hồ coi như đã đạt được mục tiêu chính trị mong muốn là xóa bỏ hẵn cấu trúc xã thôn cũ, để thay vào đó là hàng lãnh đao của đảng. Làm cuộc cải cách ruộng đất để đẩy nông dân vào thêm con đường khốn cùng để họ chỉ còn biết nghĩ tới miếng ăn và sự căng thẳng tinh thần vì màn lưới khủng bố của công an khu vực luôn rình rập.

Cuối cùng người dân miền Bắc bất cứ là ai cũng đều giống như cánh chim bị đạn, mất hết hồn vía sau trận đấu tố kinh hồn, nên đã ngoan ngoản chui vào những hợp tác xã nông nghiệp do đảng thành lập và sau rốt ruộng đất, trâu bò, nông cụ... đều thuộc tài sản tập thể quản lý, bất kể là ruộng của mình hay vừa mới được chia trong cuộc cải cách.

Tóm lại Hồ Chí Minh tổ chức cuộc cải cách ruộng đất, vừa đạt được mục tiêu chính trị là bần cùng hóa mọi thành phần trong xã hội, vừa thanh lọc được hàng ngũ đảng sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ, vừa cướp trọn điền sản đất đai của nông dân miền Bắc để tất cả trở thành vô sản chuyên chính, có vậy mới lùa họ một cuộc chiến mới, qua tem phiếu sổ hộ khẩu do đảng phân phối quản lý. Hỡi ôi còn gì ngao ngán hơn khi đọc những lời thơ sắt máu của Tố Hữu

"giết, giết nữa bàn tay không phút nghĩ
cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
cho đảng bều lâu, cùng rập bước chung lòng
thờ Mao chủ tịch, thờ Staline bất diệt".

2- CUỘC CẢI CÁCH RUỘNG ÐẤT Ở MIỀN NAM VN, QUA CHIÊU BÀI CÔNG NGHỆ HÓA NÔNG THÔN :

Ngày nay nhìn vào báo cáo xuất cảng nông phẩm của đảng CSVN, ai cũng tưởng VN là một nước lớn và giàu manh. Thật sự đấy chỉ là bề trái của huyền thoại mà Trần Bạch Ðằng nói tới "đầu thế kỷ chưa lo nổi bát cơm cho 20 triệu người, cuối thế kỷ giải quyết xong cho hơn 70 triệu người và là nước xuất cảng gạo thứ 2 trên thế giới". Ðó chỉ là tường trình vì thực tế ai cũng biết năng suất cũng như hoa lợi của nông dân VN rất thâp so với các nước trong khu vực ASEAN. Riêng việc hỗ trọ giúp nông dân xóa đói giảm nghèo, tuyên truyền là vậy nhưng đảng chỉ hỗ trợ cho các doanh nghệp "phe ta’ mua lúa xuất khẩu trong lúc nông dân bị ép giá rất thấp khi bán lúa cho nhà nước theo chỉ tiêu đã ấn định, nên nhiều hộ phải thắt lưng buộc bụng thiếu ăn nhịn đói mới đủ số. Bởi vậy không ai ngạc nhiên, khi biết đồng bằng sông Cửu Long từ trước tới nay là vựa lúa của cả nước và chiếm 90% lượng gạo xuất cảng nhưng nông dân lại bị xếp vào hạng nghèo nhất cả nước, với lợi tức không quá 300 mỹ kim/1 năm?

Một bi thãm nữa mà người ngoài không biết là ngày nay hầu hết đồng ruộng của Miền Nam VN trở thành tư hữu của giai cấp địa chủ mới. Chính thành phần này mới là chủ nhân ông thực sự còn nông dân chỉ là những người làm thuê như thời Pháp thuộc, giúp cho đảng vừa trưng dụng được sức lao động rẻ tiền, vừa thu được nguồn lợi nhuận to lớn qua các doang nghiệp đỏ hay quốc doanh. Ðã thế cán bộ đảng còn cố vơ vét cho hết lúa gạo để chuyển lậu ra Bắc rồi vượt biên giới xuất cảng lậu bằng đường biển. Tất cả đều là những lý do để giải thích sự nghịch lý "gạo thừa nhưng vẫn thiếu khiến cho dân đói".

VN ngày nay vẫn còn được cơ quan lương nông thế giới (FAO) cùng các tổ chức nhân đạo viện trợ lương thực. Nhìn vào ai cũng tưởng các cơ quan trên cố tình bao che cho chế độ kể cả việc hũy tiền lời hàng năm càng lúc càng tích lũy không biết đâu mà mò. Ðây là mánh lới của bọn con buôn quốc tế, một tay thì bỏ tiền ra cứu đói, còn tay kia cứ đổ vốn vào ào ào để nhà nước ta tha hồ lãng phí rồi bắt dân ỳ cổ đóng góp trả tiền lời. Vòng đời cứ quẩn quanh như thế thì bảo sao người nghèo cả nước càng lúc càng không tăng?

Michael Chossudovsky, giáo sư kinh tế học tại Ðại Học Ottawa (Canada) đã nói không cần úp mở “ VN ngày nay là một trong những nước chậm tiến đang bị cột chặt vào nợ nần lút đầu với tiền lời phải trả. Do dó nền kinh tế nổi (hợp pháp) vì lo cho tiền trả nợ càng lúc càng suy sụp. Ðó cũng là lý do chựt giụp mọi thứ để xuất khẩu như một phương cách giải cứu, thậm chí phải bán cả ma tuý như Miến Ðiện để trang trải tiền lời. Nên phân biệt làm gì tiền sạch tiền dơ, miễn sao có tiền trả nợ là đủ“. Còn VN may mắn hơn vì đã có các cơ quan IMF, WB,ADB bao che sẳn sàng trả tiền lời, vì vậy đảng đâu có sợ mà không tiếp tục vay nợ.

Thông tin một chiều, kiến thức tạp nhạp đảng đã dẫn đường cho cả nước vào chổ bế tắc suốt mười mấy năm qua kể từ ngày mở cửa đổi mới, với các kế hoạch nuôi tôm cá, trồng cà phê cao su, lập vườn trồng cây ăn trái... khiến cho nhu cầu thừa mứa dẫn tới tình trạng phá sản sạt nghiệp phải bán hết điền sản để trả nợ ngân hàng, còn không thì phải tự vẫn. Vì vậy nên ở nông thôn hiện nay, hầu hết ai cũng muốn bán hết ruộng đất để đi làm mướn vì thu nhập quá thấp lại bấp bênh đủ thứ. Tình trạng này cũng đã xảy ra tại Trung Cộng và Ðại Hàn hiện nay hay Âu Châu vào thế kỷ XIX, làm đảo lộn hết mọi nếp sống cũ, tạo cơ hội vàng ròng để đảng mua hết đất đai hoa màu tại nông thôn, rồi cải tạo thành các khu công nghiệp hóa bán lại cho tư bản với giá rất cao như bài diễn văn của Võ Văn Kiện lúc còn làm Thủ Tướng VC đọc trong ngày 30-4-1995 "làm thế nào để sớm đưa nước ta từ nước nông nghiệp trở thành quốc gia công nghiệp hóa". Ðể đạt được mục đích trên, Kiệt đã ký quyết định ngày 16-8-1996 ra lệnh đuổi đồng bào tại nhiều tỉnh miền Trung nằm trong các vùng dự án. Tất cả đều ăn khớp với cái gọi là "quốc sách hiện đại hóa công nghệ hóa" với thực chất tạo điều kiện tối ưu cho tư bản làm giàu, đầy người dân nhất là nông gia vào con đường chết, mất hết đất đai vườn ruộng, cuối cùng chỉ còn con đường thế con đợ vợ và ngay bản thân mình cũng biến thành con vật hai chân để phục vụ cho chế độ hiện hữu. Thiên đàng xã hội chủ nghĩa là thế đó !

+ ÐẢNG HỒI SINH GIAI CẤP ÐỊA CHỦ CƯỜNG HÀO ÐỎ TẠI NÔNG THÔN :

Qua cái gọi là "chính sách tạo điều kiện làm giàu cho nông dân" đảng đã tạo điều kiện hồi sinh cho giai cấp địa chủ phú hào đỏ tại địa phương. Theo luật đất đai của xã nghĩa VN được công bố ngày 14-7-1993 với 3 điều căn bản tựu trung cũng vẫn nhắm tới việc tập thể hóa ruộng đất như thời còn bao cấp hay hợp tác xã kiểu cũ, nhằm biến nông dân thành công nhân lãnh lương bằng hoa lợi được thu hoạch do chính mình làm ra, không hơn không kém những tá điền được đảng khoán đất nộp thuế. Sự khác biệt trong bộ luật đất đai mới năm 1993, một mặt nới rộng cho phép nông dân được sử dụng đất đai của mình nhưng mặt khác tạo điều kiện cho bọn cường hào tại địa phương gồm đoàn trưởng, chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, cán bộ các cấp... tha hồ tác quái đầu cơ. Ðó mới chính là những địa chủ thực sự vì có toàn quyền thu hồi hay cấp phát ruộng cho dân nhất là khi đảng ban hành nghị quyết 10 trả lại đất cho nông dân. Chính cái thời điểm này mới xãy ra cơn sốt sang nhượng đất đai, được đảng gọi là "cải tạo đất "mà thực chất giúp bọn đầu cơ mua lại đất của nông dân bằng cái giá tượng trưng rẻ mạt 11.000 tiền Hồ /1m2... Từ đó nông dân mất quyền tư hữu vĩnh viễn vì đã bán lại cho người khác. Cứ thế đất trồng lúa dần dần bị phá đi để cải tạo đất hay chuyển sang mục đích khác mà chủ yếu bán cho tư bản trong đó có cả con người như bản nghị quyết trong Ðại hội VIII của đảng đã nói "con người cũng là một nguồn lực cần phải tận lực sử dụng, để tạo ưu thế thực hiện các chính sách của đảng".

Tóm lại đảng CSVN từ khi ra đời tới nay đã nắm được ba cái bất ngờ, chứ không là "tất yếu", đó là cướp được chính quyền vào tháng 8-1945, chiến thắng VNCH ngày 30-4-1975 và vì thời cuộc mà phải mở cửa đổi mới vào đầu thập niên 90 khi trào lưu quần chúng không thế nào đảo ngược lại được, nếu không muốn bị tiêu diệt như Ðông Âu hay Liên Xô. Do tình trạng đột xuất không dự liệu nên đảng phải chạy theo thời cuộc và cũng vì để làm vừa lòng tư bản, nên đã phải thi hành một chính sách cải tố kinh tế kiểu lươn lẹo báo cáo láo. Hậu quả đẩy đất nước nhất là giới nông ngư dân nghèo vào con đường bế tắc vì đây là cơ hội để bọn tư bản nhất giới thương buôn Á Châu trong đó có Tầu đỏ, Tàu trắng, Nam Hàn... tha hồ săn quét moi móc cho tận tuyệt các tài nguyên trên mảnh đất trù phú VN, từ đất liền ra tới biển khơi hải đảo. Trước tình thế này, tập đoàn CSVN chỉ còn một cách để kéo dài quyền lực, là phải biến thành một Tập Ðoàn Tư Ban Ðỏ, để cùng hòa nhập vào các thế lực tư bản khác đang bỏ vốn đầu tư tại VN, tận lực khai thác cho hết mọi thứ sẳn có, trong đó có con người sống và cả nơi yên chốn nghỉ của những người khuất mặt, mà điển hình là Nghĩa Trang Quân Ðội VNCH tại Biên Hòa cũng không ngoại lệ.

Sự thật đã quá rõ ràng mà bất cứ ai cũng thấy được, đó là sự tồn vong của đảng CSVN ngày nay không còn dính líu gì tới chủ nghĩa hay tư tưởng nào khác ngoài Ðồng Tiền góp vốn của các thế lực tư bản tư nhân trong và ngoài nước. Nói một cách trắng trợn là đảng qua vai trò tư bản đỏ nay đã xác định vai trò lãnh đạo của mình dựa trên hai yếu tố : Tiền Ðầu Tư Ngoại Quốc và Bạo Lực Ðang Nắm Sẳn Trong Tay., mà hai thứ trên chẳng bao giờ đáp ứng được mục tiêu của đảng luôn đề cao tuyên truyền "Dân Giàu Nước Mạnh, Xã Hội Tự Do Công Bằng".

Vốn đầu tư nước ngoài nếu có đổ vào VN cũng chỉ nhắm vào nguồn lao động rẻ mat hay dùng để tạo nên những cơ sở vật chất cho tư bản khi tới địa phương thụ hưởng như hệ thống khách sạn, các trung tâm du lịch, nâng cấp các sản phẩm nội hóa để xuất cảng... mọi thứ đều sinh lời đổ tiền vào túi đảng và tư bản, còn người dân có chấm mút được gì ngoài sự hưởng ké các phương tiện.

Tức nước thì vỡ bờ, người dân cả nước hiện nay đã bị đảng dồn vào chân tường, nên chỉ còn cách đối mặt với bạo lực để mà sinh tồn. Hai mươi năm tồn tại VNCH (1955-1975) vì là một đất nước pháp trị, nên đả xãy ra không biết bao nhiêu cuộc biểu tình chống chính quyền nhưng đặc biệt là trong tất cả các cuộc biểu tình, hoàn toàn là những thành phần cao quí, dư thừa và được ưu đãi nhất trong xã hội Miền Nam lúc đó. Tuyệt nhiên chẳng bao giờ có giới lao động nông dân tham dự vì họ đâu có nhiều thì giờ nhàn rỗi hay uất ức nào để mà đòi hỏi tra vấn chính phủ. Tất cả sự thật về những bức tranh vân cẩu trên đã lộ nguyên hình sau ngày VNCH sụp đổ, thì ra biểu tình giả và kẻ đề xướng tham dự phần lớn cũng là của đảng gài lại.

Nhưng nay thì khác, suốt tháng 6-2007 tới nay lần đầu tiên đã có hàng ngàn nông dân từ nhiều tỉnh thành lặn lội tới Sài Gòn hay ra tận Hà Nội để biểu tình bất bạo động. Họ không đòi hỏi những thứ vô lý như những người biểu tình giả trước tháng 4-1975 tại Nam VN, mà chỉ van xin đảng CSVN trả lại Ðất Ðai, Vườn Tược, Nhà Cửa, Sản Nghiệp để mọi người sống. Ðòi hỏi chỉ có vậy thôi, cho nên trong các cuộc biểu tình đâu thấy bóng trí thức sĩ phu tham dự, vì những thứ đòi hỏi trên, các nhà báo nhà văn tại thanh thị đâu có mất?.

Tháng 5-1989 phong trào đòi dân chủ của giới trẻ Trung Hoa bùng nổ dữ dội cơ hồ làm rung chuyển nền móng của đảng cộng sản Tàu. Bất chấp nguyện vọng của toàn dân, Ðặng Tiểu Bình và đám chóp bu trong Trung Nam Hải đã sử dụng bạo lực để đè bẹp. Không thành công nhưng ít ra phong trào đòi dân chủ trên, cũng đã gây được một sự xúc động mãnh liệt tới thế giới, khi đưa những hình ảnh thật về sự bạo ngược, dã man của cộng sản ra ngoài anh sáng nhân loại. Chính những hình ảnh này mới là yếu tố giúp cho người dân Ðông Âu, Ðông Ðức và Liên Xô thức tỉnh, đứng đậy đạp đổ chũ nghĩa Mác Lê, xóa sạch thiên đường xã nghĩa đã cùm xích thân phận con người gần thế kỷ ô nhục.

Tại VN ngày nay, qua những hình ảnh về Linh Mục Nguyễn văn Lý bị bóp cổ, bịt miệng và các cuộc biểu tình đòi quyền sống của cả nước, đã đánh động lương tâm nhân loại, trong đó có Cộng Ðồng Chung Âu Châu và Cộng Ðồng Người Việt Tị Nạn CS khắp thế giới. Họ đã nhập cuộc với đám đông kể cả Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất tại quê nhà. Rồi giữa lúc tình hình đang loạn lạc vì dân chúng đã không còn ngồi chờ "tự do có sẳn" do đảng ban phát, nên rủ nhau liều chết đi đòi, thì Trung Cộng đổ thêm dầu vào kho xăng chờ phát lửa, khi ngang nhiên bắn vào thuyển của ngư dân đang hành nghề tại hải phận Trường Sa như ngầm bảo cho Mỹ biết là "VC ngày nay đâu còn chủ quyền?"

Hãy cùng nhau đứng dậy hởi người Việt trong và ngoài nước, đây là cơ hội của thế kỷ đã cho chúng ta tiêu diệt bọn lãnh chúa bạo quyền kể cả xác ướp sình thối của Hồ tặc đang nằm chình ình trong nhà tù Ba Ðình. Phải chôn ngay đi cái gọi là thiên đàng xã nghĩa, phải theo gương của đồng bào trong nước, mà vứt bỏ hết cái tội hèn và ích kỷ cá nhân, để hoàn thành công cuộc giải phóng và quang phuc đất nước như mặt trời đang hé dần -/-

Tháng 7-2007
Viết tại Xóm Cồn
Mường Giang

Thứ Bảy, 14 tháng 7, 2007

TRÍ TRÁ

Giả sử có một nhà phú hộ giầu lòng bác ái đến khoe với bạn rằng ông ta lấy rất nhiều tiền của trong nhà giao cho một tên cướp bảo nó đem bố thí cho những người nghèo khó trong làng, bạn có tin không? Nghe xong có lẽ bạn sẽ cười khẩy, bảo: Thôi đi cha nội, chuyện tào lao! Dẹp đi Tám.

Hoặc nếu có một ai đó nói với bạn rằng ở một xóm điếm trong thị xã người ta mở một buổi hội thảo để quảng bá lối sống tiết hạnh cho các cô gái mới lớn, thuyết trình viên là một nàng đĩ thập thành nổi tiếng nhất trong xóm, chắc bạn càng không tin hơn. Có phải thế không? Nghe rồi, tôi đoán bạn sẽ cười lên hố hố, rồi trịnh trọng phán: hay, hay lắm, chuyện tiếu lâm hay nhất thời đại.

Nhưng nếu tôi nói với bạn rằng có một đấng bậc cao cấp trong Giáo Hội viết trên một tờ báo của cái chế độ khét tiếng thù nghịch với Công Giáo những bài giảng đạo để rao truyền Tin Mừng Cứu Độ của Đấng Cứu Thế cho những người vô thần, bạn có cho là tôi đùa giai bạn không? Tôi biết bạn không tin. Nhưng nếu tôi quả quyết với bạn đây là chuyện có thật 100% thì chuyện gì sẽ xẩy ra? Tôi tin rằng bạn sẽ chồm lên hỏi tiếp ngay: Ai? Tờ báo nào? Có đúng thế không, thưa quí bạn đọc?

Xin trả lời ngay để bạn khỏi bồn chồn. Người là Đ/C Bùi Tuần. Và báo là tờ Công Giáo và Dân tộc (CG&DT). Cả hai đều ở trong nước.

Tuần rồi tôi nhận được hai bài viết của Đ/C Bùi Tuần do bạn bè phương xa gởi tới cho đọc. Đ/C Bùi Tuần với người viết kể cũng chẳng xa lạ gì, dân “Mỹ Đức, Thái Lọ” cả. Đức cha thuộc hàng sư phụ của người viết. Hồi nhỏ người viết có chơi với người em út của đức cha là Bùi Thái. Anh ta chết đuối tại khúc sông Lạc An, Biên Hòa lúc mới bước vào tuổi niên thiếu. Với những bài viết mà nội dung đã đi ra ngoài ngưỡng cửa của sự tự trọng, người viết ít khi muốn đề cập tới. Lần này xin phá lệ một phen chỉ vì một việc làm trí trá có thể khiến thiên hạ bị mắc lừa.

Hai bài viết của Đ/C Bùi Tuần nói trời nói đất, nói hươu nói vượn, nói nhăng nói cuội gì đi chăng nữa tựu chung cũng gom vào 3 chủ điểm sau đây: một, cổ võ tinh thần yêu thương, phục vụ. Hai, kết án truyền thông hải ngoại mang nặng hận thù xả chất độc. Và ba, chửi bới những người khác ý mình là phong trào tam bất: bất trung, bất hiếu, bất kính.

1. Yêu Thương, Phục Vụ - Giám mục cổ võ lòng yêu thương, phục vụ là rất đúng người, đúng việc rồi. Có gì phải nói. Có một vài người đã lên tiếng kêu mời Đ/C Bùi Tuần và HĐGM ra vườn hoa Mai Xuân Thưởng, Hànội, và trụ sở quốc hội 2 VC tại Saigon để yêu thương và phục vụ những đồng bào xấu số bị tước đoạt mọi sự và bị đàn áp. Nhưng không thấy có vị nào trả lời. Có lẽ làm việc yêu thương phục vụ ngoài đường ngoài xá bất tiện lắm, không được, nên các ngài e ngại chăng. Hoặc giả các ngài đang bận yêu thương phục vụ những người khác rồi. Ba đầu sáu tay đâu mà làm một lúc hai ba công việc được. Lâu lắm rồi, trong một bữa ăn tối tại nhà ông chủ tịch hội Ái Hữu GP Thái-Bình, người viết được nghe một linh mục GP Oakland, California, đệ tử ruột của Đ/C Bùi Tuần khoe rằng đức cha có thể nói là cố vấn tin cậy của một số nhân vật trong Bộ Chính Trị. Như vậy có lẽ đức cha mải bận yêu thương phục vụ những thứ tai to mặt lớn cỡ Nguyễn Minh Triết, Võ Văn Kiệt, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng v.v. chứ đâu có uổông để yêu thương phục vụ những kẻ thế cô hèn hạ kia. Người đệ tử ruột của đức cha cũng chỉ mải miết yêu thương phục vụ đàn bà con gái mà quên những con chiên lạc, nên đã bị giáo phận mời đi chỗ khác chơi rồi.

2. Truyền Thông Hận Thù Xả Chất Độc - Trong bài “Tâm Tình Viết Báo” của ngài, Đ/C Bùi-Tuần không trực tiếp đề cập đến những phê bình, chống đối HĐGM vừa qua của giáo dân VN tỵ nạn tại hải ngoại, nhưng người ta cũng nhận ra được sự bất bình, hằn học của ngài qua đoạn văn ngài viết sau đây: “Đó là có một số người đi về phía trước với nhiều phương tiện truyền thông phong phú. Những phương tiện này chất nặng hận thù định kiến và tinh thần thế tục. Họ xả chất độc vào những người tốt, cả trong Hội Thánh. Sự kiện đó làm cớ cho Hội Thánh dễ bị mất uy tín. Để rồi, sự lựa chọn của đồng bào có thể sẽ xa dần Công Giáo, để đặt tín nhiệm vào những nơi khác. Điều đó không còn chỉ là nỗi lo, mà xem ra đang trở thành hiện thực.”

Một chi tiết rất nhỏ nhưng không thể không lưu ý. Đoạn văn trên cho thấy Đ/C Bùi Tuần đã thấm nhuần lối viết (style = văn phong) xỏ lá của bọn VC thế nào. Ngài viết “một số người đi về phía trước”. Lối nói bóng bẩy ám chỉ “những người VN tỵ nạn tại các nước tiền tiến”. Viết như thế để tránh dùng 2 chữ “tỵ nạn”, một từ ngữ rất úy kỵ trong lối viết lách của bọn văn nô trong nước. Thuần hóa đến cỡ này thì các tế bào xương tủy chắc cũng đỏ hết trơn rồi. Đ/C Bùi Tuần nói đúng một điều. Đó là Hội Thánh bị mất uy tín và người ta không còn tín nhiệm vào GH nữa. Thế nhưng ngài lại không nhận thấy rằng chính bản thân ngài và bọn giáo sĩ quốc doanh mới là nguyên nhân gây nên tình trạng mất uy tín của GH. Chỉ có những kẻ mù lòa con tim, đánh mất lương tri và lý trí bị nhuộm mầu máu mới nhắm mắt đổ lỗi cho người khác như thế. Đ/C Nguyễn Kim Điền là người được người đời ngưỡng mộ và giáo dân tôn sùng. Trong khi đó, Đ/C Nguyễn Sơn Lâm bị mọi người coi chẳng ra gì cả ngay khi ngài còn sống. Đó là hai điển hình biện chứng cho hai đường lối. Xin hỏi trong hai vị, ai là người đem lại thanh danh và uy tín cho GH, và ai là người đã làm tổn thương đến danh dự của GH và làm cho người ngoài xa lánh GH? Xin Đ/C Bùi Tuần trả lời dùm.

Đ/C Bùi Tuần trách cứ những phương tiện truyền thông phong phú tại hải ngoại chất nặng hận thù định kiến và tinh thần thế tục, xả chất độc vào những người tốt, cả trong Hội Thánh. Rất tiếc đức cha đã không nói rõ chất độc đó là chất độc gì, da cam, da quít, hay da gì khác? Người viết đoán mò mãi không ra nên không thể luận bàn gì được. Còn những người tốt là những ai? Võ Văn Kiệt, người “bạn” chí thân của đức cha? Nguyễn Tấn Dũng? Nguyễn Minh Triết? TGM Ngô Quang Kiệt, người con cưng nhất của ngài? Giám mục Nguyễn Văn Sang? Hay còn những ai nữa? Nếu đức cha nói rõ những người tốt bị xả chất độc là những ai thì còn có thể tranh luận được để tìm ra đúng sai. Đàng này đức cha không nói thành ra xin chịu. Riêng về điểm đức cha kết án truyền thông mang nặng hận thù thì không thể không làm cho ra lẽ.

Đ/C Bùi Tuần nói rằng những người làm truyền thông mang nặng hận thù xả chất độc vào cả những người tốt trong Hội Thánh (chữ Đ/C Bùi Tuần ưa xài). Người viết không tin và hoàn toàn phủ nhận lời cáo buộc đó. Việc các cơ quan truyền thông đăng tải các bài viết của con chiên chỉ trích thái độ im lặng của HĐGM trước việc CS đàn áp thô bạo các quền tự do của người dân trong nước và những việc làm chướng tai gai mắt của các giám mục thì có. Còn nói rằng truyền thông mang nặng hận thù xả chất độc vào những người tốt trong GH thì tuyệt đối là không. Đây phải được coi là một lời bịa đặt vu khống có ác ý. Tiếc rằng Đ/C Bùi Tuần đã không chịu vô tư và thẳng thắn tìm hiểu sự thật của vấn đề. Đ/C Nguyễn Chí Linh sang Mỹ xin tiền, tổ chức tiệc tùng linh đình đúng vào dịp đồng bào tỵ nạn tưởng niệm Quốc Hận 30-4. Việc đó có thích hợp không? Con chiên phản đối tại sao lại bảo là hận thù xả chất độc? Con chiên phê phán TGM Ngô Quang Kiệt kêu gọi khép lại vấn đề CS cố ý đập phá tượng Đức Mẹ Pieta cũng là hận thù xả chất độc? Con chiên chất vấn Đ/C Nguyền Văn Hòa, chủ tịch HĐGM, việc ngài giải thích rằng cha Nguyễn Văn Lý làm chính trị cũng là hận thù xả chất độc? Rồi con chiên thắc mắc hỏi vậy thì mấy ông linh mục ứng cử vào quốc hội CS có phải là làm chính trị không cũng là hận thù xả chất độc nốt? Thật là vô lý nếu con chiên không có quyền được biết tại sao các linh mục tham gia vô guồng máy chính trị bán nước, và đàn áp của CS thì hợp giáo luật và được các bề trên cho phép. Còn cha Nguyễn Văn Lý tranh đấu chống VC bán nước và đàn áp dân lành lại cho là làm chính trị, phạm giáo luật? Một gia đình bị bọn bất lương xông vào chiếm hữu căn nhà, cướp sạch tài sản, bắt luôn cả vợ con làm nô lệ. Người chủ nhà may mắn chạy thoát thân. Anh ta tố cáo bọn cướp, kiên quyết thưa kiện và kêu cứu khắp nơi để đòi lại căn nhà và giải thoát cho vợ con. Người chủ nhà làm như thế là mang nặng hận thù? Giáo lý nào của Phật, của Chúa dậy anh phải quên đi nỗi đau mất nhà, mất vợ con, không được đòi lại những gì đã mất? Và giáo lý nào của Chúa cho phép bọn bất lương chiếm hữu tài sản, vợ con của người khác mà không phải đền trả. Hãy thi hành đúng luật Công Bình của Chúa đi đã. Tên cướp phải trả lại cho khổ chủ những gì chúng đã chiếm đoạt. Còn Bác Ái là ở nơi lòng người. Người chủ nhà có thể không truy tố tên ăn cướp. Nếu chủ nhà thương hại cho lại tên cướp chút ít tài sản đã đòi lại được để hắn nuôi vợ con thì quá là bác ái. Đó là luật yêu thương tha nhân. Nhưng luật pháp quốc gia cũng không thể đứng khoanh tay làm ngơ. Kẻ phạm tội ác phải bị trừng trị. Đó là công bình xã hội. Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho con người, nhưng Ngài cũng bắt con người phải đền bù những gì con người đã xúc phạm tới Chúa. Đ/C Bùi tuần khi ngồi tòa giải tội có bao giờ tha bổng cho một con chiên khi người này xưng thú tội ăn cướp tài sản của người khác mà lại không buộc đương sự phải hoàn trả lại cho người ta? Người tỵ nạn đấu tranh với CS trên căn bản lề luật công bình và bác ái là mang nặng hận thù sao! CS bán đất bán biển của tổ tiên để lại, bán luôn cả con dân của mình cho ngoại bang. CS ăn cướp tài sản của dân, vơ vét công khố quốc gia để làm giầu, ăn chơi phè phỡn, gởi con cái đi học nước ngoài. CS cố tình làm băng hoại xã hội, hủy hoại đạo đức con người bằng ăn chơi, đĩ điếm,hút xách v.v. để dễ bề cai trị. CS tước đoạt mọi thứ quyền tự do con người, đàn áp và bỏ tù những người đứng lên đòi công lý cho xã hội, vân vân và vân vân. Ấy vậy mà Đ/C Bùi Tuần và cả HĐGM đã không cất tiếng nói lên được lấy nửa lời vì công đạo. Đ/C Bùi Tuần còn chửi mắng những con chiên chống bọn CS ác ôn là mang nặng hận thù định kiến xả chất độc vào những người tốt. Công bình ở đâu? bác ái ở đâu? Yêu thương, phục vụ là cái gì? Đ/C Bùi Tuần là một giám mục hẳn phải thông hiểu cái đạo lý Công Bình và Bác Ái hơn người viết vốn chỉ là một giáo dân tầm thường. Kết án những người đòi tự do, công bình cho xã hội cái tội mang nặng hận thù có hợp đạo Chúa, hợp đạo làm người, và lương tâm có yên ổn không? Vấn đề này người viết chỉ hiểu thô sơ như thế và nghĩ sao nói vậy. Tự biết rằng nói thêm nữa chỉ là múa rìu qua mắt thợ.

3 Phong Trào Tam Bất -Đ/C Bùi Tuần viết: “Các phương tiện truyền thông công giáo hãy tích cực cộng tác với Người (Thiên Chúa). Đi theo hướng ngược lại, vâng theo tiếng gọi của lợi ích riêng, dưới danh nghĩa “mở nước Chúa” sẽ là một sai lầm và hoang tưởng. nhất là khi lại góp phần vào phong trào bất trung, bất hiếu, bất kính, vô ơn, vu khống đối với Hội Thánh.”

Quí bạn đọc có lẽ đã hiểu Phong Trào Tam Bất là cái gì rồi. Đ/C Bùi Tuần kêu gọi truyền thông công giáo tích cực cộng tác với Thiên Chúa là đúng quá rồi. Nhưng vấn đề đặt ra là truyền thông công giáo nào. Đức cha vẫn thường xuyên viết trên tờ CG&DT, và đôi khi trên Website VietCatholic.net. Các báo này có phải là báo công giáo không. Trả lời cho câu hỏi là trọng tâm của bài viết này. Nhưng xin được bàn đến về sau. Hơn nữa, theo đức cha, hướng truyền thông của CG&DT mới là hướng đúng cộng tác với Thiên Chúa. Ngoài hướng đó ra ngài cho rằng đều là sai lầm và hoang tưởng. Thật ra, chính nhận thức đó của đức cha mới là điều sai lầm và hoang tưởng, vì một điều rất dễ hiểu là dựa vào sự xấu xa tội lỗi để mong làm việc tốt lành đạo đức thì thật là điều nghịch lý và huyễn hoặc. Tờ CG&DT tích cực cộng tác với Thiên Chúa thế nào, chúng tôi cũng xin đề cập đến về sau. Bây giờ xin bàn đến chữ “tam bất”.

Ba chữ “bất trung, bất hiếu, bất kính” gồm thêm vô ơn và vu khống nữa, đức cha gom lại gọi nó là phong trào. Ghê gớm thật. Mà nó là phong trào thực, bởi vì mọi người tự đông ý thức và hưởng ứng thôi. Đã gọi là phong trào thì nó không có tổ chức. Không có người đứng đầu. Nó tự động phát sinh, lớn lên và bành trướng. Phong trào phát sinh do sự cảm nhận hay ý thức giống nhau của nhiều người về cùng một cái gì đó rồi biểu lộ ra thành hành động. Không có chỉ đạo. Không điều khiển. Những đặc điểm đó xác nhận tính phổ quát và sự thật khách quan của phong trào. Đ/C Bùi Tuần đã không nhận thức đúng đều đó, còn kết án nó thì thật là bất công.

Bất trung ở chỗ nào khi mà giáo dân chỉ buộc phải trung thành với Thiên Chúa, với các tín lý và giáo lý của GH, chứ không phải trung thành với những việc làm sai quấy của các linh mục hay giám mục. Trong lịch sử GH đã có một vụ án Galileo đầy xỉ nhục về sự cưỡng bức phục tùng tầm bậy không thấy sao?

Bất hiếu là thế nào vì chữ hiếu chỉ nói lên mối tương quan tình cảm giữa con cháu với cha mẹ, ông bà, và các bậc tổ tiên, chứ đâu phải sự tương quan giữa giáo dân với các đấng bậc trong GH dù là bề ngoài xưng hô với nhau là cha con.

Bất kính ở chỗ nào khi một người lãnh đạo đã không biết tự trọng thì làm sao bắt người dưới phải trọng mình. Thế thì sao gọi là bất kính. Những đấng bậc như đúc TGM Nguyễn Kim Điền chẳng hạn, toàn thể giáo dân VN có ai tỏ ra bất kính với ngài đâu. Tư cách con người chứ không phải chiếc áo chùng thâm làm nên sự đáng kính nơi linh mục hay giám mục.

Còn thế nào là vô ơn? Chúa dậy tay phải làm phước bố thí cũng đừng cho tay trái biết. Con cái Chúa khi đã làm ơn cho ai rồi thì chẳng bao giờ bắt họ phải trả ơn. Còn như làm ơn rồi bắt người ta phải trả ơn thì thực không phải là con cái của Chúa. Nếu giáo dân tỵ nạn vô ơn thì họ đã chẳng trao tay hoặc gởi về hàng tỷ, hàng tỷ dollars để lo cho GH tại quê nhà.

Thế nào là vu khống? Những phê phán hay chống đối của giáo dân tỵ nạn tại hải ngoại đối với các hành vi làm xấu mặt GH của một số các đấng bậc ở trong nước đều dựa trên những cơ sở hoặc sự việc có thực, chứ không có cái gì vô cớ, hàm hồ. Cái gì vô cớ. Cái gì hàm hồ, xin Đ/C Bùi Tuần cứ nói ra và đưa bằng chứng để chứng minh rồi hãy kết tội. Không thấy vị nào bị chống đối lên tiếng đưa ra bằng chứng để minh oan. Không thấy vị nào vạch ra được điều gì gọi là vu khống, mà chỉ thấy kết tội. Việc kết tội vô bằng chứng như thế phải bị kể là những lời nhục mạ hay chửi bới. Chuyện các linh mục chửi bới, nhục mạ giáo dân xuất hiện đầy rẫy trên diễn đàn VietCatholic.net của Lm Trần Công Nghị. Người chửi hăng nhất và giai nhất là Lm Nhân Tài. Rồi phải kể đến Lm Nguyễn Hữu Thy và Lm Trần Công Nghị dưới nhiều nick khác nhau. Nay có thêm Đ/C Bùi Tuần chửi bới con chiên trên tờ báo CG&DT của CS.

Các ngài không ai ngờ rằng chửi bới là thứ vũ khí đê tiện và vô dụng nhất của những người đuối lý. Cứ xem mấy người hàng tôm, hàng cá ngoài chợ cãi nhau thì biết. Kẻ thất thế cuối cùng bao giờ cũng chỉ còn biết chửi. Những người trí thức có học họ tranh nhau bằng lý luận. Người thua chịu cúi đầu nhận thua chứ không bao giờ chửi lại. Đó là thái độ của kẻ chính nhân quân tử. Trên đời này chỉ có hai hạng người không biết lý lẽ, mà chỉ lấy sự chửi bới làm đầu. Một là bọn đầu đường xó chợ, không được giáo dục. Hai là những người có quyền thế (địa vị, tiền bạc, và cả tuổi tác nữa) nhưng mang nặng đầu óc phong kiến và tinh thần gia trưởng. Bọn đầu đường xó chợ thiếu giáo dục thì chửi lộn. Còn hạng người cao sang quyền quí thì chửi tưới. Chửi tưới có nghĩa là khi gặp trái ý thì bạ ai cũng chửi, thấy chi cũng chửi. Nhân đây người viết xin nói thẳng một điều lâu nay hằng ấp ủ trong lòng không dám nói ra là trong GHVN hiện nay đa số các ông cha, các đức cha vẫn còn mang nặng cái tinh thần gia trưởng, và cứ tưởng rằng mình là cha thiên hạ thiệt, nên cứ giữ thái độ và lối sống ta đây là trên hết. Chuyện đó xưa rồi. Công Đồng Vaticano II đề ra đường hướng canh tân. Hơn nửa thế kỷ rồi, GHVN chưa thấy canh tân được cái gì ngoài chuyện linh mục làm lễ quay xuống thay vì quay lên như trước kia. Thật là điều đáng buồn. Điều đáng buồn, đau lòng, và đáng sợ hơn nữa là GHVN ngày nay mang huyễn tưởng đua nhau mở Nước Chúa dựa trên thế lực của một tập đoàn chính trị vốn từ bản chất cuồng nhiệt chống Thiên Chúa. Thật là một nghịch lý vĩ đại.

Như đã nói trên, ba chủ điểm trên không phải là trọng tâm của bài viết này. Trọng tâm là tìm ra sự thật tờ báo CG&DT có phải là báo đạo như Đ/C Bùi Tuần nói không. Nếu câu trả lời chứng minh được là không, thì chúng ta thấy sự trí trá của Đ/C Bùi Tuần hẳn phải có chủ đích. Cũng chẳng cần úp mở làm gì, cái chủ đích hẳn không ngoài việc lừa bịp những người còn nhẹ dạ trong mưu đồ giúp CS thuần hóa toàn thể GHVN mà thôi. Trong tiến trình đi tìm sự thật, câu hỏi cần thiết phải đặt ra là tờ tuần báo Công Giáo và Dân Tộc của nhóm linh mục quốc doanh Minh, Cần, Từ, Bích là Báo Đạo hay Báo Đời?

Đ/C Bùi Tuần viết: “Sau nhiều năm phục vụ Tin Mừng trong một giai đoạn không thiếu khó khăn, tôi luôn nhấn mạnh đến 3 nhiệm vụ này:

-Tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa tình yêu.

-Cử hành phượng tự thờ Thiên Chúa tình yêu.

-Phục vụ đồng bào, theo lời truyền của Thiên Chúa tình yêu.

Việc tôi viết báo nằm trong những nhiệm vụ đó.”

Trích đoạn trên cũng rút ra từ bài viết “Tâm Tình Viết Báo” đăng trên tờ tuần báo CG&DT nhân dịp mừng birthday thứ 32 của tờ báo này. Ngay trên đầu bài viết, Gm Bùi tuần nói tuần báo CG&DT là một tờ báo đạo, ngài viết: “Tuần báo Công Giáo và Dân Tộc này có nhiều bài của tôi. Rải rác bao nhiêu bài, tôi không nhớ. Nhân dịp tuần báo bé nhỏ này mừng 32 tuổi, tôi xin giãi bầy đôi chút tâm tình của tôi về viết BÁO ĐẠO” (chữ báo đạo do người viết highlight).

Như vậy điều tôi nói ngay trên đầu bài viết bạn tin rồi chứ. Đ/C Bùi Tuần viết báo rao giảng Tin Mừng là chuyện đúng người, đúng việc. Không có gì phải bàn cãi. Ngài giảng đạo trên trên tờ báo CG&DT là một tờ báo bán chính thức của đảng CSVN cũng là quyền tự do của ngài. Nhưng ngài muốn nói tờ CG&DT là một tờ báo đạo thì cái đó cần phải xét lại. Không thể sập xí xập ngầu đánh lận con đen để lừa bịp giáo dân được, cho dù ngài là một giám mục.

Dưới đây người viết sẽ chứng minh cho bạn đọc thấy, tuần báo CG&DT là thứ báo nào. Đ/C Bùi Tuần viết cho tờ báo này và ngài gắn bó với tờ báo này đến nỗi ngài phải lo lắng nói lên: “Tôi hay lo. Nên tôi càng lo cho tờ “Công Giáo và Dân Tộc” và cho chính tôi. Xin Chúa gìn giữ chúng tôi, đừng bao giờ để mắc mưu độc dữ”. Một người đã bị mắc mưu độc dữ ghê gớm nhất rồi thì còn lo mắc mưu độc dữ nào nữa?

Giữa cái thế gới hỗn mang hiện nay, người đời làm ăn theo lối “treo đầu dê bán thịt chó” là chuyện rất thường xẩy ra. Việc đạo cũng thế, không ngoại trừ. Xin nêu tờ báo điện tử “VietCatholic.net (VCN)” tại Mỹ làm thí dụ. Trên bảng hiệu của cái website này, chủ nhân của nó viết: THÔNG TẤN XÃ CÔNG GIÁO VIỆT NAM (TTXCGVN). Chủ nhân là một linh mục, cha Trần Công Nghị. Cha Nghị, nghề tay phải của ông là làm phó một giáo xứ Mỹ. Làm VCN chỉ là nghề tay trái của ông thôi. Với cái bảng hiệu như thế, lại do một linh mục điều hành, ai dám nói VCN không phải là TTXCGVN thứ thiệt? Nhưng sự thực lại không phải thế. Nhiều người biết chuyện thắc mắc với cha Nghị, và yêu cầu ông giải quyết vấn đề chính danh cho cái website gọi là cơ quan thông tấn này. Nhưng ông vẫn cứ phớt lờ, đạp lên dư luận mà đi. Mới đây hồi tháng 5, tại đại hội Công Giáo Việt Nam tại Đức, lại có người trực tiếp chất vấn cha Nghị về vấn đề này. Cha Nghị trả lời tỉnh bơ: Đã nói nhường lại cho Hội Đồng Giám Mục nhưng các ngài không chịu. Nhường lại!? Người viết xin không bàn luận về chữ nhường lại ở đây, và xin quí bạn đọc tự hiểu lấy. Như ta thấy, ngoài cửa tiệm VCN rõ ràng treo cái đầu của một con dê xồm. Nhưng ở trong, người ta lại bán hầm bà lằng, cả dê cả chó. Chó tây hay chó ta, mực, vàng, vện gì đó, các thực khách xưa nay tại cửa tiệm VCN hẳn đều biết.

Tờ CG&DT thì có hơi khác, nhưng cũng vẫn là trò treo đầu dê bán thịt chó. Nó là một tờ báo giấy, hiện nay phát hành hàng tuần. Vì là báo giấy nên phạm vi ảnh hưởng của nó hạn chế trong các xứ đạo tại VN là chủ yếu. Năm nay tờ CG&DT mừng birthday lần thứ 32 tức là nó có mặt trên đất nước ta ngay từ những ngày đầu bọn giặc cờ đỏ về thành. Đó là ngày nó xuất hiện và khai báo hộ khẩu tại Saigon thôi chứ thực ra nó ra đời trước đó từ năm 1969 ở mãi bên Tây lận. Cha đẻ của tờ CG&DT là Lm Nguyễn Đình Thi, một nhà tu hành có biệt tài về làm ăn kiếm tiền. Năm 1968 khi Hồ Chí Minh chết, Lm Nguyễn Đình Thi lên tòa giảng tại một thánh đường ở Paris hô hào Vatican phong thánh cho già Hồ. Nếu lúc này Lm Thi còn giữ ý định kia giáo dân VN sẽ được thờ Hồ trong nhà thờ Đức Bà Saigon không chừng. Phật tử Saigon đã được thờ tượng Hồ trong chùa Việt Nam Quốc Tự rồi đấy. Năm 1975 Lm Thi đưa tờ CG&DT từ Paris về giao cho đám tứ nhân bang Minh Cần Từ Bích phát hành tại Saigon . Cha Thi đồng thời còn tặng hàng trăm ngàn Francs làm của “hồi môn” khi giao tờ báo. Đấy là số vốn ban đầu để kinh doanh làm ăn. Về sau thì tờ báo này được đảng và nhà nước CS tài trợ nghe đâu rất hậu hỹ. Chính vì sự thưởng công hậu hỹ này nên mới xẩy ra chuyện tranh ăn giữa Lm Phan Khắc Từ, người thủ quĩ, và Lm Vương Đình Bích. Sự việc nổ ra lớn đến nỗi phải đưa lên lãnh đạo Mặt Trân Tổ Quốc (MTTQ) thành phố phân xử. Nếu là báo đạo thì tại sao lại phải nhờ MTTQ của đảng CS phân xử? Sự việc tự nó nói lên tư cách quốc doanh của nhóm linh mục Minh, Cần, Từ, Bích và tờ báo của họ.

Lai lịch của tờ báo CG&DT đại khái là như thế. Vì tờ báo là công cụ cần thiết cho việc công giáo vận nên nó không thể chết được, mặc dầu nó bị giáo dân nghi kỵ và tẩy chay. Nhiều tín hữu chẳng bao giờ đọc báo thấy trên cái logo có chữ công giáo, lại do nhiều ông cha đứng điều hành nên cứ tưởng là tờ báo công giáo thứ thiệt. Rõ ràng lại là một cửa tiệm treo đầu dê bán thịt chó nữa. Trên cái bảng hiệu bên ngoài cửa tiệm, không phải treo có một cái đầu dê như cửa tiệm VCN của cha Trần Công Nghị, mà treo cả một lô cái đầu của những con dê cụ. Tiệm này bán nhiều món mộc tồn độc đáo. Món khoái khẩu nhất là món gọi là No Canonization. Vì là thời mở cửa nên nó được đặt cho một cái tên ngoại cho hợp thời trang. Món đặc sản này do chính đức cha Bùi Tuần đầu bếp cùng với một số phụ bếp tiếng tăm khác nấu nướng như Lm Trương Bá Cần, Nguyễn Khắc Viện, Trần Bạch Đằng v.v.

Một tờ báo có xuất sứ và đường lối phá đạo như rứa nên đức cha Nguyễn Minh Nhật hồi còn sinh tiền và đang lúc giữ chức chủ tịch HĐGM đã phủ nhận tư cách truyền thông CG của nó. Trong một bài phỏng vấn dành cho báo Eghises d’Asie (Các Giáo Hội Á Châu) tháng 12-1990, Đ/C Nhật khẳng định: “Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo (UBĐKCG) nắm tờ báo công giáo duy nhất này. Cả hai (Ủy ban và tờ báo) phải được xem là những bộ phận của nhà nước. Những tiết mục trong tờ báo luôn nghiêng về phía nhà cầm quyền trong khi thường xuyên chỉ trích Giáo Hội. Nó không cung ứng cho người đọc một ý niệm trung thực về Giáo Hội …… Có hai đại diện của Ủy Ban đã trao cho tôi một bức thư, trong đó họ than phiền là một mặt nhà cầm quyền nghi ngờ phong trào công giáo yêu nước chỉ là một phương tiện chui để giúp GHCG bành trướng, mặt khác họ lại bị giáo quyền coi như một công cụ trong tay nhà nước. Tôi đã cho họ biết là những hoài nghi đó có nền tảng, bởi vì họ đã mất lòng tin của người tín hữu vì thái độ của họ trong vụ phong thánh năm 1988 ….”

Đ/C Bùi Tuần nói báo đạo. Đ/C Nguyễn Minh Nhật nói báo đảng. Chuyện trống đánh xuôi kèn thổi ngược giữa hai giám mục có thể gây bối rối cho một số người, nhất là trong con chiên bổn đạo. Tuy nhiên, từ những dữ kiện nói trên, chúng ta có thể rút ra được các luận chứng rất thuyết phục để kết luận là tờ CG&DT không phải là báo đạo như Đ/C Bùi Tuần nói, mà là báo đảng.

1. Xuất xứ và lý lịch của tờ báo. Như Đ/C Nguyễn Minh Nhật xác định, tờ CG&DT chỉ là cơ quan của nhóm linh mục quốc doanh nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc, một cơ quan ngoại vi của đảng CS. Nó hoàn toàn không dính dáng gì đến GHCGVN.

2. Đường lối phản GH của tờ báo. Tính chất này của tờ báo cũng được Đức Cha Chủ Tịch HĐGM Nguyễn Minh Nhật vạch trần với báo Eglises d’Asie như trên đã trình bầy.

3. Tư cách và uy tín của hai vị Gm Bùi Tuần và Nguyễn Minh Nhật. Về điểm này, chúng tôi chỉ đề cập đến khía cạnh đường lối và cung cách hành xử của các vị trước các vấn đề đối với chế độ ở trong nước. Nói một cách đơn giản, chúng tôi bỏ ra ngoài những yếu tố “nhà thờ”. Đ/C Nguyễn Minh Nhật là một vị chủ chăn ngay thẳng và khôn ngoan. Ngài khôn ngoan nên trong trách nhiệm điều hành giáo phận cũng như khi đảm trách chức vụ chủ tịch HĐGM, ngài không tỏ ra xu phụ nhà cầm quyền một cách quá đáng mà mọi công việc vẫn trôi chẩy êm đẹp. Việc ngài thẳng thừng vạch mặt UBĐKCG và tờ CG&DT của bọn linh mục quốc doanh chứng tỏ sự ngay thẳng hiếm thấy của ngài. Trong khi đó Gm Bùi Tuần bị dư luận liệt vào thành phần quốc doanh gộc. Điều này dễ hiểu vì mọi người nhìn thấy ngài đã bị thuần hóa đậm rồi. Đừng nghĩ Đ/C Bùi Tuần là một con người thiếu kinh nghiệm về CS. Trước năm 1954 dân công giáo vùng Bùi Chu Thái Bình thuộc lòng câu: Phú Ninh quằn quại, Cao Mại đau thương. Phú Ninh thuộc GP Bùi Chu và Cao Mại thuộc GP Thái Bình là hai họ đạo bị Việt Minh thiêu hủy và tàn sát một cách rất dã man. Đ/C Bùi Tuần xuất thân từ vùng Cao Mại nên biết rõ biến cố này. Đ/C Bùi Tuần là dân Thái Bình không thể không biết Đ/C Đinh Đức Trụ, giám mục Thái Bình đã bị CS khủng bố và đầy đọa như thế nào. Nhưng ngài vẫn kiên cường trung thành với GH. Đ/C Bùi Tuần nên lấy đó làm gương. CS chiếm trọn miền Nam năm 1975 trong lúc Đ/C Bùi Tuần đang làm giám mục cai quản GP Long Xuyên. Dân di cư 54 vùng Cái Sắn kể lại rằng chỉ sau 2 năm thôi ngài đã biến đổi hẳn từ mầu xanh sang mầu đỏ. Phương pháp thuần hóa con người của CS thật sự tài tình. Chúng biến đổi thành công được một giám mục có tiếng là cứng rắn, khôn ngoan và thông thái thành một công cụ để sai khiến một cách dễ dàng. Người viết dám nói mạnh miệng như thế bởi vì ngoài ngài ra chắc không có một vị giám mục nào dám bạo phổi nghe lời CS xúi để sang tận Roma yêu cầu Tòa Thánh ngưng việc phong thánh cho 117 vị Tử Đạo VN. Cái công lao hãn mã đó và các công trạng khác đã đem về cho ngài mới đây phần thưởng là một cái huy chương của chế độ.

4. Thực Tế Chứng Minh - Tại Việt Nam, trong cả nước hiện nay có trên 600 tờ báo giấy, cả nhật báo và báo định kỳ các loại. Tất cả các thứ báo này đều là những tờ báo do đảng CS trực tiếp hay gián tiếp chỉ đạo và điều hành. HĐGMVN nhiều lần than phiền và chỉ xin xuất bản một bản thông tin nội bộ thôi cũng không được. Như vậy tờ CG&DT là báo gì thực tế đã phơi bầy. Chỉ có Đ/C Bùi Tuần mới “ngây thơ” coi nó là tờ báo CG nên ngài mới cầu xin cho nó đừng để mắc mưu độc dữ. Thật là khôi hài và mù quáng. Sự trí trá này càng chứng tỏ Đ/C Bùi Tuần là một giám mục quốc doanh thứ thiệt. Mới tháng 11-06 Nguyễn Tấn Dũng ra Chỉ Thị 37 xiết bù loong báo chí, tuyệt đối cấm sự có mặt của báo chí tư nhân. Báo tư nhân đây có nghĩa là báo ngoài đảng. Tờ CG&DT vẫn tồn tại sau lệnh cấm của Nguyễn Tấn Dũng là một bằng chứng hùng hồn nữa xác nhận CG&DT là một tờ báo nằm trong hệ thống báo đảng.

Tất cả những bằng chứng và luận chứng trên nói lên việc Đ/C Bùi Tuần nói rằng tờ CG&DT là báo đạo là chuyện lừa gạt. Nhưng đó không phải là điều đáng ngạc nhiên. Tâm lý thông thường thôi, ăn cây nào rào cây nấy. Cho dù Đ/C Bùi Tuần có đem cả mũ gậy ra bảo kê cho lời nói của mình, từ những ghi nhận trên, chúng ta vẫn có thể tin chắc chắn rằng tờ CG&DT là báo của CS.

Một giám mục CG, một con người học rộng tài cao như Đ/C Bùi Tuần không thể khù khờ đến nỗi không biết CG&DT là một tờ báo ngoại vi của đảng CS do nhóm linh mục quốc doanh điều hành. Thế mà ngài lại chối bỏ sự thật đó mà nói rằng tờ CG&DT là báo đạo. Cho rằng đức cha thực sự không biết thực trạng của đất nước, của Giáo Hội hiện nay, nhưng ngài không thể không biết mình đang nói gì, viết gì. Ngài vẫn cứ giả mù sao mưa, trí trá ngay cả những sự thực hiển nhiên để lừa bịp những người giáo dân thiếu hiểu biết của mình. Thực đáng sợ cái lương tâm của một giám mục! Tương lai Giáo Hội đi về đâu!

Truyện Đông Chu Liệt Quốc có ghi lại một câu nói hay nàng Ly Cơ tâu với Tấn Hiến Công: “Thiếp nghe nói điều nhân của người tầm thường và điều nhân của người anh hùng không giống nhau. Người tầm thường lấy yêu người làm nhân. Người anh hùng lấy lợi nước làm nhân. Nếu việc làm mà lợi cho nước thì chẳng nghĩ gì đến tình thân cả.” Trong bối cảnh của câu chuyện, câu nói của nàng Ly Cơ tuy là một lời ngụy biện để giết người, nhưng lại rất đúng với những bậc anh hùng biết đặt quyền lợi tổ quốc lên trên quyền lợi của cá nhân và gia đình. Với lối ngôn hành xuôi ngược của D/C Bùi Tuần, một câu tương tự thế này có thể đặt vào cửa miệng ngài được mà không sợ sai: “Tình yêu thương và tinh thần phục vụ của giáo dân với tình yêu thương và tinh thần phục vụ của giám mục Bùi Tuần không giống nhau. Người giáo dân lấy con người và đất nước làm đối tượng yêu thương và phục vụ. Giám mục Bùi Tuần lấy đảng CS làm đối tượng thương yêu và phục vụ. Nếu việc làm lợi cho đảng thì Đ/C Bùi Tuần chẳng nghĩ đến con người và đất nước làm gì.”

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất.

Thứ Năm, 12 tháng 7, 2007

Cố gắng xây dựng một lý thuyết mới để duy trì chế độ

“… Khi muốn chuyển từ tiên phú luận sang cộng đồng phú dư luận, ông Ôn Gia Bảo và ban lãnh đạo thế hệ cách mạng thứ 5 của Trung Quốc đã nghĩ đến tiền đề cải cách chính trị và bỏ chuyên chính một đảng …”

Tổng quát

Sau gần 7 năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới ngày 11-12-2001, ban lãnh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc đang tìm một lý thuyết mới để chính thống hóa vai trò lãnh đạo của mình trên toàn xã hội Trung Hoa và đã làm đủ mọi cách để bảo vệ quyền lãnh đạo này. Cố gắng này đã được khích lệ bởi sự tăng trưởng cao và đều về kinh tế, nhờ đó tăng cường sức mạnh quân sự.

Chính qua cố gắng tăng cường sức mạnh quân sự này mà nhân dân Trung Quốc đã phần nào chấp nhận vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản để có thể tự hào trước thế giới về sự hùng mạnh của quốc gia mình. Từ cuối thập niên 1990 đến nay, kinh phí quốc phòng hàng năm của Trung Quốc không ngừng gia tăng, chủ yếu vào hai lực lượng chính là hải quân và không quân để trong 10 năm tới có thể đối đầu ngang hàng với Hoa Kỳ, ít nhất trên biển Đông và khu vực phía tây Thái Bình Dương (Đông Á).

Trong cuộc Triển lãm IMDEX ASIA 2007 tại Singapore từ ngày 15 đến 18-5-2007 vừa qua, Bắc Kinh cho biết Trung Quốc đã đặt mua thêm 5 tàu ngầm mang đầu đạn nguyên tử SSN MIRV và 30 tàu ngầm loại tấn công khác. Về không quân, ngay trong năm 2007, bộ quốc phòng Trung Quốc đã đặt mua hoặc bắt đầu sản xuất theo bằng sáng chế của Nga từ 10 đến 20 oanh tạc cơ siêu âm Backfire TU-22M có phạm vi hoạt động 4.000 km, v.v.

Nhưng sự hùng mạnh của Trung Quốc không chủ yếu nằm trong lãnh vực quân sự mà là tư tưởng. Theo ban lãnh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc, chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Mao Trạch Đông và đường lối Đặng Tiểu Bình không còn sức thuyết phục nữa, nhất là đối với các thế hệ thứ 5 (sinh từ 1950 đến 1969) và thế hệ thứ 6 (sinh từ 1970 đến 1989), phải tìm cho ra một tư tưởng mới và một cách thức quản trị mới để duy trì sự lãnh đạo của đảng cộng sản trên toàn lãnh thổ Trung Quốc, kể cả Đài Loan.

Cuối tháng 2-2007, thủ tướng Ôn Gia Bảo đã khai mạc cuộc hội luận về "nhiệm vụ lịch sử của chặng đường đầu tiên của chủ nghĩa xã hội và một số vấn đề liên quan đến chính sách đối ngoại của đảng ta". Tiếp đó, ngày 16-3, Hội nghị lần thứ 5 của quốc hội kỳ 10 Trung Quốc đã thông qua dự thảo "luật vật quyền", hay luật về quyền sở hữu tài sản, dự định sẽ ban hành vào ngày 1-10 sắp tới. Đây là hai lý luận mới mà ban lãnh đạo Bắc Kinh muốn Đại hội đảng cộng sản Trung Quốc tổ chức vào mùa thu năm nay thông qua, trước khi chính thức được áp dụng vào thực tế.

Luật về quyền sở hữu tài sản

Để đối phó với nạn đầu cơ về nhà đất và chứng khoán, ban lãnh đạo đảng cộng sản vừa ban hành đạo luật về quyền sở hữu để giải nhiệt cơn sốt nhà đất và chứng khoán đang sắp bùng nổ.

Dự luật này đã được ra đời một cách khó khăn. Nó được phôi thai từ năm 1993, nhưng sau nhiều tranh cãi gay gắt về ý thức hệ, "luật này mâu thuẫn với nguyên tắc công hữu của chủ nghĩa xã hội", tất cả đều bị xếp lại. Từ sau ngày đó, sinh hoạt kinh tế của xã hội Trung Quốc đã thay da đổi thịt, không còn liên quan gì đến lý thuyết của chủ nghĩa xã hội nữa. đổi hẳn. Tháng 12-2002, dự luật về quyền sở hữu tài sản này được đưa bàn cãi và mãi tới ngày 16-3-2007, nội dung của nó mới được quốc hội chấp nhận với khá nhiều sửa đổi.

Dự luật này có nhiều mục đích. Trước hết nó nhằm giải quyết các cuộc tranh giành tài sản giữa tư nhân và nhà nước, đang đe dọa xã hội Trung Quốc. Thứ hai là để đối phó với những tranh chấp quyền sở hữu bất động sản giữa các cá nhân, do mức sống được nâng cao. Thứ ba là để ngăn ngừa sự nhũng lạm của các cấp lãnh đạo địa phương trong việc thu dụng đất đai của nông dân và nhà cửa của cư dân đô thị cho nhu cầu riêng. Sau cùng là để hạn chế việc chiếm hữu tài sản nhà nước khi giải tư các xí nghiệp quốc doanh dự định sẽ tiến hành đều đặn từ đây.

Thực tế tại Trung Quốc từ 15 năm trở lại đây, cùng với việc khai thác đất đai và chỉnh trang đô thị trên khắp lãnh thổ, trình trạng những người bị buộc phải rời khỏi nhà đất của mình không được đền bù xứng đáng xảy ra tràn lan, gây thành vấn nạn xã hội lớn. Thêm vào đó, các chính quyền địa phương gia tăng tốc độ khai thác bất động sản một cách mù quáng làm thiệt hại khá nhiều công quỹ làm sinh hoạt kinh tế địa phương không bình thường.

Dưới chế độ cộng sản, mặc dù được ghi trong được ghi trong hiến pháp và dân luật, quyền sở hữu tư nhân vẫn chưa được công nhận. Lần này luật về quyền sở hữu xác định rằng tại Trung Quốc nhà nước, tập đoàn, cá nhân đều có quyền sở hữu tài sản riêng.

Bộ Luật về quyền sở hữu này có năm thiên, 19 chương, 241 điều, có thể tóm tắt lại như sau : chính quyền bảo vệ tài sản của nhà nước, các tập đoàn và tư nhân bằng pháp luật, không một tổ chức hay cá nhân nào có quyền xâm phạm. Trong trường hợp trưng dụng đất đai và nhà cửa vì lợi ích chung, chính quyền phải bồi thường thiệt hại một cách xứng đáng cho người bị truất hữu hay bị thu mua nhà đất. Không ai được quyền chiếm đoạt hay phá hoại tài sản hợp pháp đó.

Nhưng một vấn đề lớn đang đặt ra cho xã hội Trung Quốc là nếu luật này được áp dụng, nghĩa là quyền tư hữu được chấp nhận, giá bất động sản tại Trung Quốc sẽ nổ bùng và đào sâu thêm hố sâu cách biệt giữa nông thôn và thành thị, chênh lệch giàu nghèo càng thêm rõ nét. Nếu không kiểm soát được sự đầu cơ nhà đất, thị trường bất động sản sẽ có nguy cơ phá sản như các thị trường chứng khoán không có kiểm soát. Tuy nhiên, với luật mới này, sinh hoạt kinh tế sẽ phát triển hơn vì người sở hữu nhà đất có quyền thế cầm cố tài sản của mình để vay thêm vốn đầu tư. Tình trạng nhũng làm quyền thế cũng sẽ giảm đi vì sự chuyển nhượng bất động sản sẽ không qua trung gian nhà nước và người bị di dời đi nơi khác sẽ được đền bù xứng đáng theo giá thị trường.

Chính vì muốn phát huy những ưu điểm và hạn chế những khuyết điểm của luật về quyền sở hữu này, chính quyền Trung Quốc đã thả nổi dự luật để đón nhận những ý kiến khác nhau trước khi áp dụng. Nếu không có gì trở ngại, dự luật này "sẽ được quốc hội thông qua" nhân dịp quốc khánh 1-10 sắp tới. Từ đây tới đó những nhà lập pháp Trung Quốc đang suy nghĩ về những thủ tục áp dụng luật nào vào thực tế để tiếp tục lôi kéo đầu tư nước ngoài và giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Nói chung, với bộ luật về quyền sở hữu này, Trung Quốc đã làm một cố gắng lớn để hội nhập một cách bình thường vào sinh hoạt kinh tế chung của thế giới.

Lý luận mới về chặng đường đầu tiên

Khác với Nga và các nước Đông Âu, cho đến đầu thế kỷ 21 này Trung Quốc đã không phủ nhận chủ nghĩa xã hội mà còn từng bước tu chính ý thức hệ này.

Vào giữa thập niên 1980, dưới sự chỉ đạo của Đặng Tiểu Bình, Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương, một số thành phần cấp tiến trong đảng cộng sản đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo về "chặng đường phát triển đầu tiên của chủ nghĩa xã hội". Trong đại hội lần thứ 13 của đảng cộng sản mùa thu 1987, tổng bí thư Triệu Tử Dương (bị thất sủng vào tháng 6-1989 vì lắng nghe ý kiến của sinh viên ở Thiên An Môn và muốn hiện đại hóa chính trị) đã tạo điều kiện để triển khai hệ thống lý luận này. Ôn Gia Bảo, lúc đó đang là bí thư của Triệu Tử Dương, phát biểu rằng nếu biến chủ nghĩa xã hội thành một "lý tưởng" và hợp thức hóa một số yếu tố của chủ nghĩa tư bản, như tự do kinh doanh và quyền tư hữu, chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ có thể kéo dài 100 năm dưới sự lãnh đạo chuyên chính của một đảng.

Lý luận này được đưa ra từ ý thức nguy cơ sau 30 năm dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, khả năng sản xuất của Trung Quốc vẫn không gia tăng, khả năng xây dựng một xã hội lý tưởng theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa đúng nghĩa vẫn chưa thể thực hiện. Dưới sự chỉ đạo của Đặng Tiểu Bình, khi bắt đầu đường lối cải cách, mở cửa và thực hiện bốn hiện đại hóa từ 1978, nhiều chỉ dấu tốt đẹp bắt đầu thành hình. Ban lãnh đạo cộng sản Trung Quốc nhận thấy rằng muốn gia tăng sản xuất không phải bằng kinh tế kế hoạch mà bằng các yếu tố tư bản chủ nghĩa, nghĩa là chấp nhận kinh tế thị trường, tôn trọng quyền tư hữu, cho phép cá nhân làm giàu và các vùng có điều kiện địa lý thuận lợi phát triển nhanh hơn những nơi khác. Chủ trương này có tên là "tiên phú luận".

Sau gần 30 năm áp dụng, từ 1978 đến nay, kết quả đã vượt ngoài ước muốn của ban lãnh đạo đảng cộng sản. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế gia tăng chưa từng thấy, bộ mặt kinh tế của Trung Quốc cũng thay đổi hẳn. Những nơi nhận đầu tư nước ngoài phát triển vượt trội hơn các nơi khác ; những trung tâm trao đổi chính như Quảng Châu, Thượng Hải, và Bắc Kinh trở thành những đầu cầu phát triển mới.

Ngày 26-2-2007, thủ tướng Ôn Gia Bảo, nhà lý luận chính thống của đường lối cải cách mở cửa, nhắc lại "nhiệm vụ lịch sử của chặng đường đầu tiên để phát triển vững chắc chủ nghĩa xã hội". Ông cho rằng phải giải phóng sức sản xuất, gia tăng không ngừng tài sản vật chất của chủ nghĩa xã hội bằng cách thực hiện từ từ công bình, dân chủ và pháp trị.

Ôn nói : "Khoa học dân chủ, pháp chế, tự do, nhân quyền không phải là thứ đặc hữu riêng của chủ nghĩa tư bản, đó là những giá trị trong quá trình lịch sử dài của loài người đạt được, đó là thành quả của văn minh sáng tạo. Dó đó chế độ xã hội chủ nghĩa và chính trị dân chủ không mâu thuẫn nhau, dân chủ cao độ, pháp chế hoàn bị thực ra là yêu cầu nội tại của chế độ xã hội chủ nghĩa... "Mục tiêu trước mắt của chúng ta là xúc tiến phát triển kinh tế, bảo vệ quyền lợi công dân, chống lại hành vi hủ bại, nâng cao uy tín của chính phủ, xúc tiến hòa giải xã hội, mở rộng dân chủ, chỉnh đốn pháp chế, tiếp tục cải cách thể chế chính trị. Làm được như thế chúng ta sẽ đạt được sự thông cảm và tán đồng rộng rãi về con đường mà nhân dân Trung Quốc đã chọn".

Ông chủ trương tiếp tục đường lối cải cách, vừa mở cửa vừa thông qua cải cách chính trị như điều chỉnh khoảng cách thu nhập quốc dân, xem dân chủ và pháp trị là trung tâm cải cách để nhằm đào tạo một xã hội hài hòa mà ông gọi là "cộng đồng phú dư" (cùng giàu với nhau).
Trong tình trạng xã hội Trung Quốc hiện nay, hố ngăn cách giàu nghèo còn rất sâu rộng mà Ôn Gia Bảo gọi là "giai đoạn đầu tiên của chủ nghĩa xã hội" để thực hiện không phải là một xã hội xã hội chủ nghĩa xã hội chín muồi mà là xã hội tư bản chủ nghĩa thành thực như Nhật Bản và các nước Âu Tây đã đạt được.

Khi muốn chuyển từ tiên phú luận sang cộng đồng phú dư luận, ông Ôn Gia Bảo và ban lãnh đạo thế hệ cách mạng thứ 5 của Trung Quốc đã nghĩ đến tiền đề cải cách chính trị và bỏ chuyên chính một đảng dù vẫn chuẩn bị cho đảng cầm quyền có cơ hội nắm quyền lân hơn. Sự khiêm tốn muốn học hỏi "tài sản chung của loài người là dân chủ và pháp chế" của thủ tướng Ôn Gia Bảo là một bước tiến lớn để thuyết phục các đồng chí của ông thoát khỏi chủ nghĩa công nghiệp, chủ nghĩa khoa học giản đơn. Trong kỳ họp đại hội đảng cộng sản lần thứ 7 vào mùa thu năm nay, ông sẽ đề nghị đổi tên đảng cộng sản Trung Quốc thành đảng Xã hội khoa học để cân bằng giữa phát triển và hài hòa xã hội, khai thác và giữ gìn môi trường. Cả vấn đề Đài Loan cũng có thể giải quyết tương đối dễ dàng nếu có một cộng hòa liên bang Trung Hoa dân chủ, pháp trị và đa nguyên.

Nguyễn Minh (Tokyo)

Thứ Sáu, 6 tháng 7, 2007

GIẤC MƠ VIỆT NAM

Nhà bình luận nổi tiếng của chương trình News Hour, Roger Rosenblatt, tóm lượt về nguồn gốc nước Mỹ: “Quốc gia được thành lập từ những giấc mơ, và cũng qua đó, đã hun đúc nên giấc mơ của cả một quốc gia”.

Vâng đúng thế. Ngoài trừ số nhỏ người bản xứ, đất nước Hoa Kỳ được xây dựng nên do bàn tay và khối óc của những kẻ bên ngoài. Họ đến đây từ trăm ngã đường khác nhau và hàng trăm vùng đất khác nhau.

Cậu bé có tên Mỹ là Irving Berlin sinh tại Nga vào năm 1888. Cậu theo cha mẹ đến định cư tại New York khi mới vừa lên 4 tuổi. Khi còn rất nhỏ, cậu Irving phải vừa làm nghề dọn chén bát trong một nhà hàng và vừa học sáng tác nhạc, một bộ môn mà cậu say mê. Sau khi nhạc phẩm đầu tay được xuất bản vào lúc 13 tuổi, tên tuổi của nhạc sĩ trẻ tài ba Irving Berlin đã trở thành đồng nghĩa với nền âm nhạc Hoa Kỳ thế kỷ 20 qua những nhạc phẩm vượt thời gian như God Bless America, White Christmas, v.v...

Bà Madeleine Albright, cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao và là người phụ nữ đầu tiên giữ chức vụ cao cấp nhất trong chính phủ Hoa Kỳ, vốn là người Tiệp Khắc. Cha mẹ bà đã phải vượt qua nhiều biên giới để trốn tránh chế độ Cộng Sản khi tiếng xích xe tăng Liên Xô nghiền nát đường phố thủ đô Prague vào năm 1948. Cuối cùng bà cùng gia đình đã vượt thoát được và định cư tại Hoa Kỳ khi Madeleine Albright vừa 11 tuổi. Bà theo học Luật, đỗ tiến sĩ và cách đây không lâu, trở thành người phụ nữ đầu tiên giữ chức Ngoại Trưởng Hoa Kỳ.

Edward Bannister, họa sĩ nổi tiếng về phong cảnh của Mỹ là một người da đen thuộc vùng West Indian, Phi Châu. Ông đến định cư tại Mỹ qua ngã Canada vào năm 1848. Tác phẩm Under The Oaks của ông là một trong những thành tựu nghệ thuật lớn của nền hội họa Hoa Kỳ thế kỷ 19. Tác phẩm này đoạt giải nhất trong cuộc thi đánh dấu 100 năm hội họa tại Philadelphia Centennial Exposition. Khi khám phá ra Edward Bannister là người da đen, ban giám khảo có ý định thu hồi giải thưởng. Tuy nhiên, trước sự đấu tranh của những họa sĩ đồng nghiệp, nhất là của những họa sĩ da trắng đã từng cùng tranh giải với ông, Ban Giám Khảo đã hủy bỏ dự tính.

Những người di dân điển hình thuộc nhiều lãnh vực, màu da và chủng tộc khác nhau. Họ không từng quen biết nhau, không cùng một thế hệ, không cùng huyết thống và chẳng hẹn hò đính ước gì nhau. Những người di dân đầu tiên thường không giàu có, học hành, trí thức, trái lại phần đông họ rất nghèo nàn, ít học, đến đây từ hai bàn tay trắng. Tuy nhiên, dù từ đâu đến và trong hoàn cảnh nào, họ đã cùng góp bàn tay đưa nước Mỹ từ một vùng đất hoang vu thuộc địa của Anh thành một cường quốc tự do, dân chủ và thịnh vượng nhất thế giới ngày nay.

Câu chuyện thành công của nước Mỹ, đúng như Roger Rosenblatt viết, đã bắt đầu từ một giấc mơ chung: Giấc Mơ Người Mỹ hay American Dream như chúng ta thường nghe gọi bằng tiếng Anh. American Dream được định nghĩa trong tự điển Wordsmyth như là “một lý tưởng của người Mỹ, nhờ đó, con người nhận được sự giàu có vật chất, bình đẳng, tự do, và các giá trị tương tự (the American ideal that any man or woman may obtain material wealth, equality, freedom, and the like)”.

American Dream đã giúp nhân dân Mỹ chiến thắng đạo quân tinh nhuệ của Anh Hoàng George III trong cuộc chiến tranh giành độc lập (1775-1783), đã giúp nhân dân Mỹ vượt qua những bất đồng kinh tế chính trị sâu sắc trong thời kỳ chiến tranh nội chiến (1860-1865), đã giúp đưa nước Mỹ trở nên quốc gia có lợi nhất sau cả hai cuộc chiến tranh thế giới.

American Dream là giấc mơ mà những người cha sáng lập của quốc gia Hoa Kỳ từng ôm ấp và theo đuổi: Tự Do, Dân Chủ và Cường Thịnh. Tổng Thống đầu tiên George Washington đã từng dặn dò: “Tôi mong được thấy Hoa Kỳ mãi mãi là đất nước của tự do và công lý”. Tượng đài kỷ niệm Tổng Thống George Washington được kiến trúc dựa theo tinh thần độc lập, tự chủ và vươn lên đó.

American Dream là giấc mơ bình đẳng mà Mục Sư Martin Luther King đã đọc trên thềm đài kỷ niệm Lincoln ngày 28 tháng 8 năm 1963: “Tôi mơ một ngày, trên đồi Georgia, con cháu của những người nô lệ cũ, và con cháu của những chủ nô cũ, ngồi lại với chung một bàn trong tình huynh đệ...Tôi mơ một ngày, bốn người con của tôi sẽ được sống trong một đất nước, nơi đó, chúng sẽ không bị phán xét do màu da mà chính bằng tư cách riêng của chúng”.

American Dream, qua nhiều thời đại, từ những người trên chiếc tàu Mayflower cho đến hôm nay, đã được làm phong phú thêm để trở thành một bản sắc văn hóa, một truyền thống đặc biệt của quốc gia này.

Trở về với lịch sử Việt Nam, tổ tiên chúng ta, ông bà chúng ta đã bao giờ mơ và theo đuổi Giấc Mơ Việt Nam chưa?

Trong lúc khó có thể so sánh giữa 380 năm dựng nước của Hoa Kỳ thời hiện đại với gần 5 ngàn năm lịch sử Việt Nam, qua bao nhiêu thăng trầm thay đổi, chúng ta vẫn vững tin rằng tổ tiên chúng ta, không những đã mơ mà còn từng đeo đuổi giấc mơ độc lập, tự chủ và cường thịnh như thế từ nhiều ngàn năm trước.

Giấc Mơ Việt Nam là giấc mơ của những người để lưng trần, tóc cắt ngắn, đóng khố che thân, đầu đội mũ lông chim Hồng, tay ẵm đàn con Lạc Việt, vượt bao nhiêu núi rừng ghềnh thác trong cuộc Nam tiến đầy gian nan nhưng vô cùng hiển hách, từ vùng Nam Hoa di dân xuống lưu vực sông Hồng cách đây 48 thế kỷ. Trong lúc bao nhiêu bộ tộc Bách Việt khác đã hoàn toàn bị tiêu diệt hay đồng hóa vào những tỉnh, những huyện như Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, Phúc Kiến của Trung Quốc ngày nay, giòng giống Lạc Việt qua bao độ thăng trầm, vẫn tồn tại và trưởng thành nên quốc gia Việt Nam độc lập và tự chủ.

Giấc Mơ Việt Nam là giấc mơ của những người đã tạo nên nền văn minh Hòa Bình. Nơi đó, ngay từ 20 thế kỷ trước Công Nguyên, tổ tiên chúng ta đã biết trồng cây ăn trái, biết làm đồ gốm, biết đẽo đá thành những lưỡi cuốc nhọn, biết đắp đất ngăn bờ để đưa nước sông vào ruộng. Từ thuở nhân loại còn trong buổi sơ khai, tổ tiên chúng ta đã biết xây dựng các cơ xấu xã hội, lấy thôn làng làm căn bản, lấy nông nghiệp làm nền tảng kinh tế, lấy tình nghĩa đồng bào làm sức mạnh, lấy nguồn gốc tổ tiên (một mẹ trăm con, chung cùng bọc trứng) làm nơi nương tựa tinh thần. Những hình ảnh thân thương quen thuộc của cây đa, bến nước, sân đình gắn liền trong tâm thức của mỗi người Việt Nam, đã bắt đầu từ thời xa xưa đó.

Giấc Mơ Việt Nam là giấc mơ của những bàn tay khối óc xây dựng nên nền văn hóa Đông Sơn, bắt đầu từ hàng ngàn năm trước, trải dài đến thời điểm cực thịnh vào thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên. Những chiếc trống đồng Đông Sơn, Ngọc Lữ được chạm trổ tinh vi đánh dấu một thời đại vàng son trong tiến trình phát triển văn minh nhân loại. Những cổ vật quý giá đó, không phải chỉ là những biểu tượng cho văn minh dân tộc chúng ta mà còn đại diện cho cả nền văn minh vùng Nam Á đương thời. Chính tinh thần văn hóa Hòa Bình, Đông Sơn đã hun đúc thành sức mạnh dân tộc, để các thế kỷ sau đó, đủ sức đối kháng với sự xâm lăng thô bạo của các nguồn văn hóa mang ý đồ đồng hóa phát xuất từ phương Bắc.

Thật vậy, mặc dù hơn một ngàn năm trong bóng đêm nô lệ nhà Hán, nhà Ngô, nhà Đường với bao nhiêu cực hình đày đọa, sáng xuống bể tìm ngọc châu, chiều lên non săn ngà voi, trầm hương, châu báu, dân tộc Việt vẫn bảo vệ được tính độc lập, vẫn giữ được bản sắc văn hóa Việt trong sáng và thuần nhất. Đất nước chúng ta đã hơn một lần bị mất đi và giành lại được nhưng chúng ta hãnh diện nói lớn rằng dân tộc Việt Nam chưa bao giờ bị mất gốc. Hiếm có trên một đất nước nào, ở đó, tên của một con sông, một ngọn núi, một thôn làng, cũng có thể làm cho người dân khi nhắc đến phải rơi nước mắt. Những Phong Hóa, Nam Quan, Mê Linh, Bạch Đằng, Vạn Kiếp, Thiên Trường, Diên Hồng, Chi Lăng, Lam Sơn, Đống Đa, v.v... không phải chỉ đơn giản là những địa danh lịch sử, mà hơn thế nữa, còn là là nơi giữ gìn anh linh hùng khí của dân tộc chúng ta. Hình ảnh những chiếc búa, những chiếc rìu, những mũi thương, mũi đao, mũi tên bằng đồng đào được ở vùng Trung Châu, Bắc Việt, ở Sông Bạch Đằng, dọc Ải Nam Quan không chỉ là những cổ vật mà còn là chứng tích của bao nhiêu trận mạc, bao nhiêu cuộc chiến đấu, bao nhiêu máu xương và nước mắt của tổ tiên Lạc Việt đã đổ xuống trước áp lực của các triều đại Bắc phương xâm lấn khác.

Giấc Mơ Việt Nam là giấc mơ của hai người phụ nữ Việt đất Mê Linh uy danh lừng lẫy, đã can đảm thắp lên ngọn lửa tự do cho dân tộc. Một ngàn năm trăm năm trước Jeanne d''Arc, người phụ nữ Pháp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống ách cai trị của người Anh, tại vùng Đông Á đã có hai người phụ nữ Lạc Việt, Trưng Trắc và Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa chống nhà Hán và lập nên một triều đại huy hoàng. Dù chỉ trị vì được 3 năm, tinh thần “giặc đến nhà đàn bà phải đánh” của hai bà đã trở thành truyền thống yêu nước tồn tại đến ngày nay.

Giấc Mơ Việt Nam là giấc mơ của các bô lão được Vua Trần Thánh Tông triệu đến Điện Diên Hồng để hỏi ý trước cuộc xâm lăng của đại quân Mông Cổ vào tháng Chạp năm 1284. Lần đầu tiên trong lịch sử, sức mạnh dân tộc Việt thể hiện không chỉ bằng lòng yêu nước nhưng còn bằng tinh thần dân chủ. Chính sức mạnh tổng hợp vô địch của lòng yêu nước và tinh thần dân chủ đã đẩy lui bao nhiêu vạn hùng binh Mông Cổ trong ba cuộc chiến chống quân Nguyên lừng lẫy. Thượng Hoàng Trần Thánh Tông đã cảm khái sau cuộc kháng Nguyên lần thứ hai:

Xã tắc hai phen bon ngựa đá
Non sông muôn thưở vững âu vàng

Giấc Mơ Việt Nam là giấc mơ của Bình Định Vương Lê Lợi sau ba lần tổn thất phải lui về tử thủ Chí Linh. Quân kháng chiến đã phải đào củ chuối, giết ngựa chiến mà ăn. Suốt mười năm nằm gai nếm mật đầy hy sinh gian khổ, khi hòa khi chiến, lúc cương lúc nhu, tổ tiên chúng ta trong thời đại nhà Lê cuối cùng đã giữ được Giấc Mơ Việt Nam còn sống. Nguyễn Trãi đã kết luận trong Bình Ngô Đại Cáo: “Xã tắc từ đây vững bền, giang sơn từ đây đổi mới, càn khôn bĩ rồi lại thái, nhật nguyệt hối rồi lại minh, ngàn năm vết nhục nhã sạch làu, muôn thuở nền thái bình vững chắc, âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”. Sử gia Phạm Văn Sơn trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã nhận xét về Giấc Mơ Việt Nam: “Và cũng có thể nói rằng những cuộc hưng vong thê thảm này đã hun đúc cho dân tộc chúng ta một tinh thần tranh đấu bền bỉ, để tồn tại đến ngày nay, oanh liệt dưới vòm trời Đông Nam Á”.

Một điều hiển nhiên rằng, nếu tổ tiên chúng ta không có Giấc Mơ Việt Nam thì ngày nay Dân Tộc Việt Nam đã không còn là dân tộc Việt Nam nữa, và đất Nước Việt Nam đã không còn là đất Nước Việt Nam nữa.

Thế nhưng, các thế hệ con cháu Hùng Vương, trong cũng như ngoài nước ngày nay, có còn biết mơ, có còn biết sống với giấc mơ, có còn biết theo đuổi một Giấc Mơ Việt Nam như bao nhiêu thế hệ Việt Nam trước chúng ta đã hằng ôm ấp và theo đuổi hay không?

Nếu có, xin hãy cùng tôi mơ.

Một ngày, những khách du lịch nước ngoài sẽ không còn vội vã dừng xe bên những cánh đồng lúa cằn khô ở Quảng Nam, Quảng Trị, Hà Tĩnh, Thái Bình để chiêm ngưỡng hình ảnh một bác nông phu, con trâu già với chiếc cày để lại từ thời Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp.

Xin hãy cùng tôi mơ, một ngày, trên màn ảnh truyền hình của các chương trình du lịch sẽ không còn chiếu cảnh những chiếc ghe bầu với cánh buồm mang hàng trăm mảnh vá, đang bồng bềnh trên Vịnh Hạ Long.

Tại sao? Bởi vì, người du khách thu hình bác nông phu đang cày ruộng, sẽ không bao giờ ghi được và hiểu được một điều quan trọng, rằng phía sau vẻ đẹp thiên nhiên, bên trong chiếc áo bà ba đen, chiếc khăn rằn vắt ngang cổ, chiếc nón lá rách viền, là một thân thể Việt Nam đẫm ướt mồ hôi với hàng trăm vết hằn in sâu trong da thịt già nua của bác. Cuộc đời bác nông phu, có thể là người lính già trở về sau trận Điện Biên, Hà Nam, Hà Bắc, giống như bao nhiêu thế hệ nông dân Việt Nam trước bác, đã chịu đựng cảnh nghèo nàn, lao khổ. Họ là thế hệ đã bị lãng quên và lừa gạt về những chân trời không bao giờ có thực.

Tương tự, những khán giả truyền hình xem những chiếc thuyền buồm, thoạt trông vô cùng thơ mộng, đang lênh đênh giữa Vịnh Hạ Long, sẽ không bao giờ biết được rằng, bên trong chiếc ghe bầu cũ kỹ kia là một đám dân chài cùng khổ. Họ là những con người không biết đến hai chữ tương lai. Họ không đủ cơm để ăn, áo để mặc. Họ được sinh ra ở hầm ghe, ăn đó, ngủ đó, cưới nhau đó, sinh con đẻ cái và lớn lên từ đó. Không thể gọi cảnh bác nông phu đang cày ruộng, cảnh những chiếc thuyền buồm trôi lênh đênh kia là nét đẹp Việt Nam. Những cảnh đó không đại diện cho một quê hương Việt Nam gấm vóc với gần năm ngàn năm văn hiến. Hình ảnh chiếc thuyền buồm, con trâu, cái cày chỉ nói lên sự buồn thảm, tuyệt vọng của một dân tộc không có một cơ hội để vươn lên. Những cảnh đó, có thể đẹp và lạ với người nước ngoài nhưng đối với những người Việt Nam tự trọng, là một sỉ nhục. Những cảnh đó chỉ nói lên sự lạc hậu của một nền kinh tế đứng yên tại chỗ từ bao nhiêu thế kỷ và tố cáo sự bất lực, thờ ơ, của một nhà cầm quyền vô trách nhiệm.

Xin hãy cùng tôi mơ, một ngày, trên đất Nước Hùng Vương, sẽ không còn cảnh hàng trăm em bé Việt Nam đói khát đang ngồi chờ những đồng bạc lẻ trên những bậc tam cấp ở Chùa Hương, trong sân Nhà Thờ Đức Bà, trong những quán ăn của người ngoại quốc, giữa Chợ Bến Thành, ngoài đường phố Sài Gòn, Hà Nội. Một ngày, người dân Việt sẽ không còn mắt thấy tai nghe thảm cảnh tuổi thơ Việt Nam giành giật chém giết nhau chỉ vì một chén cơm thừa, một tô canh cặn. Những con cháu Hùng Vương đáng thương kia sẽ có cơ hội đến trường như bao nhiêu triệu trẻ thơ khác trên thế giới. Các em sẽ lớn lên trong thanh bình, tự do, no ấm. Tâm hồn Việt Nam trong sáng của các em sẽ không còn bị những chủ thuyết ngoại lai nhuộm đen, nhuộm đỏ. Hạt mầm trí thức xanh tươi của các em sẽ không còn bị đầu độc bằng những liều thuốc hận thù, rẽ chia, ganh ghét. Giòng sông chảy róc rách qua tâm hồn các em không phải là Sông Gianh phân cách hay Bến Hải chia đôi, mà là giòng sông huyết thống Lạc Hồng bắt đầu tận cội nguồn Dương Tử từ 48 thế kỷ trước đây. Bài hát các em hát mỗi ngày không phải bắt đầu bằng những lời hô hào đấu tranh giai cấp mà sẽ bắt đầu bằng lòng kính nhớ đến ơn đức tổ tiên, công ơn cha mẹ, tình thương yêu dành cho đồng bào ruột thịt và kết thúc bằng ý chí vươn lên sánh ngang vai cùng thời đại con người đang không ngừng đổi mới.

Xin hãy cùng tôi mơ, một ngày, những mục đích đấu tranh vì tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, cơm áo mà dân tộc ta đang theo đuổi hôm nay sẽ không còn cần thiết, hay ít ra không còn là một ưu tiên tối thượng nữa.

Một ngày, những khái niệm, những phạm trù chính trị cộng sản, quốc gia, cách mạng, phản cách mạng, thanh trừng, cải tạo, ly khai, phản động, một thời vốn là những ám ảnh nặng nề trong tư duy, trong cảm xúc của mỗi người Việt Nam, sẽ không còn là những vấn đề đáng quan tâm nữa.

Một ngày, các chế độ độc tài đã thật sự tàn lụi và nền dân chủ đã mạnh khỏe lớn lên. Các nhà tù chính trị đã được san bằng và cũng từ trên đó, nhiều trường đại học, viện hàn lâm vừa được dựng nên. Người dân Việt sẽ không còn nghe nhắc về những bản án dành cho những người ly khai chống đối. Nhân dân Việt Nam sẽ chẳng còn ai bận tâm về chuyện Bắc Nam. Những con số thống kê sẽ không còn là dụng cụ tuyên truyền mà là những con số nói lên thành quả.

Một ngày, nhà thờ, chùa chiền, thánh thất sẽ thật sự là nơi rao giảng đức tin và tinh thần Chân Thiện Mỹ. Các Thầy, các Cha sẽ là những người dìu dắt, những chủ chăn của tín đồ, giảng cho họ bằng ngôn ngữ của thương yêu và tương kính.

Một ngày, những vướng mắc lịch sử, một thời xé nát trái tim dân Việt, thật sự đã đi vào lịch sử. Trên đất Nước Hùng Vương của thời đại mới, trọng tâm của các nhà lãnh đạo một Nước Việt Nam Mới là xây dựng và phát triển đất nước thành một cường quốc đa phương được thế giới kính nhường, một đất Nước Việt Nam có ý thức cao về dân chủ, độc đáo và sáng tạo về văn hóa, vững mạnh về kinh tế, hiện đại về khoa học kỹ thuật và chan hòa tình dân tộc.

Việt Nam sau hơn một phần tư thế kỷ, như nhà văn Dương Thu Hương đã viết: “trên dải đất này vẫn chỉ nghe rõ tiếng vỗ cánh của bầy quạ đen trên các nghĩa địa nối dài từ Bắc vào Nam, từ Nam ra Bắc. Con chim ngậm cành ô-liu kia còn lẩn khuất nơi chân trời mù sương nào đó. Trên dải bờ xa xôi. Và chờ đợi bình minh”. Vâng, nếu chỉ nhìn vào thế hệ Cách Mạng mùa Thu 1945, thế hệ Điện Biên 1954, hay thế hệ gọi là “chống Mỹ cứu nước” còn sống sót hiện nay để trông chờ một cuộc cách mạng dân tộc, thì đó quả là một thực tế bất hạnh cho đất nước. Bởi vì điều đó sẽ không bao giờ đến.

Những thế hệ 45, thế hệ Điện Biên dù ở miền Bắc hay miền Nam đều kiệt sức như nhau. Họ là những múi chanh đã bị vắt đến khô cằn, xơ xác. Họ là những dây cung đã hết độ đàn hồi. Những chiếc bóng già nua thu mình trong căn nhà tập thể với những đồng tiền hưu cố định, chua xót nghĩ về hàng triệu anh em đồng chí đã thật sự làm ma ở Hà Bắc, Sông Lô, Trường Sơn, Khe Sanh, An Lộc. Có chăng, một vài tiếng rên u uất vang lên đâu đó không đủ mang lại sinh lực cho một thế hệ đã kiệt mòn năng lực. Có chăng, một vài ngọn đèn le lói được thắp lên từ những căn phòng tập thể, không đủ xua đi bóng đêm dày đặc mấy mươi năm đã phủ trùm trên đất nước.

Nhà thơ Tạ Ký, một nhà thơ miền Trung thuộc thế hệ 45, dù may mắn ở lại miền Nam, cũng chua chát nhìn lại thời hăng say cách mạng của ông:

Thời gian qua đã ba chục mùa Xuân
Trai mười tám tóc ngả màu sương gió
Những đêm đô thành men cay mắt đỏ
Nhìn trong ly bỗng thấy bóng mình xưa
Gác trọ buồn thiu nằm khểnh nghe mưa
Xót thân thế, nhớ từng thằng bạn học
Ngâm thơ người xưa đau mình cô độc
Rồi áo cơm thay thế chuyện giang hồ
Đôi lúc buồn tình làm một bài thơ
Bốn lăm!
Bốn lăm!
Những kẻ ra đi, những kẻ đang nằm
Những kẻ chết, những kẻ còn vất vưởng
Chúng ta làm gì?
Thuyền trong cơn gió chướng!

Đúng thế, tâm trạng của nhà thơ chắc chắn cũng là tâm trạng của những ai đã một thời hăng say chiến đấu, hăng say khăn gói lên đường tập kết ra miền Bắc, để rồi sau cuộc chiến trở thành những kẻ đứng bên lề. Những kẻ sống sót chắc chắn đã “sáng mắt sáng lòng” nhưng không đủ can đảm để nói lên sự thật, không đủ can đảm tố cáo sự lọc lừa phản bội của giới lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam.

Chế Lan Viên, sau mấy mươi năm làm thơ ca tụng đảng, cuối cùng đã viết hàng loạt bài thơ để thú nhận tội đồng lõa của chính mình, trong đó có bài “Tôi? Ai?” dưới đây:

Mậu Thân, 2.000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
Tôi! Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi cuộc xung phong.
Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ.
Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ,
Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
Ai chịu trách nhiệm vậy?
Lại chính là tôi!
Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời,
Tôi ú ớ.
Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
Mà tôi xấu hổ.
Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười.

Tuy nhiên, dù hoàn cảnh đất nước còn bất hạnh, một điều rất thật, rằng con chim ngậm cành ô-liu mà nhà văn Dương Thu Hương ám chỉ, vẫn chưa chết.

Dù còn lẩn khuất bên kia khu rừng già hay dưới chân trời xa, Giấc Mơ Việt Nam vẫn còn sống trong lòng nhiều triệu người dân Việt. Trong lòng mỗi người Việt Nam vẫn còn đó một giấc mơ về một Việt Nam Mới dân chủ, nhân bản và hiện đại.

Cuộc cách mạng nào cũng thế, đều bắt đầu từ một nhu cầu, một giấc mơ thời đại, và được biến thành hiện thực từ những người cùng ôm ấp một giấc mơ của thời đại đó. Việt Nam đang cần, không phải là những đổi mới nửa vời, nhưng là một cuộc cách mạng Dân Tộc, Dân Chủ và Nhân Bản thật sự, toàn diện và triệt để.

Và một trong những lực lượng chủ yếu để biến mơ ước hôm nay thành bão tố cách mạng không ai khác hơn là tuổi trẻ.

Gần sáu chục triệu tuổi trẻ Việt Nam (65 phần trăm của dân số Việt Nam trong và ngoài nước), dù đang ngồi trong giảng đường đại học xứ người hay đang chăm lo đèn sách nơi quê nhà, rồi vẫn phải vươn vai gánh lấy trách nhiệm lịch sử để ngậm cành ô-liu về trên quê hương đầy bất hạnh của họ.

Quốc Gia Do Thái không chỉ được thành lập từ những người lính nhảy dù xuống Palestine vào buổi sáng tháng 5 năm 1948 nhưng một phần không nhỏ từ túi tiền của những nhà tài chánh Mỹ gốc Do Thái đang làm việc trên Wall Street ở New York, từ những khối óc đang ngồi trong các giảng đường Harvard, từ sự vận động của những nghị sĩ, dân biểu, bộ trưởng gốc Do Thái đang nằm trong các cấp lãnh đạo chính quyền Mỹ, Anh, Pháp, và từ những đóng góp máu xương của hàng triệu người Do Thái lưu dân khắp thế giới. Tuổi trẻ Việt Nam cũng thế, những tinh hoa dân tộc Việt đang lưu lạc khắp bốn bể năm châu, chắc chắn một ngày sẽ cùng với anh em, bè bạn cùng thế hệ trong nước, bằng tài năng và bằng khối óc, ra sức phục hồi sức sống Việt Nam. Tuổi trẻ Việt Nam, dù sinh ra ở Hà Nội, Sài Gòn, ở trại tỵ nạn hay lớn lên ở Paris, Boston, London, trái tim của họ vẫn cùng chung một nhịp đập và lòng họ đều ôm ấp một giấc mơ chung: Giấc Mơ Việt Nam. Đàn nai tơ Việt Nam đáng yêu kia, dù đi lạc trong rừng già tăm tối, vẫn dể dàng nhận ra nhau qua tiếng hú thân quen, để rồi từ đó cùng đưa nhau về bên dòng suối mát Mẹ Việt Nam.

Tuổi trẻ Việt Nam là thế hệ của những kẻ biết bay, biết vượt thoát ra khỏi ao tù nước đọng của quá khứ. Tuổi trẻ Việt Nam, khi bước qua sông, không mang theo trên lưng chiếc ghe quá khứ nặng nề như các thế hệ cha anh. Tâm hồn họ trong sáng như ước mơ của đời họ. Những gì nên giữ họ sẽ giữ và những gì cần phải xóa bỏ, họ sẽ không ngần ngại đập đổ đi mà không hề nuối tiếc, vấn vương công sức. Hành trang trên vai của họ là một tương lai đất nước đầy hy vọng. Họ sẽ dắt tay nhau đi về phía chân trời có thực, đó là bình minh cho một đất nước Việt Nam Mới.

Dân tộc Việt Nam, sau bao nhiêu chịu đựng, xứng đáng để có và chắc chắn sẽ có một cơ hội tốt đẹp hơn cho các thế hệ mai sau. Giọt nước mắt vui mừng cuối cùng sẽ nhỏ xuống để làm tràn Giấc Mơ Việt Nam. Đêm liên hoan của lịch sử dân tộc sẽ không còn xa xôi nữa.

Xin hãy cùng tôi mơ.

TRẦN TRUNG ĐẠO

Thứ Bảy, 30 tháng 6, 2007

Nhắn gởi Việt Weekly: Làm Báo & Làm Người

Khởi Ðầu

Ngày 23 tháng 10 năm 2003, tờ Việt Weekly ra đời, khổ tabloid, 36 trang, tờ báo được nhật báo Viễn Ðông kẹp chung để phát hành vào ngày thứ Năm hằng tuần. Trong số ra mắt nầy, Thư Chủ Nhiệm, ông Lê Vũ viết: “... Chúng tôi chủ trương một nội dung thiên về “đời sống người Việt hải ngoại”. Cách thức thực hiện là đi sát với thực tế, làm tốt vai trò của báo chí là quan sát và phản ảnh một cách khách quan”. Và kết luận “Lúc nào chúng tôi cũng tìm kiếm sự cộng tác của mọi người để mãi mãi tiến bộ. Rất mong quý bạn đọc xem Việt Weekly như một bạn đồng hành hữu ích trong cuộc sống rộn rã trước mắt”.

Sở dĩ, tờ Việt Weekly được nhật báo Viễn Ðông cho phát hành chung vì tháng Ba năm 2003, ông Etcetera và vợ là Mimi Tủy Thiên về làm việc cho tờ Viễn Ðông (Tháng 6 năm 2004, vợ chồng Etcetera bị “đi chơi chỗ khác” và tờ Việt Weekly cũng tự phát hành).

Có thể xem tờ Việt Weekly là hậu thân của tờ Mimi News, ra đời vào tháng Bảy năm 2001, chỉ có 8 trang khổ 11X17”, mỗi tháng phát hành vào ngày thứ Năm do nhật báo Người Việt phát kèm nhưng gần một năm vẫn ì xèo, không có quảng cáo nên bỏ cuộc. Tở VW số 29, ra ngày 15 tháng 7 năm 2004, Etcetera viết bài “Tôi “bị” ông Ðỗ Ngọc Yến... Xúi làm báo”, ông đề cập: “Năm 1997, tôi còn lo tơ mơ với công việc báo chí. Chỉ thích vẽ minh họa, vẽ hí họa cho một tạp chí sinh viên. Năm 1999, khi vụ Trần Trường nổ ra, tôi đã vẽ một bức hí họa đầu tiên phê phán sự kiện nầy, nhắm vào ông Trần Trường... Sau khi vẽ bức tranh tranh đó, tôi đến tòa soạn nhật báo Người Việt (trụ sở cũ) để xin được đăng tranh...”. Ông Ðỗ Ngọc Yến liếc qua bức tranh, khen được, và hỏi còn nữa không? “Hai hôm sau, tôi mang đến mấy tấm nữa, cũng về đề tài Trần Trường”. Sau đó, Etcetera được nhận phụ trách phần hí họa trong nhật báo Người Việt.

Với tờ Việt Weekly, chủ nhiệm: Lê Vũ, chủ bút: Mimi Tưởng (Mimi Thủy Tiên) và tổng thư ký: Etcetera. Tuy cả ba đều chưa trải qua trường lớp báo chí nào nhưng có lẽ “yêu nghề báo” nên dấn thân, thiếu kinh nghiệm và khả năng, nếu không có sự “dựa dẫm” tờ báo nào để phát hành thì khó tồn tại ngay ở bước đầu.

Nhìn lại báo chí Việt ngữ ở hải ngoại nói chung, Hoa Kỳ nói riêng, những người dấn thân trong công việc nầy đã lớn tuổi. Khi thấy giới trẻ “xông xáo” bước vào lãnh vực nầy, đáng khuyến khích. Vì vậy khi thấy tờ Việt Weekly ra đời, với bản thân người viết, biết được thành phần nhân sự: - Chủ nhiệm là Lê Vũ (Lê Cẩm Thạch) con của ông Lê Cẩm Khoán, nhân sỹ trong hội Tây Sơn Bình Ðịnh, - Chủ bút Mimi Tưởng (Mimi Thủy Tiên, con của nhà giáo ở Trung Tâm Giáo Dục Hùng Vương Ðà Lạt, cháu của cây bút chống Cộng sắc bén là Tưởng Năng Tiến (cậu ruột), - Etcetera (Nguyễn Quang Trường) con của ông Nguyễn Ngọc Bích, cựu Sĩ quan, cựu tù nhân chính trị... tôi cảm thấy vui vui. Etcetera với nhiều bức hí họa đã in thành sách Họa Etcetera, lên án chế độ Cộng Sản độc tài, dã man... nhất là hình ảnh Hồ Chí Minh qua nét vẽ trở thành tên hề, quái vật, bợm trợn, độc tài, láu cá, gian ác, đầy thủ đoạn... lên án những kẻ tay sai cho Sộng Sản

Thế nhưng! nửa năm sau, đã thất vọng khi xem tờ Việt Weekly và càng ngày càng thấy tởm!

Trở Mặt

Như đã đề cập ở trên, nội dung thiên về “đời sống người Việt hải ngoại” nhưng chụp hình và phỏng vấn vài ba người “lông bông lêu bêu”, xoay đi xoay lại với những cặn bã trong đời sống để tạo sự hiếu kỳ và có ý “dằn mặt” đối thủ nào phản bác để đừng đụng chạm đến tờ báo.

Etcetera lúc nào cũng đề cập đến 3 sư phụ là Ðỗ Ngọc Yến, Lâm Tường Dũ và Tuyết Sỹ. Về nhân cách và khả năng trong làng báo Việt ngữ, trong nghề ai cũng biết LTD và TS và cảm thấy “thầy nào trò đó” nhưng với Ðỗ Ngọc Yến là người đưa Etcetera vào làm tờ Người Việt và đỡ đầu nên nhiều người cũng hơi ngạc nhiên. Ông là sáng lập viên và cũng là linh hồn của tờ nhật báo nầy. Tình nghĩa thầy trò như vậy, thế mà đệ tử chụp bức hình tay cầm tờ báo Người Việt, tay bịt mũi! Khi xem bức hình đó, tôi không biết dùng chữ nào để nói về cái đạo lý làm người. Ông bạn bên cạnh liếc thấy và phán ngay “đồ mất dạy”.

Nói như ông Vũ Công Lý “bọn nầy ngựa non háu đá” nhưng không thể xấc xược, vô lễ với những bậc cha, ông một cách lỗ mãng với những chữ hạ cấp khi viết trong trang báo.

Khi Việt Weekly rêu ra sẽ đặt 500 thùng báo để phổ biến rộng rãi ở Nam Cali nhưng qua mấy năm, chẳng thấy có thùng báo nào cả. Sau khi về VN, tháng 12 năm 2006 “nổ” sẽ ra tờ nhật báo nhưng gần nửa năm rồi, có lẽ cũng mang số phận như 500 thùng báo?

Nếu điểm lại những số báo của Việt Weekly cũng đoán được chủ nhiệm Lê Vũ không biết gì về nội dung bài vở trước khi chuyển cho nhà in. Ðọc Thư Tòa Soạn, nếu có bài nào của Lê Vũ mới có gợi ý, có nhiều bài cũ từ trang web được tự ý trích để tạo “diễn đàn” nếu chủ nhiệm biết sẽ khôn khéo đề cập rồi. Vì vậy khi sự việc bị “bể”, lê Vũ phải chống chế nhưng vụng về chỉ lấy quyền tự do ngôn luận để quanh co.

Hình ảnh Etcetera qua những bức hí họa chống Cộng ngày nào đã biến mất để lộ diện những bài viết đả kích những người có tinh thần chống Cộng thảo nào có lời khen của Tôn Nữ Thị Ninh về tờ Việt Weekly. Có lẽ được “chân trong chân ngoài” nên khi về Việt Nam trong dịp hội nghị APEC, Việt Weekly được phỏng vấn Võ Văn Kiệt và những bức hình đó đăng tới đăng lui vừa “kiếm điểm” Cộng Sản vừa “khiếu khích” những người chống Cộng.

Cấp lãnh đạo và đảng viên lúc nào cũng tôn thờ Hồ Chí Minh; trong nước, nếu có ai xúc phạm đến “bác” sẽ bị tù ngay như đã từng diễn ra trong quá khứ, thế mà Võ Văn Kiệt tiếp chuyện với “kẻ chà đạp, khinh bỉ lãnh tụ của ông” thế mới kỳ quặc. Một, ông cảm thấy “chà đạp” là đúng; hai, ông không biết gì cả vì “đàn em nằm vùng hải ngoại” không báo cáo để khi được phát hiện thì “bé cái lầm”! Bộ Chính Trị nên mua tập hí họa của Etcetera nầy đưa cho Võ Văn Kiệt xem và làm “bản kiểm điểm”. Ðộng cơ nào thúc đẩy, “thành thật khai báo”!

Nầy nhé, phải “nói có sách, mách có chứng”, trong quyển Họa Etcetera dày 436 trang, ấn hành năm 2000, ngay trang đầu (trang 19) hình Hồ Chí Minh trông thật gian manh với câu nói “... cái Tự Do Ngôn luận đâu có trong đầu tao”. Ðơn cử vài trang với chân dung HCM: 20, 21, 28, 35, 37... mặt chuột, mặt dơi trông dị hợm, trang 31 hình HCM với câu “một thằng già trong công viên (Ba Ðình)”... trang 240, 242, 243... trang 239 với hình ảnh HCM như ác quỷ với chữ “Sinh nhật Ác Hồ”, trang 235 thì HCM trông thật dâm đãng ôm hai bà với dòng chủ “Minh Khai và A Vàng”... trang 244 hình HCM đầu trâu với 2 cái sừng cong, mặt có vòi, trông như con quái vật! Về tự do ngôn luận, trang 27 trông rất thú vị với dòng chủ “Tống ngay nó về CS đặng đòi tự do ngôn luận”...

Nếu Võ Văn Kiệt “chịu chơi” với đám Việt Weekly nầy thì nên ấn hành quyển Họa Etcetera nhằm thể hiện tự do dân chủ, tự do báo chí như thế đó.

Ngoài sư phụ Ðỗ Ngọc Yến, cho phụ trách trang hí họa trên tờ Người Việt, cho tiền để ra tờ Mimi News, khi qua đời, cho garage sách của ông... vợ, con còn giữ vai trò nòng cốt trong tờ Người Việt thế mà đệ tử phản thùng. Nhà báo lão thành Anh Tâm Nguyễn Thành Mỹ cùng vợ là Phan Anh Thư ở Fresno xuống buôn bán trái cây ở Little Saigon, giúp đỡ rất nhiều trong thời gian đầu VW sống thoi thóp, nhận làm nghĩa phụ Etcetera thế mà trong buổi bà vợ tổ chức sinh nhật của ông Việt Weekly bất ngờ biến thành kỷ niệm ngày ra đời tờ báo. Ông bà giận quá, mắng nỏ, về lại Fresno, ông tức quá nên bị đứt gân máu, phải đưa đi cấp cứu, bị liệt và nằm liệt từ năm 2005 đến nay.

Với Lê Vũ, kỹ sư điện toán, làm báo muốn trở thành một “lý thuyết gia” để biện bạch cho đường lối “tự do báo chí” nhưng qua những luận cứ đã được đề cập, hình như chưa được am tường. Lê Vũ giữ được nhân cách của người trẻ làm báo nhưng không có khả năng lo hết bài vở nên Etcetera bao trọn gói do đó, tờ VW mới trở thành lá cải, đánh phá, châm chọc rẻ tiền. Trước đây có vài trang English Section để bạn trẻ đọc nhưng cũng không ra gì nên phải dẹp.

Tự Do Báo Chí và Luật Mạ Lỵ

Trong bốn năm qua, tờ VW đề cập đến đời tư cá nhân nhiều người. Nhiều người cho rằng tờ báo nầy lợi dụng quyền tự do báo chí và vi phạm luật pháp về tội mạ lỵ, đó chỉ là ý kiền còn đúng hay sai khi đưa ra pháp luật phán xét mới biết được.

Nhận thấy bài nầy rất hữu ích nên xin trích nguyên văn bài viết của LS Nguyễn Quốc Lân với tựa đề “Tự do ngôn luận: Luật mạ lỵ” trong mục Pháp Luật và Ðời Sống trên nhật báo Người Việt, ra ngày 11 tháng Giêng năm 1995.

“Tự do ngôn luận là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong xã hội dân chủ. Tu Chính Án Thứ Nhất (First Amendment) của Hiến Pháp Hoa Kỳ ngăn cấm chính phủ không được có những hành động nào xâm phạm đến quyền tự do ngôn luận hay tự do báo chí của người dân. Những hành động của chính phủ bao gồm ban hành những luật lệ hay sử dụng hệ thống tòa án để xét xử những tranh chấp giữa các thành viên trong xã hội.

Như hầu hết mọi quyền tự do khác, tự do ngôn luận cũng có nhiều giới hạn trong pháp luật. Mặc dù tự do ngôn luận là một đặc quyền căn bản trong một thể chế dân chủ, luật pháp Hoa Kỳ cũng luôn cân nhắc đặc quyền nầy với những ưu tiên khác trong xã hội như trật tự an ninh quốc gia hay sự xâm phạm đến danh dự cá nhân hay cuộc sống an lành của những thành viên khác trong xã hội.

1.- Giới hạn của tự do ngôn luận

Tự do ngôn luận trong Hiến Pháp Hoa Kỳ không áp dụng đối với một số loại ngôn từ có tính cách nguy hại đến xã hội như:

a.- Những ngôn từ có thể trực tiếp gây xáo trộn trật tự hay an ninh xã hội (clear and present danger of imminent lawlessness). Ðây là loại ngôn từ tương tự như kêu gọi mọi người ném đá vào xe đi trên đường, tự động hô to và có lửa cháy trong rạp hát đang có đông người để đùa cợt, hay tiết lộ bí mật quốc phòng.

b.- Nhũng ngôn từ chửi bới có thể gây ra sự tức giận hay trả đũa bạo động bởi người nghe (figthting words). Ðây thường là những câu văn tục hay kỳ thị bởi một người nào đó.

c.- Những ngôn từ hay tài liệu có tính cách khiêu dâm và không có giá trị về văn chương, nghệ thuật chính trị, khoa học hay xã hội (obscenity). Ðây thường là những báo chí hay phim ảnh thuộc loại khiêu dâm dành cho người lớn.

d.- Quảng cáo sai sự thật hay đánh lừa khách hàng (false or deeptive advertising). Chính phủ có quyền đặt ra những điều luật để kiểm soát tiêu chuẩn quảng cáo thương mại.

e.- Những trường hợp đặc biệt cần thiết cho an ninh quốc gia như phổ biến tin tức trong chiến tranh, những ngôn từ kỳ thị chủng tộc hay tôn giáo.

f.- Những ngôn từ có tinh cách nói xấu, mạ lỵ hay phỉ báng người khác (defamation). Danh từ mạ lỵ có hai loại là (1) câu nói miệng (slander), và (2) câu nói thành văn hay viết ra trên giấy (libel). Cả hai đều có tiêu chuẩn pháp luật tương tự.

2.- Ngôn từ mạ lỵ hay phỉ báng (defamation)

Ngôn từ mạ lỵ là những lời tuyên bố sai sự thật về một người hay tổ chức nào đó mà có gây thiệt hại đến người bị liệng hệ. Muốn chứng minh một lời nói có mạ lỵ hay không, nạn nhân phải chứng minh được nhiều yếu tố khác nhau.

a.- Sai sự thật

Ngôn từ mạ lỵ phải là một lời tuyên bố về sự thật (statement of fact) chứ không phải phản ảnh những quan điểm, nhận xét hay phê bình (opinion). Ví dụ câu nói “ông A mới ăn cướp nhà hàng” là một lời tuyên bố có tính cách sự thật trong khi câu nói “ông A trông giống như một người ăn cướp nhà hàng” chỉ là câu nói có tính cách nhận xét.

Muốn chứng minh câu nói “ông A vừa mới ăn cướp nhà hàng” là sai sự thật thì chỉ còn có thể được vì chỉ cần chứng minh ông A có ăn cướp nhà hàng hay không mà thôi. Còn chứng minh câu “ông A trông giống như một người ăn cướp nhà hàng” là sai sự thật là một việc rất khó. Người bị mạ lỵ phải chứng minh được rằng câu tuyên bố liên hệ là sai sự thật thì mới có thể thắng kiện được.

b.- Ðối với những nhân vật của cong cộng (public figure)

Nếu nạn nhân là những nhân vật công cộng (public figure), tiêu chuẩn chứng minh các câu nói mạ lỵ chống lại mình khó khăn hơn những người khác. Muốn chứng minh một câu nói mạ lỵ, những nhân vật công cộng nầy phải chứng minh được là người phát ngôn các câu nói mạ lỵ biết rằng lời tuyên bố của mình là đúng hay sai sự thật. Nạn nhân phải chứng minh được rằng người phát ngôn lời nói mạ lỵ thật sự nghi ngờ về sự thật của câu phát biểu của mình nhưng vẫn có ý phát biểu mà không cần điều tra để tìm hiểu thêm về sự thật.

Những nhân vật công cộng nầy là những người nổi tiếng trong cộng đồng và tự lao mình vào các sinh hoạt hay tranh luận trong cộng đồng. Ðây là một tiêu chuẩn rất quan trọng, nếu không muốn nói là quyết định kết quả, trong các vụ kiện liên quan đến các câu nói mạ lỵ.

c.- Ðối với những người riêng tư (private persons)

Ðối với những người không phải là nhân vật công cộng, họ chỉ cần chứng minh là người phát ngôn những câu nói mạ lỵ đã bất cẩn (negligent) vì không tìm hiểu thêm sự thật của lời tuyên bố của mình. Nếu chứng minh được sự bất cẩn nầy, nạn nhân có thể được bồi thường những thiệt hại thật sự (actual damage) như thiệt hại về tái chánh (economie losses), uy tín (reputation) hay nhục mạ cá nhân (personal humilitation).

Nếu những nạn nhân không phải là nhân vật công cộng chứng minh thêm được rằng người mạ lỵ biết rằng những lời tuyên bố của họ là sai hay cố ý tuyên bố mà không cần đếm xỉa gì đến đúng hay sai thì nạn nhân có thể được bồi thường thêm những thiệt hại tự động (presumed damages). Ðây là tiêu chuẩn khó chứng minh hơn và thường chỉ áp dụng trong trường hợp mạ lỵ mạ lỵ đối với những nhân vật cộng đồng mà thôi.

3.- Kết luận

Tự do ngôn luận la một đóa hoa đẹp trong một thể chế dân chủ, thế nhưng đây cũng có thể là một thất bại trong xã hội nếu người dân không biết tôn trọng đúng mức. Ðó là một cái gì mà xã hội cần phải chấp nhận để bảo toàn ý nghĩa của một quyền hiến pháp căn bản nhất: quyền tự do ngôn luận”. LS Nguyễn Quốc Lân

Bài viết của LS Nguyễn Quốc Lân cho thấy những điểm chính trọng về vấn đề mạ lỵ. Nếu người làm báo mà đi theo con đường tà đạo, không am tường luật pháp để dùng thủ thuật mượn lời người khác như phỏng vấn với chủ tâm bôi nhọ người khác để đăng báo phổ biến trước công chúng, cá nhân người được phỏng vấn và tờ báo đều bị trách nhiệm khi vi phạm.

Việt Weekly thân Cộng hay không?

Ðặt câu hỏi với Lê Vũ và Etcetera có “thân Cộng hay không”? dĩ nhiên đương sự trả lời không. Và nếu hỏi cán bộ Cộng Sản đặc trách vai trò truyền thông hải ngoại có đầu tư cho tờ VW làm công cụ tuyên truyền không, sẽ nhận câu trả lời không.

Qua đài truyền hình VTV4 phát hình trên khắp nơi ở hải ngoại, chủ trương bây giờ nhằm kêu gọi Việt kiều là “nắm ruột ngàn dặm” để thăm quê và đầu tư làm ăn. Không có chương trình nào đánh phá, bài xích cộng đồng người Việt hải ngoại để gây sự hận thù và đào hố sâu chia rẽ.

Nếu Cộng Sản muốn “đầu tư” cho tờ báo nào thì tờ báo đó phải đứng đắn, có ảnh hưởng mạnh trong cộng đồng người Việt, có những cây bút tên tuổi, có khả năng lèo lái xoay chiều rất tinh vi để thẩm thấu lòng người với tình tự dân tộc. Tờ báo phải được cảm tình với hội đoàn, đoàn thể, đồng hương để từ từ dẫn dắt con đường nhìn về tương lai của dân tộc đã trải qua bao năm gian khổ, đói nghèo... cùng nhau xây dựng lại.

Tờ VW không có cây bút đứng đắn, tên tuổi nào cộng tác, với những bài vở lèm bèm, xoay đi xoay lại với vài cây bút, nếu viết thì chẳng có tờ báo nào đăng. Ðâm bên nầy, thọt bên kia chỉ gây sự tò mò hạ cấp, không chiếm được cảm tình với đồng hương. Vì vậy, nếu CS chỉ sử dụng thì chỉ chi như “bài cậy đăng” có tính cách giai đoan mà thôi.

Trong chuyến đi Hoa Kỳ của ông Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nhà nước CSVN, vừa qua, trước khi đi VN hy vọng sẽ có những ký kết hợp đồng thương mại với Hoa Kỳ khoảng 4 tỷ Mỹ kim nhưng theo bản tin trên trang web của chính phủ CS ngày 25 tháng 6 “Tổng giá trị các thỏa thuận, hợp đồng kinh tế giữa doanh nghiệp hai nước trong chuyến thăm lần này đạt trên 11 tỷ USD” vì vậy vấn đề kêu gọi Việt kiều đầu tư sẽ vào hàng thứ yếu trong kế hoạch chiêu dụ Việt kiều.

Nếu cần tuyên truyền thì nhiều tờ báo và trang web trong nước đã phổ biến, tờ VW nếu có phỏng vấn thì cũng Nguyễn Cao Kỳ hay vài nhân vật điếu đóm nhăng cuội cho vui mà thôi.

VW thường hay rêu rao số lượng phát hành, nhìn vào 500 thùng báo “vẽ” thì cũng biết thật hư. Tháng Sáu năm 2005, VW mới bán 50 cent, nếu in thêm 1000 số thì số tiền vào khoảng 300 đến 350 Mỹ kim, nếu bỏ cho các cơ sở thương mại để bán thì chỉ 25 đến 35 cent, làm con số cộng trừ thì biết. Tờ báo sống nhờ quảng cáo, với tuần báo dày 120 trang, quảng cáo không được bao nhiêu thế mà đòi “mua” tờ nhật báo nầy, nhật báo kia hàng triệu Mỹ kim... thấy đăng trên báo mà buồn cười.

Còn nhiều chuyện để nói nhưng sẽ vo đầu gối mà lai rai

Kết

Nhật báo Viễn Ðông, số ra ngày thư Bảy 23 tháng 6 năm 2007, đăng bài viết “Toan Ánh và hơn 70 năm cầm bút”. Năm nay, ông đã 96 tuổi, là vị thầy khả kính thỉnh giảng các trường đại học Huế, Sài Gòn, Ðà Lạt... là nhà văn có trên 120 tác phẩm, trong đó có nhiều tác phẩm đề cao về phong tục tập quán, đạo lý, nhân cách, thờ cúng tổ tiên... rất quý báu. Với thiên chức của nhà giáo và người cầm bút, ông có lời khuyên với giới trẻ: “Thời nay, đã cầm bút thì phải viết vì sự thật, vì lẽ phải và vì cái đẹp”. Phải lấy lời khuyên của ông để làm điều tâm niệm khi cầm bút: Sự Thật - Lẽ Phải và Cái Ðẹp.

Làm báo không khó, giữ được nhân cách và lòng tự trọng của người làm báo mới là điều khó, cần học hỏi tính khiêm nhượng và khả năng của người đi trước. Ngựa non háu đá thì cũng có ngày bị hồi mã thương.

Ðại Nghĩa
Nam Cali, June 25-07