Hiển thị các bài đăng có nhãn Ký sự. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Ký sự. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 18 tháng 7, 2007

Cộng sản cướp đất cướp vườn

CỘNG SẢN CƯỚP ÐẤT VƯỜN
CỦA ÐỒNG BÀO KINH TẾ MỚI ÐỨC LINH

Viết nhớ đồng đội và đồng bào Phan Thiết, Bình Thuận đã chết thảm tại Trại cải tạo Huy Khiêm và Kinh tế mới Ðức Linh.

Từ khi xuất hiện tại Việt Nam tới nay, lúc nào đảng Cộng Sản cũng nói tới chuyện "cách mạng, giải phóng", khiến cho ai đã nghe rồi, thấy rồi và đang sống với cái thiên đàng xã nghĩa trên, đều ngao ngán trước nỗi đời nghèo cực của đồng bào cả nước bị đảng cầm quyền bóc lột đến tận xương tuỷ. Trước năm 1975, ở miền Bắc VN, Hồ Chí Minh bày trò "cải cách ruộng đất "để cưởng đoạt đất ruộng của tầng lớp địa chủ phú nông, sau đó qua chính sách "hợp tác xã hóa", để thu tóm toàn bộ đất đai trên vừa mới cấp phát cho giới bần cố nông. Tại miền Nam VN sau ngày 1-5-1975 tới nay, đảng CS đã tìm đủ trăm phương ngàn kế để thực hiện cho được, cái gọi là "cải cách ruộng đất lần thứ 2 "và chúng đã thành công qua chiến lược "công nghiệp hóa, hiện đại hóa VN "mà thực chất chỉ là dùng tiền của tư bản đầu tư, để dụ dổ hay cưởng bức trắng trợn nông dân, thu mua đất đai vườn ruộng của họ đang canh tác, để bán lại cho ngoại quốc, làm giàu cho đảng viên, cán bộ. Từ nay đồng bào cả nước trở thành nô lệ cho bọn tư bản đỏ, qua lớp địc chủ, cường hào, tư sản mại bản...

Ngày 9 tháng 3 năm 1945 nhờ người Nhật, VN coi như đã thoát được cùm gông của thực Pháp sau 80 năm đô hộ. Nhưng hởi ôi niềm vui độc lập của người Việt chỉ được mấy tháng ngắn ngũi, thì lại bị Hồ Chí Minh và CS đệ tam quốc tế, quàng vào cổ xiềng xích mới, qua lớp son hào nhoáng "cách mạng tháng 8".Ðiều đau đớn và hổ thẹn nhất cho dân tộc VN, là đã bước qua thế kỷ XXI, thế nhưng chúng ta vẫn phải trầm mình trong vũng bùn ao tù ứ động, qua cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh, mà thực tế cả nước đều không biết đó là cái thứ tư tưởng gì ? Lịch sử vốn khách quan, trong đó sử gia hay người trong cuộc, đều mang tính chất nhân chứng về những gì đã xảy ra. Ðó là những nụ cười trào phúng của đồng bào dành cho đảng cầm quyền, để bày tỏ những uất hận nghẹn ngào. Nhưng nay thì khác, chẳng những cả nước bị đảng cướp đêm cướp ngày về vật chất, mà còn mất hết tự do và nhân phẩm con người, nên trong thế chẳng đặng đừng, người dân khắp nước đã đứng dậy, đòi đảng CS phải trả lại cho họ những gì đã cướp giựt từ ấy đến nay.

Tại Phan Thiết, trước khi Nguyễn Minh Triết sang chầu ông chủ Mỹ, vào những ngày 10,11 và 12 tháng 6 năm 2007, hằng trăm gia đình nông dân hai huyện Tánh Linh và Ðức Linh thuộc tỉnh Bình Thuận, đã kéo về biểu tình đòi đất vườn và ruộng của họ đã bị đảng tịch thu, để bán cho tư bản trồng cao su. Ðất đai trên vốn là mồ hôi máu mắt của người dân, những nạn nhân bị CS đày lên vùng kinh tế mới từ năm 1977 gầy dựng thành vườn cây trái, ruộng lúa. Hiện số nạn nhân trên đã lặn lội ra tận Hà Nội để nói cho nhân loại biết về tấn thảm kịch này, góp phần vào cuộc đấu tranh của cả nước, để dành lại quyền được làm người.

Hỡi ôi Bình Thuận là bãi chiến trường ba trăm năm cũ, người đến người đi dấy lên rồi tàn lụn, xô nghiêng hay tạo dựng sông núi để được tiếng đời là minh quân hay bạo chúa, thì nay đổi đời đã rỏ, dù sử sách hôm nay hay ngày mai ghi không hết kịp, thì đã có bia đời, bia miệng như người Bình Thuận đã ghi những chuyện Việt Minh, Tây Tà qua suốt bao năm. Ngày nay khách phương xa tới chơi Bình Thuận, nơi từng là đất vua ở, đường vua đi, vào giữa độ xuân về hay trong các mùa lễ hội, không có gì thích thú cho bằng leo lên chiếc xe ngựa cũ kỷ hiện vẫn còn chạy đầy Phan Thiết. Bởi vì chỉ có trong khoãng không gian này, rất có thể giữa tiếng vó ngựa lộp cộp xen lẫn tiếng lục lạc len keng, bác xà ích sẽ kể cho mọi người nghe những giai thoại thật đẹp của miền biển mặn mấy mươi năm về trước và sự đổi thay của mấy mươi năm về sau, nhưng sau trước gì thì Bình Thuận cũng vẫn là chốn thân quen của mọi người, với những buồn vui, nhất là những năm tháng bị đoạ đày trên núi rừng ma thiêng nước độc, mà VC gọi là Kinh tế mới. Phường phố nay đã thay đổi hết nhưng con người Bình Thuận thì chẳng thấy thay đổi chút nào, vẫn đói nghèo và bị bốc lột đến tận xương tủy, cho nên dù có viết ngàn trang vẫn không làm sao viết cho hết được niềm đau nổi hận của đồng bào.


1- KINH TẾ MỚI ÐỨC LINH, MỒ CHÔN TẬP THỂ NGƯỜI PHAN THIẾT

Tháng bảy ở Phan Thiết, trời hay hờn dỗi nên cứ trút mau những cơn mưa ngày thật buồn. Phường phố quẩn quanh nhỏ nhoi thêm ngụp lặn dưới màn nước xám mù mịt nên càng tiêu điều, tĩnh mịch. Mấy hàng phượng vỹ ven đường, hoa đã rụng hết, chỉ còn trơ lại ít cụm lá hoang, co rúm ngả nghiêng với gió. Ve sầu rên khóc trong hốc cây, sóng vổ ỳ ầm xoáy mạn bờ sông Mường Mán, có tiếng người ca sĩ nào đó, từ chiếc loa khuếch thanh trên đỉnh lầu nước giữa vườn hoa độc lập, nức nở ngậm ngùi qua ca khúc "đêm buồn tỉnh lẻ" của Tú Nhi, bất chợt khiến cho ta bâng khuâng héo hắt.

Nhưng buồn rầu cho mấy rồi cũng qua khi trời dứt cơn gió mưa, mọi sinh hoạt trở lại bình thường. Người người rộn rịp, vui vẻ vì tháng bảy là thời điểm tốt nhất trong năm của dân Phan Thiết. Mùa cá nục, cá chim đã kết thúc sau sáu tháng vất vả vật lộn trên sóng nước. Ngư phủ giờ đây hoan hỉ với túi tiền rủng rỉnh được chia, tha hồ mua sắm. Thật vậy kể từ ngày Việt Nam Cộng Hòa có chương trình cải tiến nông ngư nghiệp, dân làm biển được vay tiền trả góp dài hạn, lãi suất thật nhẹ để đóng tàu, thuyền, mua thủy động cơ và ngư cụ, mà khỏi phải qua trung gian đầu cơ cắt cổ thuở xưa.

Nhờ cải cách này, đời sống của ngư dân được cải thiện, những túp lều tranh vách lá xiêu vẹo tồi tàn được thay thế bằng những căn nhà tôle vách gạch tuy cổ điển nhưng khang trang ấm cúng. Thuyền bè chạy bằng buồm cổ lỗ bị phế thải, nghìn trăm tàu đánh cá nhỏ, lớn đóng theo kiểu Thái Lan, gắn máy kéo Nhật, sơn phết lòe loẹt, san sát xuôi ngược trên sông, biển. Thanh niên nam nữ trong giới này đã biết hưởng thụ vật chất theo thành thị. Khu phố 6, 7, 8, 9 của phường Ðức Thắng, dọc bến Ngư Ông, là một trong nhiều xóm làng kiểu mẫu, sau cơn đại hỏa hoạn năm 1956, nói lên sự thành công mỹ mãn của ngư dân.

Ven thị xã, đồng ruộng bát ngát đang ngút ngàn trổ hạt, hương lúa mới thoang thoảng bốc thơm trong gió, đó đây trai gái vui vẻ gặt hái. Lúa đầy kho, khoai sắn la liệt nằm phơi khắp sân, thêm vào đó có đàn heo con ủn ỉn bấu níu vú mẹ trong chuồng, là những món tiền đáng kể. Như ngư dân, nông gia cũng được hưởng chương trình trợ vốn trả góp của Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp và Ty Nông Nghiệp, Ty Khuyến Nông... để mua lúa giống, phân bón, thuốc trừ sâu rầy và nái giống. Riêng xi măng xây chuồng và thực phẩm dành cho gia súc, được cấp không. Sau ba tháng chăn nuôi, chỉ hoàn lại chính phủ ba con heo con mà thôi, nái được giữ lại. Quỹ phát triển của ngân hàng Á Châu bán máy cày, máy gặt trả góp, trâu bò nay bớt nhọc nhằn phần nào. Mái ngói đỏ chen chúc mọc, nhà nhà vang tiếng nhạc lời ca, phát ra từ chiếc máy thu thanh xinh xắn. Ðời sống êm đềm hạnh phúc nơi thôn dã, với những mối tình chân mộc mạc.

Hoa quả chen chúc trên đất, gỗ quý bất tận chốn rừng hoang, cá tôm hải sản đầy sông biển với khí hậu quá điều hòa thích hợp. Phan Thiết - Bình Thuận đúng là miền đất hứa lý tưởng đời đời của mọi người, nếu không có cuộc chiến tranh trường kỳ do cộng sản quốc tế đề xướng. Rồi thì chiến tranh và máu người dân bất hạnh triền miên chảy suốt non sông, cơ hồ tưới xanh luống mạ. Mộ chí hoang vu lũ lượt chớm mọc khắp nơi, sang hồ, xừ sang, hồ sang xế... tiếng đàn nhị hồ đưa đám não nuột như bất tận. Miền đất hứa biến thành vùng biển động, sự sống và nỗi chết không phân biệt ranh giới với thời gian, thấy đó chết đó vì mìn bẫy, bom đạn, pháo kích, ám sát và nạn đạn lạc, bắn lầm. Buồn ngồi nhai lại các bài hát thời thượng năm nào của cả hai phía, để thêm tức tủi, ngậm ngùi:"đời ta thêm vui thắm tươi, vườn mộng xanh khắp nơi, hòa theo tiếng hát tươi vui, mừng thay chúng em nay sống nơi tự do... là rế rế la phà, mì rề mì, mì mì rề rề rề la mí... " " hay"... bài phong kiến bốc lột, diệt thực dân, đem ấm no hạnh phúc... " " Ðược sống sót trong đêm rã ngũ 18-4-1975 để đối mặt nhận diện bọn Việt Gian nằm vùng hay a dua theo kẻ thắng trận, cờ lọng, đèn đóm, phủ phục hai bên vệ đường đón mừng giặc Hồ phương Bắc vào thành phố, có thấy cảnh xử giảo, có nghe tiếng rên xiết của hàng loạt nạn nhân quằn quại dưới trận đòn thù trong đêm tiếp thu và nhiều đêm liên tiếp, mới biết sự đổi đời rất có ý nghĩa, nhất là đối với đám âm binh 30-4, với những kẻ cầu an lừng khừng, với bọn trí thức không tưởng quen bóp méo sự thật, qua cái lăng kính, bất lương, bất bình thường...

Nụ cười hy vọng ngày nào đã tắt hẳn trên môi giới ngư dân, khi tàu thuyền đánh cá vào hợp doanh, chủ nhân là đảng. Song song nhà phố, cơ sở công thương nghiệp, rạp hát, bệnh viện tư, ruộng vườn, nông cơ, nông cụ cả trâu bò... hoặc vào hợp tác, hoặc là tài sản xã hội chủ nghĩa. Dân làm chủ không, nhà nước, cán bộ đảng xử lý. Cơ cấu phường xã cũng lần lượt thay đổi, anh Chín bí thư, chị Ba phụ nữ mấy hôm đầu, sau đợt cướp ngày, kiếm được cái xe, căn lầu, vàng bạc đô la, lần lượt biến mất hay cũng chỉ như ta sống phất phơ bên lề thế sự, dù vẫn dép râu, nón cối, vai lũng lẳng cái xà cột cho oai.

Cán Bắc, công an răng thưa má hóp vùng Nghệ Tĩnh, thanh niên nam nữ cán bộ đảng chánh hiệu, đầy Bình Thuận, nhởn nhơ dòm ngó, vây bủa đồng bào kín hơn thiên la địa võng. Người Phan Thiết giờ phờ đi với gạo, dầu, phân bón, thuốc men, thức ăn và quần áo. Tay trắng hoàn tay trắng vì sản lượng chi tiêu quái ác. Ðời sống văn minh của xã hội miền Nam như cái xe không phanh, vun vút tuộc dốc cầu Mường Mán, từ chết cho đến bị thương thê thảm. Nhiều mẹ Việt Cộng, nhất là miền đất thành đồng Ðại Nẩm, Bình Lâm, Tường Phong... uất ức tự tử vì biết dại, biết hối thì đã quá muộn màng trong cảnh trắng tay, chồng con thành liệt sĩ, còn gia đình thì nghèo đói mạt rệp. Thương ai cho bằng thương thân, những người còn chút phương tiện vội vã bồng bế nhau liều chết vượt biển tìm tự do. Rốt cục lãnh đủ vẫn là giới bần cố nông, vô sản, chỉ được đảng ban phát cho cái vỏ sơn phết, mà bụng thì trống rỗng hơn bao giờ hết vì bế tắc công ăn việc làm. Ðói rách, bệnh tật và tuyệt vọng hằng hằng thường trực hành hạ họ.

Như cả nước, năm 1977 người Phan Thiết hoàn toàn sạch hết ngoài cái nhà trống bó buộc phải giữ để lây lất sống, giữa lúc cướp giựt bốc cao, Thuận Hải (Bình Thuận, Ninh Thuận, Bình Tuy) được đảng ưu ái chọn làm thí điểm 101"KINH TẾ MỚI".

Phan Thiết hoang vắng như bãi tha ma, đường phố khắp nơi thay tên chất ngất. Những anh hùng liệt nữ dày công đối với xã tắc sơn hà như Nguyễn Hoàng, Lương ngọc Quyến, Huyền Trân Công Chúa, Trần quý Cáp... được thay bằng những tên Trương Tam, Lý Tứ lạ hoắc, không biết đâu mà mò lý lịch, vì trong dòng sử Việt không hề nói tới. Các phố chính trước năm 1975 như Lê văn Duyệt, Nguyễn văn Thành, Gia Long, Ðồng Khánh... chỉ còn là cái bóng mờ với hằng loạt căn nhà bị niêm phong khép kín. Một vài tiệm buôn của người Hoa còn bị kẹt lại, chưa vượt biên hay đi nước ngoài bán công khai, co rúm sau cánh cửa sắt thu hẹp, buôn bán vặt vãnh chờ thời như chổi, dép râu, cờ đảng, ảnh"bác". Thầy giáo Thành, nay là cố chủ tịch nước có hình treo khắp nơi. Cờ đỏ, bảng vàng sơn phết, giăng mắc che kín mặt trời, làm vẩn đục không khí trong lành nơi miền biển mặn. Vườn hoa hoang phế, rạp hát bẩn thỉu vì phim ảnh VC và khối cộng sản tuyên truyền hạ cấp, rẻ tiền, ngày qua tháng lại với hình ảnh Ðiện biên Phủ, bắn máy bay Mỹ, Anh Trổi, chị Sáu... Tòa Hành Chánh Bình Thuận cũng như các Ty sở, Tiểu Khu ngày xưa là nơi chốn khang trang lịch sự, nay thành chỗ sống chung hòa hợp, hòa giải, trung lập giữa Cán Bộ từ miền Bắc vào và dòng họ Trư bát Giói. Mùi cám lợn, phân heo và thuốc lào, bốc ra tận đường Chu Mạnh Trinh, Hải Thượng nơi đài chiến sĩ Quốc Gia Việt Nam, khiến khách bộ hành phải nhanh chân rời xa vùng xú uế. Nghĩa trang QLVNCH cạnh QYV Ðoàn mạnh Hoạch, tượng Phật Bà Quan Âm lộ thiên trên triền đồi Lầu ông Hoàng bị san bằng, đập bỏ. Chợ lớn trên đường Gia Long vẫn xám đen màu khói từ đêm binh biến 2-4-1975, cầu sắt trên sông Cà Ty gãy nhịp nào ai ngó tới, dù vàng ngọc, tiền bạc và tài sản của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa để lại đã không cánh mà bay mất. Các nhà lều sản xuất nước mắm danh tiếng nhất nhì của Việt Nam từ thời tiền chiến tại Ðức Thắng, Bình Hưng, Lạc Ðạo sập tiệm vì ngày lại ngày, hàng hàng lớp lớp các xe vận tải, Molotova, GMC giải phóng đưa về Bắc, cho tới nước bổi cũng không chừa. Người người dửng dưng như kẻ lạ xa, mặc sâu bọ cầm quyền trị nước.

Nhớ lại chương trình tị nạn cộng sản của Bộ Xã Hội và chính sách an cư Việt kiều Kampuchia hồi hương năm 1970 của bác sĩ Quốc Vụ Khanh Phan quang Ðán, thời Việt Nam Cộng Hòa mà ngao ngán cho kinh tế mới của Việt Cộng tại Ðức Linh. Ðây là tên ghép của hai quận Tánh Linh và Hoài Ðức, tỉnh Bình Tuy thời Việt Nam Cộng Hòa. Vào năm 1961, Tổng Thống Ngô Ðình Diệm vì có tình cảm liên quan mật thiết với Bình Thuận khi giữ chức Tri Huyện Hòa Ða và Tuần Vũ tỉnh, hơn nửa có tình bạn sâu nặng với nhà giáo lão thành Hoàng Tỷ, nên Ông đã cấp một ngân khoản lớn đểạ cho đồng bào nghèo tại các quận Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vào khẩn hoang lập ấp tại vùng hoang sơn trù phú của huyện Tuy Ðịnh, sau này là quận Tánh Linh. Vùng đất mới được tách thành một quận mới, đó là Hoài Ðức, quận lỵ đóng tại Vỏ Ðắc. Ðây là vùng đất đỏ cao độ hoang vu của tỉnh Ðồng Nai Thượng xưa, được tách ra từ tỉnh Bình Thuận, nằm trong sơn hệ Di Linh - Lâm Ðồng, phần cuối cùng của rặng Trường Sơn, thuộc cao nguyên nam Trung Phần. Toàn vùng lúc đó chỉ là núi rừng hiểm trở, lắm ác thú như cọp, voi, heo rừng, mảng xà, rắn độc. Khắp nơi muỗi mòng, đỉa vắt sền sệt như bánh canh, đâu có thua gì vùng U Minh, Ðồng Tháp. Giang sơn của người thượng Roglai và Chàm, khí hậu ẩm thấp, phong thổ độc địa. Sông La Ngà lắm ghềnh thác, thường gây lũ lụt bất thường vì lưu lượng nước lên xuống không đều, ảnh hưởng của triền núi nơi sông chảy qua. Do trên mực độ dân số trong vùng rất thưa thớt, ngoại trừ Võ Ðắc, Lạc Tánh... là nơi các Trung Ðoàn thuộc SÐ18BB thường tạm đóng trong lúc hành quân.

Ngay khi có lệnh đi kinh tế mới, ba câu hỏi đã được đồng bào bàn tán lén lút: đi hay là ở lỳ, cưỡng lệnh sẽ ra sao và Ðức Linh là chốn nào nhỉ? Một số còn tiền, chạy vội cái giấy về đất cũ nơi các thôn xóm ven đô như Phú Lâm, Phú Hội, Lại An, Phú Long... Số khác may mắn hơn được xuất ngoại chính thức bằng tàu của Ðảng đậu trước Trường Nữ tiểu học năm 1977, sau khi đóng hết vàng, đô la và hiến nhà cửa cho cán bộ. Chiếc tàu này sau đó đến được trại tị nạn Pulau Bidong của Mã Lai Á, mang số 67, hầu hết là người Việt gốc Hoa giàu có của Bình Thuận. Những người không có tên đi kinh tế mới, thì phải đi nghĩa vụ lao động tại Ðức Linh, không phân biệt nam nữ, số tuổi hạn định 17-50, đó là chưa kể tới các nghĩa vụ thanh niên xung phong và nghĩa vụ quân sự, điều kiện ắt có để làm dân thường trú Phan Thiết có sổ gia đình, hộ khẩu và tem phiếu mua nhu yếu phẩm chỉ có bán tại cửa hàng quốc doanh.

Viết sao cho hết đây, nỗi thương tâm đau khổ trong những ngày cuối cùng của dịch kinh tế mới. Khắp nơi vang tiếng khóc, người người ủ rũ tựa hồn ma. Chống đối dữ dội lệnh trên, cũng vẫn là những kẻ được đảng nâng niu dụ dỗ buổi trước, đó là mấy bác phu xe, gánh mướn, các chị bán mẹt buôn bưng, anh thợ nề, chú dân biển... ở các khu phố xôi đậu ven đô buổi trước tại Ðức Long, Ðức Nghĩa, Phú Trinh, Hưng Long... Vì là thành phần vô sản chuyên chính và có công với đảng, nên các cán bộ khu, phường đều lánh né, mặc sức cho họ tru tréo, trong lúc sắp đi xa. Những người khác, nhất là thành phần bị gán bậy là ngụy quân, ngụy quyền, tư sản mại bản... thì biết phận, vặt vãnh bóp chắt những thứ còn lại sau cuộc phong trần, bán để có tiền mua đinh, lá, dây lạt và thức ăn khô dự trữ, để bắt đầu làm một cuộc hành trình mới như cha ông ta đã làm từ 300 năm trước, có điều lúc đó tiền nhân ra đi trong phấn khởi đầy lạc thú và hy vọng, còn giờ con cháu lên đường bởi cùm gông và bạo lực. Ðể gọi là ưu ái với dân, nhà nước tại Bình Thuận cấp tem phiếu mua thuốc phải trả tiền và như thế, lớp lớp người nối đuôi nhau trước nhà thuốc tây quốc doanh duy nhất, trước là nhà thuốc Phạm tư Tề, để mua vài thứ thưốc nội chế bằng võ cây đường bột, ký ninh nivaquine và những loại thuốc chống sốt rét nước độc tại chợ đen đều lên giá vùn vụt theo ngày cách mạng từ rừng vào tiếp thu Phan Thành, để không bị cảnh trâu sau uống nước bùn trâu trước, nhưng biết làm sao hơn?

Phút cuối bị súng đạn bó buộc phải xa rời nơi chôn nhao cắt rún, sao mà buồn quá đổi. Mười ba năm sống đời quân ngủ, ta đã đi cùng khắp mọi nẻo đường đất nước, từ biển lên rừng, chốn đồng quê cho tới thành thị, vẫn được trở về, dù về trong nỗi đau phải mất mát một phần thịt da của mẹ. Nay thì hết thật rồi, nhà xưa thành hoang phế, sự nghiệp nát hơn tương, thân nhân, bằng hữu... kẻ chết kẻ còn bị tù đầy, còn ta tuổi xanh chịu đời vất vưởng, bất lực. Chỉ còn biết lau nước mắt, cắn nát môi và uất nghẹn căm hờn, lần chót nhìn lại mảnh tường đổ của mái ấm vừa bị hạ, nếp sống cũ bị xóa mờ, chấp nhận làm kẻ lưu vong trên chính quê hương mình.

Một đêm không ngủ, một đêm náo loạn tập thể, kẻ ở người đi gạt lệ an ủi quyến luyến. Các gia đình"ưu việt" thuở trước tru tréo đảng và nhà nước không tiếc lời. Trưởng khu, chủ tịch, bí thư kể cả công an khu vực trốn mất suốt đêm, vì sợ bọn điên cùng đường trả thù. Cảnh tử biệt sinh ly sao mà buồn lắm thế.

2-ÐƯỜNG LÊN SƠN CƯỚC :

Năm giờ sáng ngày 17-7-1977, trong lúc nạn nhân chưa được hoàn hồn sau một đêm thức trắng thì máy nói, từ đỉnh cao của lầu nước, mở hết tốc độ âm thanh, tru tréo, ra rã thúc hối đồng bào sẵn sàng lên đường. Ðoàn thanh niên nam nữ 30-4 theo lệnh hối hả, khuân vác đồ đạc của các nạn nhân ra xe. Phường khóm, tổ khu phố lũ lượt kéo tới chúc mừng, có cả phóng viên, nhà báo, quả là một chuyện ngược ngạo lì lợm, kinh thiên động địa, chưa từng thấy trong lịch sử con người.

Ðúng 7 giờ sáng, tất cả xe cộ của chín phường trong thị xã, sau khi hốt đủ người, tập trung tại vườn hoa nhỏ đầu đường Gia Long. Năm Lý, Trung Tá Việt Cộng, chủ tịch ủy ban Kinh Tế Mới Ðức Linh, một người phát xít nhưng được hầu hết dân chúng bị đi Kinh Tế Mới rất ái mộ vì ông hiền từ, chân thật, còn có nhân tính con người, trong xã hội hết tình người, đã đọc diễn văn, cắt băng khánh thành rồi ban lệnh khởi hành. Ngay từ đó, hàng trăm tên du kích, công an hầm hầm áp tãi 10.000 người Phan Thiết và 2500 nạn nhân KTM miền Trung trốn trại, lên Kinh Tế Mới Ðức Linh để xây dựng cuộc đời mới trong thiên đàng xã nghĩa.

Ðoàn xe dài lê thê, hàng nối hàng, chạy vòng quanh vườn hoa nhỏ trước nhà sách Vui Vui, ngược chiều phố Gia Long, Ðồng Khánh, Trần quý Cáp với tốc độ chậm, để các nạn nhân được nhìn lại nơi chốn thân yêu lần chót, sau đó nhấn hết ga, mặc kệ đồng bào đang bị chèn ép sau thùng xe vận tải, khiến cho người, đồ đạc, gia súc chen chúc ngồi đứng, dở khóc, dở cười.

Phan Thiết - Ðức Linh cách xa 178 km, trừ đoạn đường 58 km trên quốc lộ 1 tráng nhựa tốt, số còn lại từ căn cứ 6 đến Võ Ðắc, gọi là Tỉnh lộ 1, chỉ là đường đất đá gồ ghề, nhiều chỗ cầu bị gẫy chưa được sửa chữa, phải chạy vòng dưới lòng suối sâu vô cùng nguy hiểm. Rừng lá tuy được khai quang, nhưng nhiều nơi xe vẫn chui luồn dưới những tàn cây mịt mù sương khói, không nhìn thấy mặt trời, khắp nơi vượn khỉ nhảy nhót trong lùm cây, đa đa gù vang đây đó. Một vài chú sóc tinh nghịch, khi biến, lúc hiện trước đầu xe như trêu chọc người phố thị. Bình Tuy đang mùa nắng cháy, hơi núi bốc nóng như thiêu, cộng với bụi đường đất đỏ, khiến cho ai cũng rã rượi, mệt nhừ vì khát nước, nhồi xốc, chen lấn và tủi phận.

Ðường bộ băng ngang thiết lộ tại ga Suối Kiết, muôn năm nằm ngủ quên dưới chân núi Ông mịt mù mây phủ. Từ đây đường bắt đầu lên dốc xuống đồi, nhiều quãng cây cối mọc be ra tới ngoài che kín lối đi. 12 giờ trưa cùng ngày, xe mới tới phố huyện Lạc Tánh, cũng là cửa ngõ vào thiên đàng Kinh Tế Mới Ðức Linh. Có tất cả 8 khu vực, 1 nằm bên nam sông là Vỏ Su, kế cầu Lăng Quăng, nối tiếp với Kinh Tế Mới Duy Cần dành cho đồng bào các quận 8, 9, 10 Sài Gòn và Trại cải tạo dân quân Huy Khiêm. Các khu vực khác đều ở bên bắc sông La Ngà, gồm có Ðồng Kho, Tà Pao, Bắc Ruộng 1, 2, Nghị Ðức, Mê Pu và Sùng Nhơn. Sự sắp xếp tùy theo đoàn xe tới sớm hay chậm, không cần biết khu, phường hay liên hệ gia đình, khiến cho nhiều hộ, cha mẹ ở nam, con cái tại bắc, nhưng đã đến đường cùng, đành cắn răng, bấm bụng, gạt nước mắt mà sống qua ngày.

Lối về đất chết đầy ghê rợn, cồn mây heo hút chắn lối đi, thêm trận mưa rừng đầu mùa, khiến mọi người càng đứt ruột. Xe đã vào truôn, đây là Ðồng Kho tre mây nối vòng tay lớn che mát đường đi, lố nhố khắp nơi từng dãy nhà sàn của bộ lạc Roglai xơ xác rã rời với cát bụi thời gian. Rồi thì bờ bụi, lau lách như muốn nuốt trửng con lộ đất đỏ ngoằn ngoèo đầy ổ gà, ổ voi, len lỏi hai bên vách núi cao ngất, dẫn tới thung lũng Ðoàn Kết, ủ rủ cheo leo dưới chân rặng núi Ông, đang chực chờ đón người Kinh Tế Mới. Nhiều xe lại bị tách rời, lại những bàn tay khẳng khiu đau khổ đưa vội, vẫy vẫy chào chào, hẹn ngày tái ngộ. Rồi Tà Pao, vùng đất úng thủy, mệt mỏi ngủ lỳ giữa tiếng thác ghềnh gào thét. Chiếc cầu sắt vừa mới được bắc ngang sông La Ngà, còn thơm mùi sơn đỏ, từ xe nhìn xuống thăm thẵm vực sâu, kẻ ở người đi ngàn trăm lưu luyến. Rừng núi cũng hân hoan đón người lạc bước nhưng dân địa phương, đa số là Quảng Ngãi thù ghét ra mặt, lòng dạ sâu hiểm hơn rắn rết, một ngụy hai ngụy, xin nước uống cũng không cho, làm cho ai nấy thêm não nùng cho thân phận con người bại trận, mất nước.

Huy Khiêm, Bắc Ruộng, Nghị Ðức, Mê Pu, Sùng Nhơn, Madogui, đèo Chuối trên quốc lộ 20, những địa danh một thời in mòn gót giầy của người lính trận Trung Ðoàn 43, SÐ18BB, nay thành chỗ giam giữ nô lệ Phan Thiết. Ngày nóng, đêm lạnh, gió núi, sương rừng se sắt buốt lịm thịt da. Sơn cốc bị đá xanh, mây xám, bụi đỏ miên viễn mịt mờ. Rừng già, rừng xanh chằng chịt, từ đây chúng ta thành sơn nhân, dã thú, ngày ngày ngắm mây trắng la đà ngâm câu"Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại" của Hàn Dũ khi bị đầy, cho bớt nhớ nhà... Bắc Ruộng 2, hay Tà Lễ 2 sau là thôn 3, xã Bắc Ruộng, quận Tánh Linh, lừng danh nhất trong 9 địa điểm giam cầm người Phan Thiết. Ðây là một làng chiến đấu cũ của Việt Cộng trước năm 1975, vùng oanh kích tự do nên quanh quẩn khắp nơi còn in dấu nhiều nền đất xám, bìm cỏ rậm rịp, đụn mối cao ngất, hầm chông hố bom còn nguyên vẹn chưa được lấp bằng. Thêm vào đó rừng sát đường nên ban đêm văng vẳng tiếng cọp gầm, voi rống, cú vạc tru tréo cầm canh, thay thế tiếng chó gà báo thức. Pháp trường cây xoài quéo, nơi ngã ba vào Nghị Ðức như còn ẩn hiện các hồn ma oan khiên Việt Nam Cộng Hòa bị Việt Cộng kết tội Việt gian, đem xử giảo rồi quăng xác xuống suối cho thú dữ ăn. Máu người hòa với nước mưa làm cho con lạch lúc nào cũng đỏ thắm không bao giờ cạn và đổi màu.

Nhiều dãy lều Kinh Tế Mới được các nghĩa vụ lao động dựng vội vã cho đạt chỉ tiêu, dọc theo hai bên đường cho tới bìa rừng. Không biết phải dùng cái danh từ gì để gọi nó cho hợp lý, vì láng cũng chẳng phải là láng mà nhà lại càng kỳ cục vì chỉ có mái lá lợp thưa thớt nên các tia nắng mặt trời ban ngày hay ánh trăng đêm tha hồ nằm bên trong thưởng thức. Thảm nhất là hàng cột con ốm yếu, khẳng khiu như kiếp cơ hàn của người dân Việt trong xã nghĩa, chỉ chực gãy mỗi khi gió rừng nổi giận. Chỉ có cái nền nhà là được khai quang, còn bên ngoài cỏ lau xanh ngắt. Ðồ đạc, người ngợm bị vứt bên đường, ỳ ạch khuân vác vào địa điểm vừa bốc thăm nhà, đã muốn ngất ngư chết xỉu. Tội nghiệp và thảm thê vô cùng là các gia đình quân công cán cảnh Việt Nam Cộng Hòa có chồng đang còn tù tội, chỉ có một góa phụ và mấy đấng trẻ nít, làm sao đúng tiêu chuẩn lao động sản xuất đây, vậy mà cũng bị hốt lên rừng để xây dựng kinh tế mới.

Mọi sự rồi cũng phải qua, dù thích hay không muốn. Lấy sức người sỏi đá cũng thành cơm, thì sá gì phần ruộng dành cho người Phan Thiết. Kinh Tế Mới lúc đó vẫn còn đắm chìm dưới biển lau sậy, tận hồ Lạc, dưới chân núi Bảo Ðại mù mịt hơi sương. Ngày tháng vùn vụt lướt nhanh, người người phờ phạc vì lao tác và thiếu dinh dưỡng. Dầm mưa đội nắng, suốt ngày ngâm mình trong bùn, sình, nước đục, cuốc, đắp, phát quang... quanh đi quẩn lại, từ 5 giờ sáng thức giấc theo tiếng kẻng gọi hồn cho tới tối mù mịt mới mò về nhà, cũng bấy nhiêu thôi. Tình cờ soi gương, thấy mình như đổi khác, ta đã thành sơn nhân, thành tên ma đói chập chờn vất vưởng trong cõi đời trầm thống não nùng. Thương sao là thương mấy bà, mấy cô em học sinh trung tiểu học năm nào, ngây thơ, bé bỏng, phải xếp bút nghiên theo cha mẹ đi lao động. Mệnh phụ, tiểu thơ, thanh tân, đài các, mắt phượng da ngà, chỉ sau một thời gian ngắn dầu dãi phong trần, tất cả biến thành cô gái lọ lem, quần áo rách rưới, da dẻ xám xịt gầy gò, khấp khểnh vác cây cuốc xã hội chủ nghĩa cao hơn đầu người, tức tủi thương cho phận hồng nhan đa truân, giữa buổi đất trời nổi cơn gió bụi, khóc thét khi đỉa vắt bám vào chân, đùi, nước mắt ràn rụa như không bao giờ vơi trên các khuôn mặt đẹp của một thời hoa bướm, nay chỉ còn hốc hác, héo mòn. Ðàn ông, thanh niên, thương gia, trí thức, dân lao động, làm biển... cũng đâu có sung sướng gì. Tất cả lết lê quằn quại trong địa nguc trần gian. Thần chết cũng đánh hơi bạo lực, bắt đầu đến với người Kinh Tế Mới. Thôi thì đủ thứ, từ chuyện phong thổ u uất ẩm thấp, nước uống thức ăn thiếu vệ sinh và chất bổ dưỡng, muỗi rừng ào ạt tấn công người gây bệnh thổ tả và các loại sốt chết bất đắc kỳ tử. Ngoài bệnh tật, còn chết vì đốn cây, chặt tre vô ý, đi ruộng không coi chừng bị rắn độc cắn cũng chết, đói quá ăn rau nấm bậy bạ trúng độc cũng chết, mìn chông hố bom lựu đạn ngày xưa để lại, thỉnh thoảng nổ bậy, ai bất hạnh trờ tới đúng lúc cũng chết.

Tang tóc, lầm than, khổ đau và nhục nhả vây kín người Phan Thiết bị hốt đi Kinh Tế Mới trong giai đoạn này. Hỡi ơi những năm tháng đời quân ngũ, ta đã chôn người thật nhiều, chôn xác bạn trên chiến trường vội vã, chôn xác thù giữa trận địa hoang liêu. Rồi qua nhiều lò cải tạo, nay đến miền kinh tế mới, lại tiếp tục lo việc chung thân cho bao nhiêu người, nào đồng đội, đồng bào, thân nhân, bằng hữu, tất cả chỉ có hai bàn tay, vài thanh tre, một cái hố thẳm, gói ghém một đời người bất hạnh trót sinh nhằm thế kỷ, ngủ yên trong manh chiếu rách hay chiếc mền tả tơi, bụng rỗng xương sống xương sườn đếm đủ. Tất cả chỉ là cát bụi,"sinh ký tử qui", thế gian là cõi không không miên trường. Chôn người đâu có gì khó? nhưng đứng nhìn xác chết lạnh tanh, với cảnh thống khổ biệt ly giữa biển nước mắt, nghe lời nỉ non kể lể của quyến thuộc người xấu số, để làm như một kẻ dửng dưng không hề có tình người như người Việt Cộng là một điều cười ra nước mắt:

"... sao thấy cay xè trên chót môi
rờ tay mới biết lệ mình rơi,
đời người, sinh tử là qui, ký
thì có gì đâu phải rã rời?"

Thế là hết, những người Phan Thiết một đời bỏ đi làm cách mạng, chỉ mong mang lại no cơm ấm áo cho đồng bào mình nhưng họ đã lạc lầm chạy theo chủ nghĩa ngoại lai, nhắm mắt tuân theo mệnh lệnh của cộng đảng quốc tế từ Mạc tư Khoa, Bắc Kinh, Hà Nội, mang thương đau về cho xứ sở, chốn chôn nhao cắt rún, cho thâm tình bằng hữu và mọi gia đình, để đổi lấy chút tem phiếu và quyền lợi thừa mứa do đảng và nhà nước vung vãi khi đã ôm ngập tới đầu. Ðói, chết, tuyệt vọng trùng trùng đã khiến cho người Phan Thiết quật cường trở lại. Thế là bất chấp du kích công an, đồn canh trạm gác, kiểm soát khắp nơi như thiên la địa võng, mọi người khăn gói bồng bế nhau trở về. Ðây là cuộc di tản cuối cùng của người Việt Phan Thiết sau ngày mất nước 30-4-1975.

Từ đó Phan Thiết trở thành quê hương của đói rách lầm than. Người người dửng dưng trước thời cuộc, nhắm mắt xuôi tay chấp nhận kiếp số. Phó mặc cho đảng và cán bộ đẩy đưa, xếp đặt, coi như mình không có hiện diện trong cõi đời này. Phố Gia Long, nay đổi thành Nguyễn Huệ, nhưng có mang cái tên gì chăng nữa thì đó cũng thành khu chợ trời công khai, người ta, kể cả cán bộ Bắc hồi kết Nam, mang những thứ của công chiến lợi phẩm hay mua rẻ hoặc móc ngoặc từ quốc doanh, nhà kho... ra bán cho phó thường dân với giá cắt cổ. Ðây cũng là chốn bàn bạc áp phe và toan tính chuyện vượt biên, vượt biển. AÔo rách bạc mầu vá víu chen lẫn với bò vàng cán ngố, cười đó rồi trở mặt đó, tuồng hát cứ quay tít trong sự lường gạt đấu trí với nhau để sống còn. Riêng các nạn nhân Kinh Tế Mới, bắt rồi thả, sáng nay đẩy lên xe về rừng, mai mốt đã thấy xuất hiện nơi phố chợ. Nhà tù chật cứng, tư cách gì bắt dân thường đi cải tạo, hơn nữa chỉ tiêu Tỉnh đã đạt được 150%, nhà của Họ cũng đã bị chiếm, thôi làm lơ cho yên việc. Từ đó quán cà phê mọc lên như nấm vẫn không đủ chỗ cho người thất nghiệp. Nhà ga xe lửa Phan Thiết, vườn hoa đường Nguyễn Hoàng, bến cá Cồn Chà... thành khách sạn miễn phí của người tay trắng từ Kinh Tế Mới chạy về. Ngày tỏa ra khắp nơi kiếm ăn, tối tụ lại ngủ chung tập thể khắp sân ga, hiên người, tắm nước sông, uống nước máy, biến thành con ma chơi, kẻ tha nhân ngay chính trên quê hương do Tổ tiên, cha ông và ngay bàn tay gầy dựng của mình.

3-RỦ NHAU BỎ XỨ MÀ ÐI VƯỢT BIỂN :

Người Bình Thuận đã bỏ xứ mà đi ngay khi giặc về đêm 18-4-1975, đa số là người Bắc di cư ở các phường ven biển như Thanh Hải, Phan Rí, Vĩnh Thủy, Vĩnh Phú và nhất là Bình Tuy. Từ những năm 1977 tới 1980, đảng Cộng Sản qua công an và hải quan"bán chính thức" tổ chức vượt biển để lấy vàng, dù trước đó, luật pháp của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, luật hình sự, điều 85, mục 2 và điều 88, xử phạt nặng kể cả công an, cán bộ cưỡng ép, xúi giục người trốn ra nước ngoài. Năm 1977 khởi đầu thử nghiệm chuyện xuất cảng người, mà đối tượng là giới tài phiệt Việt-Hoa, theo thời giá mỗi đầu người 10 lạng vàng y, trị giá 4000 đô la Mỹ. Cũng trong năm này, Phan Thiết có tổ chức đi bán công khai nhưng sau đó dẹp luôn vì ai cũng muốn đi chui, vừa rẽ lại an toàn.

Có một điều tréo cẳng ngỏng là Bình Thuận là nơi có nhiều cửa sông, bến cảng, ghe thuyền lớn và rất nhiều, nhưng hầu như có ít tầu ghe vượt biên, ngoại trừ số ra đi năm 1975. Tại trại Pulau Bidong, từ năm 1977 cho tới 1980, có tới mấy trăm tàu vượt biên, nhưng ghe Bình Thuận chỉ có chừng 5 chiếc, một là tàu đi bán công khai năm 1977, số còn lại là chiếc giã Nùng Phan Rí, I chiếc khác mang số Phan Rí là tàu quốc doanh và chiếc duy nhất có 32 người Phan Thiết, đi ngày 31-10-1978 tại bãi Thương Chánh, mang số PT1109, là tàu số 100 của trại Bidong, Mã Lai Á. Vào tháng 9/1978, lợi dụng Việt Cộng Bình Thuận no say ăn mừng, một chiếc tàu đánh cá hạng trung tại Bình Hưng, chở trên 200 người, công khai ra biển vào ban ngày. Chiếc tàu vượt biên may mắn trên lại gặp may mắn lần nữa khi tiếp cận với một chiếc tầu dầu Mỹ, tất cả được vớt và gởi tạm thời tại một trại tị nạn ở thủ đô Jakarta, Nam Dương.

Sau này, nhiều người Phan Thiết vượt biển kể rằng sở dĩ họ không dám vượt biên ở tỉnh nhà vì hầu hết những người có tàu thuyền tại địa phương rất gian xảo, đồng ý tổ chức lấy vàng, rồi đi báo công an, sau đó tiếp tục làm lại từ đầu. Nhưng theo dân biển, thì họ cũng bị người đi vượt biên gạt bằng cách chung vàng giả, chỉ có lớp vàng mạ ở bên ngoài, bên trong là chì, bạc hay là đồng. Tóm lại ai thật ai giả, không biết đâu mà mò. Nhưng có điều chắc chắn là từ sau năm 1980, gần 90% các chủ ghe tàu Bình Thuận đã đem tàu thuyền của họ ra đi không trở lại, mãi tới đầu năm 1990, khi Ðông Aạu, Liên Xô giã từ thiên đàng xã nghĩa, Việt Cộng đói quá chịu mở cửa đón Việt kiều khúc ruột xa khơi trở về, các chương trình đoàn tụ gia đình, diện con lai, HO... và trên hết quốc tế chấm dứt nhận người vượt biển, người Bình Thuận mới chịu chấm dứt mộng du học ngoại quốc bằng đường biển.

Lai thêm một năm buồn ly xứ, đêm nay trời Xóm Cồn bổng lạnh buốt, như những lời thơ thảm tuyệt của bạn già gửi từ Kinh tế mới Ðức Linh tới, báo cho biết đang khốn khổ vì cơ nghiệp gầy dựng tại núi rừng, đã bị cưởng đoạt công khai như năm nào bị bắt đi kinh tế mới.

"thư bạn gửi từ vùng kinh tế mới
đến tay ta hơn sáu chục ngày dài
giọng đùa cợt như thuở chớm đôi mươi
nhưng bút mực làm sao che nước mắt

Ðọc thơ bạn giữa đất trời cô độc
đêm nay buồn thổn thức với quê hương
thảm thương ơi bao bè bạn đoạn trường
giờ vẫn trả nợ trai thời tao loạn".


Xóm Cồn
Tháng 7-2007
Mường Giang

Thứ Năm, 12 tháng 7, 2007

"Lịch sử đã phơi bày - Vì quốc gia dân tộc, hãy mạnh dạn tiến lên"

(Ghi chú: Bài viết dưới đây là cái nhìn tổng hợp về cuộc chiến Quốc Cộng, từ bài viết của một nhà sử học Hànội trước 1975, bài Tổng luận sách Chung một bóng cờ của một đảng viên CS cao cấp MTGPMN, và một người nghiên cứu VNCH. Tài liệu xúc tích giúp đồng bào trong và ngoài nước nhận định về mối bang giao CSVN và Hoa Kỳ hiện nay. Xin đọc thêm bài viết "Chiến tranh Việt Nam - ván bài đã lật ngửa" và "Từ chống Mỹ cứu nước đến chống nước cứu Mỹ - Con đường chuyển hóa đất nước từ chuyên chính sang dân chủ )

Ông Trần Bạch Đằng qua đời ngày 16/4/2007. Ông là nhân vật lịch sử lão thành, công tội của ông, xin để lịch sử phán xét. Tuy nhiên, nghĩa tử là nghĩa tận, dù không đứng cùng chiến tuyến với ông, tôi xin viết đôi dòng để tưởng niệm một đứa con vừa trở về lòng đất mẹ, về những cống hiến của ông đối với dân tộc. Với tôi, những ai góp phần chấm dứt chiến tranh, giành độc lập thống nhất đất nước và đấu tranh vì dân chủ tự do cho đồng bào đều đáng được ngưỡng mộ.

Ông TBĐ vừa nằm xuống, hôm sau cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt có dành cho phóng viên Xuân Hồng đài BBC một phỏng vấn đặc biệt về ngày 30/4 với chủ đề kêu gọi hòa giải dân tộc. Xuân Hồng cho biết, trong cuộc nói chuyện, ông VVK có nói đến các nhân vật như ông Nguyễn Hộ và ông Trần Bạch Đằng. Rất tiếc, không hiểu vì lý do gì, không thấy đài BBC phát thanh phần này.

Hầu như ai cũng biết Nguyễn Hộ, con người khí tiết: suốt cuộc đời gần 60 năm đứng dưới ngọn cờ cộng sản, đấu tranh cho dân tộc. Khi công thành danh toại, những người CS hưởng biết bao đặc quyền đặc lợi…Nhưng khi thấy được Đảng CS không mang lại ấm no hạnh phúc, dân chủ tự do cho nhân dân, đất nước vẫn nghèo nàn lạc hậu, Nguyễn Hộ từ bỏ đảng khước từ phú quý, trở về vùng quê Phú Giáo, với bộ y phục quần xà lỏn đen, áo tay ngắn bạc màu.

Còn Trần Bạch Đằng, ít ai biết đến, ngoại trừ một số trí thức, tư sản, thanh niên sinh viên học sinh Sàigòn hồi trước thập niên 1960. Ông là đảng viên CS cao cấp bị lên án có tư tưởng hữu khuynh, đã bị thất sủng từ trước 1975. Có lẽ ông Kiệt đã yêu cầu đài BBC ngưng phát thanh những lời của ông về TBĐ. Phải chờ khi đậy nắp quan tài, mồ yên mả đẹp, rồi thử xem người đời luận định như thế nào về người đã chết? Khi đó, ông V.V. Kiệt mới nói rõ và nhiều hơn về TBĐ, mà cá nhân tôi cho là một người có khả năng thiên phú, biết chớp thời cơ và tạo ra thời thế thuận lợi để thực hiện hoài bảo của mình (và cũng của dân tộc)

Người dân Sàigòn, khoảng giữa những năm 1980, mới biết nhiều đến TBĐ nhờ quyển tiểu thuyết hấp dẫn của ông “Ván bài lật ngửa”. Tôi đã mượn tựa đề này để viết bài “Chiến tranh Việt Nam: Ván bài đã lật ngửa” và “Từ chống Mỹ cứu nước đến chống nước cứu Mỹ - Con đường chuyển hóa đất nước từ Chuyên chính đến Dân chủ”. Sau đó, trên Cánh Én Online có bài viết của ông Lê Tùng Minh “Trần Bạch Đằng người Cộng sản đa tài, nhưng bất đắc chí cho đến khi nhắm mắt lìa đời”. Tác giả bài viết có đề cập đến cá nhân tôi: “Đầu tháng 5-2007, trên mạng lưới internet “Tin Paris” có xuất hiện bài “Chiến tranh Việt Nam - Ván bài đã lật ngửa” của ông/bà Lê Quế Lâm (?) mà nội dung chính là viết về Trần Bạch Đằng, nhưng trong đó không biết tác giả nghiên cứu từ nguồn tài liệu nào, hay nghe ai nói, chẳng lẻ Trần Bạch Đằng đã kể cho tác giả nghe?”.

Xin thưa: tôi là (ông) LQL, tôi không có cái may mắn được gặp Trần Bạch Đằng. Những gì tôi viết được trích từ bài phỏng vấn Trần Bạch Đằng của phóng viên Clayton Jones (Báo The Christian Science Monitor, Vol 80, Feb 1-7, 1988) và Đặc phái viên Steven Erlanger của hảng tin New York Times Service (Báo Herald Tribune International trích đăng ngày 30/1/1989). Cùng các bài viết của TBĐ và Thượng tướng Trần Văn Trà trong quyển “Chung một bóng cờ (Viết về MTDTGPMN)” do NXB Chính trị Quốc gia (Hànội) phát hành năm 1993. Bài viết của TBĐ và Hồ Hữu Nhựt, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh Viên Sàigòn 1966-1967 (Tuổi trẻ Sàigòn Mậu Thân 1968, NXB Trẻ TP/HCM 2003).

Bài viết của ông LTM giúp bạn đọc ở hải ngoại biết nhiều hơn về Trần Bạch Đằng như tựa đề bài viết của ông. Xin được tóm lược những điểm chính: Năm 1947, mới 22 tuổi, TBĐ đã là Bí thư Xứ đoàn Thanh niên Cứu quốc Nam bộ, được Trần Văn Giàu, Bí thư Xứ ủy đánh giá là “một cán bộ lãnh đạo thanh niên đầy triển vọng”.

* Tháng 10/1963, tình hình Sàigòn sôi động, có tin Mỹ sẽ đảo chính Ngô Đình Diệm. Đặc khu ủy CS Sàigòn-Giađịnh tức T4 đang cần một cán bộ lãnh đạo có khả năng chuyên trách về trí thức, học sinh-sinh viên, để đáp ứng tình hình mới. Thường vụ TƯC (R) xét thấy không ai có khả năng hơn TBĐ, dù Nguyễn Văn Linh -bí thư TWC không muốn, nhưng cả ban Thường vụ TWC và Võ Văn Kiệt bí thư T4 đề nghị, nên TBĐ được cử làm Phó Bí thư T4 kiêm Phó ban Tuyên huấn TWC. Từ đây bộ phận trí vận và thanh vận (bao gồm học sinh-sinh viên) do TBĐ trực tiếp lãnh đạo. Ông bám trụ ở Sàigòn để chỉ đạo phong trào đấu tranh. Ông có thể huy động hàng chục ngàn sinh viên-học sinh của Sàigòn-Chợlớn-Gia định bãi khóa biểu tình lôi kéo theo thợ thuyền bãi công, tiểu thương bãi thị…

Nhiều cán bộ trưởng thành trong phong trào học sinh-sinh viên Sàigòn do TBĐ chỉ đạo như Nguyễn Văn Vịnh, Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, Hồ Hữu Nhựt, Lê Hiếu Đằng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Minh Triết.v.v.. Chính TBĐ đã trực tiếp chỉ đạo việc tổ chức đưa những trí thức lớn trong “lực lượng thứ ba” vào chiến khu để thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam như Ls Trịnh Đình Thảo, Gs Nguyễn Văn Kiết, Bs Dương Quỳnh Hoa, Ks Trương Như Tảng, Gs Bùi thị Mè, Nhà văn Thanh Nghị…

* Cuối năm 1969, Lê Duẫn triệu TBĐ ra Hànội báo cáo tình hình miền Nam và Sàigòn. Lúc bấy giờ vùng “nông thôn giải phóng” thuộc quyền kiểm soát của MTGPMN gồm ¾ nông thôn Nam Bộ, đã bị liên quân Việt Mỹ tái chiếm và bình định gần hết. Từ Hànội trở về, với tư cách Bí thư Khu ủy T4, TBĐ triệu tập hội nghị Bình Giã 5, dưới sự chủ tọa của Nguyễn Văn Linh –Phó bí thư TWCục. Lúc này Phạm Hùng (Bảy Hồng) phụ trách Bí thư. Trong báo cáo chính trị, TBĐ nêu hai vấn đề về tư tưởng có tầm chiến lược trong công tác lãnh đạo giải phóng đô thi:

- Một là, trong nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản thực dân mới của Mỹ ở miền Nam, bản chất của giai cấp công nhân đã biến chất, không còn đóng vai trò tiền phong, lãnh đạo phong trào cách mạng ở đô thị như trước năm 1945 nữa. Chủ lực quân của phong trào cách mạng ở đô thị hiện thời, qua thực tiễn đấu tranh từ 1955 đến nay đã cho thấy: học sinh-sinh viên, thanh niên các tầng lớp nói chung không phân biệt giai cấp, tôn giáo là quân chủ lực của phong trào cách mạng đô thị. Trí thức và tôn giáo yêu nước là lực lượng liên minh rất quan trọng trong công cuộc giải phóng đô thị.

- Hai là, tư tưởng chiến lược “lấy nông thôn bao vây thành thị” của Mao Trạch Đông, đã lỗi thời đối với tình thế cách mạng giải phóng của miền Nam hiện nay! Nông thôn giải phóng của chúng ta hiện đã nằm trong sự kiểm soát của địch, làm gì có nông thôn giải phóng để bao vây thành thị? (cả hội trường vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt đối với luận điểm này)

TBĐ bị Nguyễn Văn Linh phê phán “đã phạm sai lầm hữu khuynh rất nghiêm trọng về mặt tư tưởng lãnh đạo của Đảng”, cụ thể như:

- Một là, coi thường vai trò tiền phong và lãnh đạo của giai cấp công nhân!

- Hai là, coi trọng vai trò của trí thức, sinh viên học sinh và tôn giáo, thậm chí đưa “thành phần không có lập trường kiên định” lên vai trò xung kích.

- Ba là xa rời “tư tưởng chiến lược” có tính kinh điển trong cách mạng giải phóng miền Nam: “lấy nông thôn bao vây thành thị”, cũng có nghĩa là không triệt để chấp hành đường lối cách mạng giải phóng miền Nam của Đảng”.

TBĐ phản bác: “Tôi nói thật lòng với các đồng chí có mặt trong cuộc họp bất thường không theo nguyên tắc dân chủ này rằng: mấy hôm nay tôi đã suy xét cặn kẽ những lời phê phán của đồng chí Mười Cúc, và cuối cùng tôi khẳng định trên tinh thần khách quan là, tôi không phạm sai lầm như những lời phê phán nặng mùi Bảo thủ Cực tả và Giáo điều chủ nghĩa của đồng chí Mười Cúc! Tôi quyết bảo lưu ý kiến này và sẽ kháng nghị lên cả hai cấp lãnh đạo: Ban Chấp hành Trung ương Đảng và TƯC/MN”. Phát biểu xong, TBĐ tự động bỏ cuộc họp trước khi hội nghị bế mạc. Sau đó, theo đề nghị của Nguyễn Văn Linh, Thường vụ TWC quyết định hạ chức TBĐ từ Bí thư xuống Phó bí thư Thứ hai. Nguyễn Văn Linh thay Đằng giữ chức Bí thư, Mai Chí Thọ -Phó bí thư thứ nhất. Đến đầu năm 1972, TBĐ bị mất luôn chức Phó bí thư thứ hai, bị rút về TWC để kiểm thảo tư tưởng hữu khuynh đã phạm trong thời gian lãnh đạo Đặc khu ủy T4. (Hết phần trích dẫn bài viết: TBĐ một người CS đa tài…)

Đọc bài viết của ông LTM đến đoạn này, khiến tôi hồi tưởng lại quá khứ: Năm 1972, khi Trần Bạch Đằng bị hạ bệ, thư ký riêng của ông là Sáu Trung -Phó tiến sĩ Sử học, sợ bị liên lụy nên ra hồi chánh và tiết lộ một vài chi tiết như trên. Tôi còn nhớ, Sáu Trung cho biết khi tháp tùng TBĐ ra Hànội hồi năm 1970, ông có tiếp xúc với Vũ Kỳ -thư ký riêng của ông Hồ Chí Minh và được kể về tham vọng của ông Trường Chinh. Trong một phiên họp Bộ Chính trị, Trường Chinh đã nói với họ Hồ: “Nay Bác đã già, Bác nên nghỉ ngơi để tụi cháu làm”. HCM đã phải xuống nước: “Bác đã cống hiến cuộc đòi cho cách mạng, ngày nào bác còn làm việc được thì để bác làm”. Ngày HCM qua đời, Trường Chinh vận động ráo riết với tòa đại sứ Liên Xô và Trung Cộng, ông chạy tới chạy lui hai nơi này liên tục để tìm hậu thuẫn. Trong tuần tang lễ họ Hồ, Trường Chinh cùng Lê Duẫn, Phạm Văn Đồng và Tôn Đức Thắng đứng bốn góc phò linh cữu HCM. Trong lúc ba nhân vật kia mặc y phục đen cúi đầu thì Trường Chinh với bộ đồ lãnh tụ màu vàng nghiêm trang ngước đầu lên tiếp các phái đoàn đến nghiêng mình trước thi hài HCM. Nhưng cuối cùng HCM để lại di chúc mật, giao cho Lê Duẫn tiếp tục lãnh đạo Đảng và Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch nhà nước. (LQL, Việt Nam Thắng và Bại, 1993, Tr.554/55 & 566)

Ông Lê T. Minh là một nhà sử học Hànội trong thập niên 1960, những điều ông biết về TBĐ rất phong phú vì dựa vào tài liệu lưu trữ của đảng CSVN và những chứng nhân từng làm việc với TBĐ. Từ những hiểu biết đó, ông kết luận: “Trong khi nhắm mắt lìa đời, chắc chắn ông TBĐ còn mang theo nhiều niềm ân oán, suốt trong cuộc đời đi theo CS? Chẳng cần nói đến cao vọng làm lãnh tụ Cộng sản Cấp tiến. Chỉ nói đến ý muốn xuất bản một cuốn sách do ông nghiền ngẩm từ trong kháng chiến, mà cũng không đạt. Đó là cuốn “Vai trò của Thanh niên Tiền phong trong Cách mạng tháng Tám 1945”, đã bị ban Tuyên Huấn và ông Tố Hữu cho vào kho “lưu trữ bản thảo có vấn đề chính trị” bởi vì theo quan điểm lịch sử của đảng CSVN: Thanh niên Tiền phong là đoàn thể do đế quốc Nhật dựng lên. Ân hận thay! Biết rõ ràng là đồng chí ủy viên Bộ Chính trị kiêm Trưởng ban Tuyên huấn –ông Tố Hữu đã bóp méo lịch sử mà Trần Bạch Đằng vẫn phải im hơi lặng tiếng, để cho đứa “con tinh thần” bị chết oan uổng(!)”.

Theo cá nhân tôi, quyển sách TNTP đề cập trên và cao vọng làm lãnh tụ cộng sản cấp tiến (nếu có) của TBĐ chỉ là hai điểm trong sự nghiệp chưa thành của ông đối với đất nước. Ông không may mắn như Đặng Tiểu Bình của Trung Quốc, dù cả hai là những đảng viên CS đa tài và có tư tưởng hữu khuynh. Đặng được Mao Trạch Đông trọng dụng, giữ chức tổng bí thư đảng. Dù bị thanh trừng ba lần song Đặng vẫn còn cơ hội để ngoi lên địa vị lãnh đạo làm nên nghiệp lớn. Còn TBĐ vào tuổi 40 đã là Bí thư đảng ủy một thành phố lớn nhất nước -thủ đô miền Nam. Với tài ba, ông vận động mọi giới đồng bào tham gia cách mạng, tất cả “đều là anh hùng, hơn nữa những bậc đại anh hùng”. Thời gian đó tháng 1/1966 ông viết bài “Ra khỏi ngõ gặp anh hùng”. Ông cho rằng “Cái tên đó vẫn chưa thật đúng. Bởi vì, ngay chưa ra khỏi cửa ngõ, cũng đã gặp anh hùng rồi”. Ông tin tưởng “Lương Sơn Bạc ngày xưa chỉ có một Võ Tòng, một Lâm Xung và cộng chung chỉ có 108 người mà dựng nên một cơ đồ. Chúng ta có hàng triệu người như vậy. Việc gì chúng ta không làm được, thắng lợi nào chúng ta không đạt tới, kẻ thù nào có thể đương cự nổi với chúng ta?” (Chung một bóng cờ, Tr.841-846)

Một con người như vậy, nhưng TBĐ chưa bao giờ được cất nhắc dù chỉ là ủy viên Ban chấp hành Trung ương đảng. Sau đó lại bị hạ bệ, dù mới 46 tuổi và không còn cơ hội ngoi lên được nữa. Ông trở thành anh hùng mạt lộ, cũng như Đại /tướng Võ Nguyên Giáp, “đại anh hùng” vang danh thế giới ở trận Điện Biên Phủ 1954. Ở tuổi 74 (năm 1986), ông vẫn nhận chức Bộ trưởng Kế hoạch hóa gia đình, khiến người đời chế nhạo bằng bài vè: “Ngày xưa, Đại tướng cầm quân, Ngày nay Đại tướng cầm quần chị em”. Binh lính thuộc quyền thì “Ngày xưa chống Mỹ, chống Tây. Ngày nay, chống gậy ăn mày áo cơm”, hoặc “Đầu đường Đại tá vá xe. Cuối đường Trung tá bán chè đậu đen. Giữa đường Thiếu tá rao kem”. (Nguyễn Ngọc Phách, Việt Sử Đương đại qua 200 câu vè bất hũ). Còn biết bao anh hùng lỡ vận khác như anh Trần Thanh Hoài -nguyên chiến sĩ An ninh khu ủy cùng vợ là bác sĩ hoạt động ở chiến trường khu 5, sau 1975 được điều vào chiến trường Tây Nam. Ngày nay Hoài sống bằng nghề đạp xích lô…Ông Trần Xuân Tiến -tham gia chiến dịch Điện biên Phủ, có mặt trong Đại đội chủ công tấn công cứ điểm Khe Sanh, được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt cơ giới, tám lần bị thương. Người dũng sĩ nay đã về già và sống bằng nghề sửa xe đạp. (Phim Chuyện Tử Tế của đạo diển Trần Văn Thủy). Một khi đất nước bước vào thời mạt vận thì con dân dù tài ba đến đâu cũng chìm theo vận nước!

Quan niệm “Cộng sản cấp tiến” của Trần Bạch Đằng như thế nào?

Trong bước thoái trào, các nước CS có những lãnh tụ cấp tiến, chủ trương đổi mới để sống còn như Gorbachev ở Liên Xô, Đặng Tiểu Bình ở Trung Quốc, Nguyễn Văn Linh ở Việt Nam…Con người như Linh từng bị TBĐ nói thẳng “nặng mùi bảo thủ cực tả và giáo điều chủ nghĩa”, nên không ai ngạc nhiên khi ông ta trở cờ sau này, làm cố vấn cho tân lãnh tụ bảo thủ Đỗ Mười. CS tiếp tục giữ quyền độc tôn lãnh đạo đất nước thực hiện chuyên chính vô sản. Trong tình thế đó, hai nhân vật tích cực ủng hộ đổi mới là Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện và TBĐ cũng chịu bó tay. Bs Viện từng có câu nói để đời: Tư bản man rợ còn chuyên chính vô sản là “chuyên chính vô học”.

Còn Trần Bạch Đằng vì không có thực quyền, ông chỉ bày tỏ quan điểm của mình đối với công cuộc cải cách ở hai nước CS đàn anh với đặc phái viên Steven Erlanger, để gợi ý những người chủ trương đổi mới rút kinh nghiệm. Ông cho rằng về cơ bản, Gorbachev “đang đi đúng đường nhưng có một vài hiện tượng khác như việc thẩm định lại lịch sử thì không được hoan nghênh ở VN”. Ông đưa ra trường hợp Stalin, hiện nay đang bị đổ cho đủ thứ tội trạng. Ông ca ngợi chính sách canh tân của các lãnh tụ CS ở Bắc Kinh tỏ ra “khôn ngoan hơn vì họ cố gắng chấm dứt ảnh hưởng của chủ nghĩa Mao nhưng không lên án con người lịch sử của Mao. Bắc Kinh mở rộng cửa giao thương với nước ngoài, họ công nhận phải có một số nông dân và thương gia giàu có trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Họ đánh giá cao những kỹ thuật tân tiến của Tây phương và tiếp thu nó, họ mời gọi ngoại quốc đầu tư. Họ không thực hiện những giáo điều của Mao nhưng họ không nguyền rủa Mao. Và những gì Gorbachev làm đều hoàn toàn trái ngược lại”. (Báo đã dẫn trên)

Nhận xét trên đây của TBĐ cho thấy ông là người biết hành xử khôn khéo để tạo sự đoàn kết và giữ thể diện dân tộc. Được biết, khi Trung Quốc đưa “bọn bốn tên” ra tòa xét xử. Họ đổ tội cho Mao, chính Giang Thanh -vợ Mao đã khai: “Mọi việc tôi làm đều do Mao bảo tôi thực hiện. Tôi là con chó của ông ấy, ông bảo tôi cắn gì tôi cắn nấy”. Đặng Tiểu Bình có lý do nói đến sai lầm tả khuynh, độc đoán của Mao. Một sai lầm về chính trị mà Đặng nhận xét “không phải nhỏ”, song ông nhắc nhở các Ủy viên Trung ương đảng: “Khi viết về sai lầm của Mao, chúng ta không nên thái quá, bằng không chúng ta sẽ mất tín nhiệm đồng chí Mao trạch Đông và điều này có nghĩa là mất tín nhiệm Đảng và Nhà nước ta”. Do đó, Đại hội đảng CSTQ lần thứ XII (9/1982) đã kết luận: “công tội của Mao bằng nhau”. Họ xác nhận lý tưởng của Mao vĩ đại nhưng vì đường lối sai lầm, nên phải “phi Mao” để thực hiện lý tưởng Mao. Điều đó cho thấy, giới lãnh đạo Bắc kinh cũng có ý muốn đặt đất nước lên trên đảng, nên họ sẳn sàng phi Mao (Mao là biểu tượng Đảng và Nhà nước CSTQ) để thực hiện lý tưởng Mao (xây dựng TQ trở thành cường quốc số một thế giới).

Giáo sư Nguyễn Văn Kiết, cựu Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Giáo dục Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam đã nhận xét: “Trần Bạch Đằng là một cán bộ lãnh đạo biết kết hợp giữa thực tiễn và lý luận. Ông không sùng bái “chủ nghĩa giáo điều” mà cũng không tôn thờ “thực tế chủ nghĩa” nên ông đã được nhiều trí thức và học sinh-sinh viên mến phục, và tình nguyện dấn thân theo sự chỉ đạo của ông, và chính ông cũng dấn thân hành động như một chiến sĩ thực thụ”. (Xem bài viết đã dẫn của Lê Tùng Minh). Nói đến ‘chủ nghĩa giáo điều” người ta nghĩ đến Liên Xô. Nói đến “chủ nghĩa thực dụng hay thực tế”, người ta nghĩ đến Trung Quốc với câu nói bất hủ của Đặng Tiểu Bình: “mèo trắng, mèo đen, miễn cứ bắt được chuột là được”. Không sùng bái Liên Xô cũng không tôn thờ Trung Cộng, TBĐ không phải là người CS vọng ngoại. Vậy quan điểm “Cộng sản cấp tiến” của ông như thế nào?

Trần Bạch Đằng không ưa chủ nghĩa giáo điều, Brezhnev đã ủng hộ CSBV thôn tính miền Nam, thành lập nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Đó không phải là chủ truơng của MTGPMN. Sau đó, Brezhnev lại tạo thêm khó khăn cho LX khi đưa quân sang Afghanistan và ủng hộ các nước đàn em xâm lăng các nước láng giềng. TBĐ từng nói: “chiến tranh xâm lược phải theo vết xe định mệnh của chủ nghĩa thực dân cũ” (phải sụp đổ). Còn Trung Quốc, nhờ biết trở cờ đúng lúc: chống LX, liên minh với khối Tây phương và Nhật để tìm sự hỗ trợ thực hiện kế hoạch “bốn hiện đại hóa”. Họ còn dùng đòn ma giáo, kiểu quân tử Tàu “phi Mao để thực hiện lý tưởng Mao”. Từ chiêu thức này sinh ra cụm từ đồng nghĩa “kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa”. Thực chất, TQ chỉ muốn trở thành cường quốc bậc nhất thế giới, để dễ dàng thực hiện mục tiêu lâu đời của họ là bành trướng chủ nghĩa Đại Hán (và đại đồng). Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ, triều đình nhà Nguyễn không còn nhận chiếc ấn “An Nam Quốc vương” của thiên triều phương Bắc. Chẳng lẽ, hy sinh biết bao xương máu đánh thắng bọn thực dân đế quốc phương Tây để trở lại làm chư hầu phương Bắc hay sao?

Quan điểm Cộng sản cấp tiến của TBĐ tất nhiên phải dựa vào sức mạnh dân tộc. Trong công cuộc đổi mới, ông tin rằng nhóm canh tân sẽ đạt thắng lợi vì họ là những người đã trực tiếp lãnh đạo cuộc chiến giải phóng miền Nam trước đây. Ông có cơ sở để tự tin. VN đã vượt qua các khó khăn trong bước đầu “đổi mới” là nhờ ở đâu? Xin đọc bài viết của Đặng Phong hiện là Trưởng ban lịch sử kinh tế của Viện kinh tế (CS) Việt Nam: “Phải nhớ rằng từ sau 1975 chúng ta đã có một nửa nước là xứ sở của nền kinh tế thị trường. Gần như toàn bộ miền Nam không chỉ kế thừa nền kinh tế thị trường trước đó mà còn được tiếp sức từ nguồn lực nước ngoài và Việt kiều với khoảng vài trăm triệu USD mỗi năm. Tôi gọi điều này là “quyền uy của lòng dân”.

Ông Đặng Phong giải thích thêm: “VN tuy đã trải qua nhiều cuộc cải tạo XHCN mạnh tay nhưng nền kinh tế tự do như chợ búa, quán xá, các cơ sở sản xuất tư nhân, hệ thống tư thương xưa gọi là phe phẩy vẫn luôn tồn tại bên cạnh nền kinh tế quốc doanh. Nó được ví như cái bướu lạc đà. Tuy nó “chia bớt” nguồn dinh dưỡng từ cơ thể kinh tế XHCN để tồn tại nhưng khi quốc doanh gặp khó khăn như thiếu hàng hóa, đói nguyên liệu, không mua không bán được…thì cái bướu đó lại nuôi sống cơ thể xã hội. Đây cũng là lý do góp phần giải thích tại sao khi mô hình kinh tế cổ điển khủng hoảng thì toàn bộ nền kinh tế và toàn bộ đời sống xã hội ở các nước Đông Âu bị khủng hoảng trầm trọng, còn ở VN thì nhẹ nhàng hơn”. (Đêm trước đổi mới: Uy quyền của lòng dân, Nhật báo Tuổi trẻ, TP/HCM 15-12-2005)

Vai trò của Thanh niên Tiền Phong trong Cách mạng tháng Tám 1945

Quyển sách của TBĐ hiện nằm trong kho “lưu trữ bản thảo có vấn đề chính trị” của Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng CSVN. Đây là “vấn đề chính trị” giữa những người CS bảo thủ và cấp tiến. Dưới con mắt những người CS bảo thủ, Cách mạng tháng 8/1945 khởi đầu tiến trình lịch sử của Đảng CSVN dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân theo chủ nghĩa Mác-Lê-Mao, đã đưa cách mạng VN đến thành công trong suốt hơn 60 năm qua. Họ phủ nhận vai trò của Thanh niên Tiền phong, vì lẽ nó không phải là sản phẩm của Liên Xô hoặc Trung Quốc; nó là một đoàn thể do đế quốc Nhật dựng lên.

Trái lại những người CS cấp tiến ở miền Nam, điển hình là TBĐ thì cho rằng TNTP đóng vai trò lớn trong phong trào Việt Minh giúp CS giành được chính quyền và kháng chiến chống Pháp. Từ 1960, giới thanh niên trí thức VM cũ thành lập Mặt trận Giải phóng miền Nam, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đến thắng lợi. TBĐ khẳng định: “Mặt trận không ngừng ngang ý nghĩa giai đoạn… Những gì Mặt trận thực hiện đều khắc sâu vào vào lịch sử dân tộc, đồng thời đều trực tiếp gợi sáng tạo cho sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam Hòa bình, Thống nhất, Độc lập, Dân chủ và Giàu mạnh” (Chung một bóng cờ, Tr.870).

Không biết TBĐ viết gì về “Vai trò của Thanh niên TP trong Cách mạng tháng 8/1945”… Nhưng qua ghi chép của những nhân chứng lịch sử, họ thừa nhận phong trào TNTP phát triển mạnh từ khi Nhật đảo chính Pháp, chính phủ Trần Trọng Kim ra mắt quốc dân hồi tháng 4/1945. Cụ Trần Trọng Kim đặt niềm tin vào giới trẻ và thành lập Bộ Thanh niên, nhằm tổ chức, huấn luyện họ để làm nồng cốt bảo vệ nền độc lập quốc gia và kiến thiết đất nước. Dưới sự lãnh đạo và khích động lòng yêu nước của Bộ trưởng Thanh niên Phan Anh, các giới thanh niên trí thức nô nức tham gia tổ chức Thanh niên Tiền Phong. Đây là tiền thân của quân đội quốc gia mà cụ Trần Trọng Kim dự định sẽ thành lập: một quân đội có tinh thần yêu nước và khí thế mạnh mẽ. Tổ chức TNTP qui tụ nhiều trí thức trẻ đầy thiện chí như Bs Nguyễn Thị Sương, Ks Kha Vạn Cân, các Ls Thái Văn Lung, Nguyễn Vĩnh Thạnh, các Bs Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thủ…cùng hàng vạn thanh niên tham gia với lời thề “hy sinh cho Tổ quốc, phục vụ dân tộc, trong giai đoạn bảo vệ nền độc lập và kiến thiết xứ sở” (Nam Đình, Hồi ký lịch sử: 1923-1964, Nhật báo Thần Chung, Sàigòn, 1965)

Giữa tháng Tám/1945, Nhật đầu hàng. Để củng cố sức mạnh nói chuyện với Đồng minh sắp vào tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật, cụ TTK kêu gọi các viên chức nhà nước và các đảng phái quốc gia “thống nhất lực lượng sau lưng chính phủ để bảo vệ nền độc lập, đừng để bị tròng ách nô lệ một lần nữa”.

Hưởng ứng lời kêu gọi của thủ tướng Trần Trọng Kim, hàng chục vạn người tham gia ủng hộ chính phủ ở Hànội và Sàigòn. Bất thần cán bộ Việt Minh chiếm lấy diễn đàn cuộc mít tinh, báo tin Nhật đã đầu hàng, đả đảo chính phủ Trần Trọng Kim là bù nhìn tay sai của Nhật. VM tuyên truyền là “Việt Nam đã được đồng minh giúp đỡ sẽ độc lập hoàn toàn”. Đồng bào còn được rĩ tai “VM lên cầm quyền, dân không phải đóng thuế nữa, được hoàn toàn tự do và có nhiều hạnh phúc” do đó ai cũng tin theo, ngay cả những đội Thanh niên TP do chính phủ lập ra cũng ngã về VM. (Nam Đình, Báo đã dẫn). Thanh niên TP lại hô hào đồng bào kéo xuống đường ủng hộ, giúp Việt Minh chiếm được chính quyền dễ dàng. Ngày 2/9/1945, HCM đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 6/9/1945, lực lượng hoàng gia Anh do tướng Gracey cầm đầu đến Sàigòn giải giới quân Nhật. Đến nơi Gracey thảo luận ngay vấn đề Nam bộ với Cédile -vừa được De Gaulle cử làm Ủy viên Cộng hòa Pháp ở Nam bộ và Bs Phạm Ngọc Thạch đại diện VM. Gracey yêu cầu VM giải giới lực lượng Dân quân cách mạng, giao cho Nhật trách nhiệm ổn định trật tự để hai bên Pháp Việt đàm phán. Cuộc đàm phán bất thành vì lập trường đôi bên trái nghịch nhau. VM đòi độc lập và thống nhất đất nước, còn Pháp chủ trương tái lập chủ quyền sau đó mở cuộc trưng cầu dân ý để biết ý dân Nam bộ muốn thống nhất hay muốn tự trị. Các đảng phái quốc gia thì lên tiếng phản đối VM thông đồng với giặc Pháp phản bội quyền lợi dân tộc.

Điểm quan trọng là tinh thần yêu nước của giới trí thức, thanh niên, sinh viên học sinh Nam bộ rất cao. Họ hấp thụ văn hóa Pháp đề cao thể chế dân chủ tự do của Pháp nhưng chống chính sách thực dân của Pháp. Họ ít khi tham gia các đảng phái chính trị, chỉ tranh đấu cho nền độc lập của đất nước và mong muốn VN có một địa vị ngang hàng với Pháp. Đây là thành phần nguy hiểm nhất đối với tham vọng quyền lực của HCM và đảng CSVN. Pháp sẳn sàng thương lượng và trao trả độc lập cho những người quốc gia tây học yêu nước. Họ có đầy đủ điều kiện để phát triển đất nước theo mô hình dân chủ tự do. Đó là lớp lãnh tụ mới của hầu hết các nước thuộc địa Á Phi châu trước ngưỡng cửa độc lập trước và sau Thế chiến II. Chính vì thế, CS không muốn thương lượng với Pháp.

Các cuộc xung đột vũ trang giữa VM và Pháp tiếp diễn. Ngày 21/9/1945, Cédile ra lịnh tái chiếm các công sở và khám lớn Sàigòn để tái lập chủ quyền của họ. Trong đêm 22 rạng 23/9/1945 Ủy ban hành chánh Nam bộ rút ra khỏi Sàigòn. VM kêu gọi tản cư “ai không rời Sàigòn là Việt gian”. Dân chúng Sàigòn rút về nông thôn tham gia kháng chiến. Nhân cơ hội này, lực lượng Tự vệ cuộc của Nguyễn Văn Trấn và VM sát hại khá nhiều những phần tử đối lập. Chiến tranh Việt Pháp thực sự bùng nổ.

Ngày 23/9 trở thành ngày Nam bộ kháng chiến. VM khôn khéo dành cho giới thanh niên trí thức những chức vụ của Ủy ban hành chánh kháng chiến, vừa nhằm mục đích tuyên truyền lôi cuốn nông dân vừa cô lập người trí thức yêu nước, không cho khuynh hướng quốc gia phát triển. Nhờ đó hầu hết những bộ mặt trí thức Nam bộ lúc bấy giờ đều có mặt trong kháng chiến: Phạm Văn Bạch, các kỹ sư Kha Vạn Cân, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt, các ông Trần Văn Văn, Trần Văn Hương, Ca văn Thỉnh, Nguyễn Văn Chì, Lê Văn Chí, Dược sĩ Phạm thị Yên, các bác sĩ Nguyễn văn Thủ, Nguyễn văn Hưởng, Phạm ngọc Thạnh, kiến trúc sư Huỳnh tấn Phát, các luật sư Thái văn Lung, Phạm ngọc Thuần, Nguyễn thành Vinh…

“Chống Mỹ cứu nước” – HĐ Paris 1973 – “Chống nước cứu Mỹ”

Quyển lịch sử về “vai trò Thanh niên Tiền phong trong Cách mạng tháng 8/1945” bị ngâm tôm, TBĐ lại tìm cách viết về đứa con của nó: Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Như mọi người đều thấy, đến cuối năm 1964, chế độ Miền Nam gần như sắp sụp đổ vì những rối loạn chính trị sau ngày đảo chính TT Ngô Đình Diệm, bắt buộc HK phải trực tiến can thiệp. Lúc bấy giờ, MT đã kiểm soát ¾ lãnh thổ MN với 1/3 dân số. Sau đó, dù chính quyền VNCH được sự yểm trợ của trên 600 ngàn binh sĩ đồng minh song vẫn không thể tái chiếm nhiều vùng đất do Việt Cộng tạm chiếm. Chiến lược “lấy nông thôn bao vây thành thị” của Mao Trạch Đông kể như thành công, vì thế CS chuyển sang bước thứ hai đưa bộ đội từ rừng núi đồng bằng tiến ra chiếm lĩnh thành phố giành toàn bộ chính quyền.

Trước khi mở ra trận Tổng công kích-Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968, TBĐ đã thông báo ý định này với Đại sứ Bunker. Hoa Kỳ án binh bất động trong những ngày đầu của trận tổng công kích, có phải họ đã “tương kế tựu kế” để thực hiện kế “điệu hổ ly sơn” (dụ kéo cọp rời núi)? Chiến lược của Mao đã thất bại, CSBV phải tạm thời xoay sang phương cách khác, chấp nhận đàm phán theo đề nghị của HK. Họ chủ trương “vừa đánh vừa đàm” để từng bước củng cố lại lực lượng, tiếp tục chiến lược “lấy nông thôn bao vây thành thị”. Quả thực, lúc bấy giờ TT Trung Cộng Chu Ân Lai đã trách Hànội vì nghe lời Liên Xô nên “vội vã chấp nhận đàm phán với Mỹ”.

Như ông Lê Tùng Minh tiết lộ ở phần trên, TBĐ phản bác chủ trương này, nên bị Nguyễn Văn Linh kết tội “không triệt để chấp hành đường lối cách mạng miền Nam của Đảng”. Thêm vào đó, trong hòa đàm Paris, MTGP đưa ra đề nghị: “Công việc miền Nam do nhân miền Nam quyết định, không có sự can thiệp của bên ngoài”. Nhờ đó, đã khai thông các bế tắc đưa cuộc đàm phán đến thành công. HĐ Paris ra đời, HK rút hết quân khỏi MN, nhân dân MN sẽ quyết định công việc nội của họ thông qua cuộc tổng tuyển cử tự do có quốc tế giám sát. Sau đó, theo tinh thần điều 15 của HĐ: “Việc thống nhất nước VN sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên cơ sở bàn bạc và thỏa thuận giữa miền Bắc và miền Nam VN, không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào và không có sự can thiệp của nước ngoài”. Như vậy, mục tiêu đề ra của MTGPMN hồi năm 1960 sắp thành tựu.

Nhưng, cái bất hạnh của dân tộc là giới lãnh đạo CS ở Hànội và TT Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Văn Thiệu đều không chấp nhận. Trong khi giới trí thức miền Nam hầu như đều ủng hộ việc giải quyết chiến tranh bằng con đường đàm phán và sau đó là HĐ Paris 1973. Lúc TBĐ bị hạ bệ cũng là thời điểm “thành phần thứ ba” ở miền Nam ra đời. Đây là những trí thức có tinh thần dân tộc, mong muốn hòa bình, nên họ chống Thiệu, không ưa Mỹ và dĩ nhiên không chấp nhận CS. Từ khi HĐ Paris ra đời, lực lượng thứ ba càng phát triển mạnh qua các hoạt động hòa giải hòa hợp dân tộc do một nhân sĩ Phật giáo cầm đầu -Giáo sư Vũ Văn Mẫu, sau đó được sự ủng hộ của Luật sư Nguyễn Văn Huyền -một nhân sĩ Công giáo. Luật sư Trần Ngọc Liễng thành lập “Tổ chức đòi thi hành HĐ Paris” được sự tán đồng của ông Triệu Quốc Mạnh, chánh biện lý Sàigòn.

TT Thiệu cho rằng những ai đấu tranh cho hoà bình đều là CS hoặc bị CS giật dây. Lập luận trên làm cho sức mạnh và uy tín của CS càng lên cao: nơi nào cũng có cộng sản. Linh mục Nguyễn Ngọc Lan đã mĩa mai: “Nói chuyện ‘sặc mùi cộng sản’ thì nhiều lắm, kể sao cho siết. Anh này sặc mùi CS. Cuốn sách kia sặc mùi CS. Tờ báo nọ sặc mùi CS. Cuộc hội họp này nữa, vụ tranh đấu kia nữa đều sặc mùi CS. Nhưng trong quảng đại quần chúng đố ai mà biết được cái mùi CS nó như thế nào? Rất khó mà biết cái mùi CS…Nhưng quảng đại quần chúng thì biết khá chắc chắn cái gì thường không bị mang tiếng là sặc mùi cộng sản. Thuốc phiện chẳng hạn không hề có mùi CS…Buôn lậu không sặc mùi CS. Hối lộ tham nhũng không sặc mùi CS” (Chống Mỹ cứu nước như người Việt Cộng sản, Báo Tin Sáng ngày 27-8-1971).

Ba mươi năm sau (cuối 2004), Lý Quý Chung -cựu dân biểu VNCH thuộc thành phần thứ ba, viết quyển “Hồi ký không tên” nhằm giúp người đọc hiểu rõ thêm về một số sự kiện xảy ra tại miền Nam trước 1975. Ông xác nhận thành phần thứ ba là “người Việt đứng giữa” không đứng về phía chính quyền Sàigòn nhưng cũng không đứng về phía cộng sản…Song “nếu có chính phủ ba thành phần theo hiệp định Paris thì thành phần thứ ba sẽ liên kết với MTGPMN chứ dứt khoát không liên kết với chính quyền VNCH”. Vì chế độ VNCH “không có khả năng bảo vệ chủ quyền đất nước, lại là chế độ hiếu chiến, không hề tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho đất nước”.

Tác giả và Nhà xuất bản Trẻ nhờ TBĐ viết lời giới thiệu. Ông Đằng chấp nhận và cho biết “hầu hết sự kiện cùng nhân vật được nhắc trong hồi ký, bản thân tôi có biết, có tiếp xúc, thậm chí, về sự kiện, có chịu trách nhiệm với cương vị -trong thời gian ấy- người phụ trách phong trào cách mạng Thành phố Sàigòn. Cho nên, những gì anh Lý Quý Chung kể lại, ít nhiều tôi hiểu -hiểu cả phần chiều sâu”. TBĐ khen tập hồi ký là nổ lực của tác giả, tự đặt mình trong vận nước, hướng về phía trước, hướng về những khám phá, hướng về nghĩa vụ, thật đáng quý”. Ông kết luận “không thể đòi hỏi lớp trí thức Sàigòn như Lý Quý Chung “phơi phới sống với chế độ mới”, là chuyện không thể có. Tuy nhiên ông kỳ vọng “độc giả sẽ còn đọc nhiều hồi ký nữa của nhiều nhân vật có mặt lúc này lúc khác giữa lòng Sàigòn. Những tư liệu ấy -nếu được đọc với sự phê phán và lòng bao dung- sẽ thêm cho pho sử hiện đại nước ta các khía cạnh không phải là không thú vị. Cách mạng Việt Nam đa dạng. Góp vào bức tranh đa dạng ấy những đường nét riêng, tôi xem đó là cống hiến của Lý Quý Chung”.

Ngoài việc mong mõi có thêm nhiều hồi ký của giới trí thức Sàigòn để đóng góp vào pho sử hiện đại nước nhà. Trong lời giới thiệu, TBĐ còn nhắc lại phong cách“dữ dội”của Nguyễn Ngọc Lan: “khi Nguyễn Văn Thiệu phản đối khẩu hiệu chống Mỹ cứu nước của Mặt trận Giải phóng, Nguyễn Ngọc Lan bấy giờ còn là linh mục, đã “hiến kế” cho tổng thống, đảo ngược khẩu hiệu của Mặt trận giải phóng thành “chống nước cứu Mỹ” (Đọc Hồi ký không tên, Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng 8-2004). TBĐ thường tâm sự: ông rất khâm phục câu nói này. Có lẽ do chính ông gợi ý linh mục Nguyễn Ngọc Lan “hiến kế” cho con chiên là TT Thiệu. Đây là ý nghĩ thâm thúy của cán bộ trí vận Trần Bạch Đằng và tiến sĩ Triết học Sorbonne Nguyễn Ngọc Lan, vì khẩu hiệu “chống Mỹ cứu nước” không phải của MTGPMN mà là của Đảng CSVN.

(Xin đọc Phần thứ tư trong quyển “Bốn mươi lăm năm hoạt động của Đảng Lao động Việt Nam” của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương (NXB Sự Thật, Hànội, 1975) có tựa đề: Toàn dân kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà (1965-1975) Tr. 134, viết như sau: “Phong trào thi đua chống Mỹ, cứu nước có ý nghĩa rất sâu sắc. Ở đây, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản của nhân dân ta phát triển đến cao độ, bởi vì, đúng như Hồ Chủ tịch đã nói: “nhân dân ta chiến đấu hy sinh chẳng những vì tự do, độc lập của riêng mình, mà còn vì tự do, độc lập chung của các dân tộc và hòa bình trên thế giới”. (Ghi chú: Hồ Chí Minh, “Về nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước”, NXB Sự thật, Hànội, 1967, tr. 57). Trang 135 viết: “Cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước đã chứng tỏ sức sống vĩ đại của chế độ xã hội chủ nghĩa tốt đẹp và của chính quyền chuyên chính dân chủ nhân dân ở miền Bắc nước ta”)

Hànội quyết tâm chống Mỹ cứu nước để giải phóng miền Nam, nên Trần Bạch Đằng và Nguyễn Ngọc Lan “hiến kế” tổng thống miền Nam xử dụng khẩu hiệu “chống nước cứu Mỹ” để làm đảo ngược ý đồ của CSBV. Từ 1967, phong trào phản chiến ở Mỹ ngày càng phát triển mạnh mẽ, vì thế khi nhậm chức tổng thống hồi tháng Giêng 1969, Nixon cam kết sẽ chấm dứt chiến tranh VN mang lại hòa bình danh dự để rút quân về nước. HĐ Paris 1973 đã đáp ứng đòi hỏi trên…Song Hànội chỉ muốn “đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào” để thôn tính miền Nam, trong lúc Nixon đang rối trí vì vụ Watergate. Đây là cơ hội để Thiệu “cứu Mỹ” bằng cách thi hành nghiêm chỉnh hiệp định Paris như yêu cầu của Nixon trong thư gởi Thiệu ngày 21/5/1973: “Trong các thư từ chúng ta trao đổi trước ngày ký kết hiệp định Paris,và ngay trong buổi họp tại San Clemente, tôi đã bày tỏ quyết tâm của tôi ủng hộ VNCH và thi hành bản hiệp định….Tôi xin lập lại rằng ước vọng duy nhất của chúng tôi là muốn thấy bản hiệp định được thi hành nghiêm chỉnh và thắt chặt tình liên đới với VNCH. Tôi không tin rằng Ngài muốn tôi phải ra trước dân chúng để giải thích sự bế tắc cuộc thương thuyết hiện nay ở Paris. Điều này chắc chắn sẽ đưa tới sự cắt đứt ngân khoản cho Lào và Cambốt và cuối cùng là miền Nam Việt Nam”. (Nguyễn Tiến Hưng, Hồ sơ Mật Dinh Độc lập, Tr. 326-27).

Thi hành HĐ Paris, ông Thiệu không những cứu Nixon, giúp kế hoạch hòa bình ở VN thành công, cứu MTGP mà còn cứu nhân dân miền Nam. Thử hỏi lúc bấy giờ, HK đã bắt tay với TC và hợp tác với LX, thì thế lực nào có thể đe doạ sự sống còn của MN? Chính quyền hai miền Nam Bắc sẽ thương thảo việc thống nhất nước nhà theo tinh thần HĐ Genève 54 và Paris 73. Rất tiếc, TT Thiệu không “cứu Mỹ”, trái lại còn chủ trương “Bốn không” làm cho kế hoạch hòa bình của Nixon thất bại. Tháng 8/1974, Nixon từ chức, tám tháng sau đến lượt Thiệu và cuối cùng Miền Nam lọt vào tay CS.

Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam

Ks Trương Như Tảng, Ủy viên Trung Ương MTGPMN và là bộ trưởng Tư pháp Chính phủ CMLTCHMN đã bày tỏ sự bất mãn khi CSBV chiến thắng MN: “Hàng trăm ngàn người của quân đội và chính phủ Sàigòn đã bị bắt giam vào các trại cải tạo. Hàng triệu thường dân đang sinh sống ở Sàigòn và nhiều nơi khác tại miền Nam VN bị cưỡng bách phải bỏ nhà cửa, tài sản để đi về các vùng kinh tế mới xa xôi hẻo lánh, một quyền lực sắt thép bao trùm khắp nước Việt Nam”. Tảng chua chát cho biết thêm:

“lúc thắng trận cũng là lúc Cộng sản bắt đầu loại bỏ Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Trong buổi tiệc đơn sơ được tổ chức vào năm 1977 để chính thức giải thể Mặt trận Giải phóng Miền Nam, Đảng Cộng sản và chính quyền Hànội không thèm cử đại diện đến tham dự. Đó là cử chỉ miệt thị xem thường những quy tắc về chủ nghĩa quốc gia mà những người Việt “thân” Cộng đã hết lòng tôn sùng, một chủ nghĩa mà các quốc gia trong cộng đồng Thế giới tự do đã dốc hết lòng và bằng mọi giá để giữ lấy nó” (Trưong Như Tảng, Vietcong Memoirs)

Những ray rứt trên biểu lộ ngày càng rõ nét đối với những người miền Nam vốn ăn ngay nói thẳng, một số buồn tình sinh ra tiêu cực hoặc rút lui như bà Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, ông Nguyễn Hộ. Cuối cùng nếu không tự ý thì cũng được mời về hưu, ngồi chơi xơi nước để suy ngẩm tình đời. Đó là số phận của số cán bộ lão thành lớp mùa Thu 1945, số tham gia MTGP 1960 của Nguyễn Hữu Thọ hoặc Liên minh của Trịnh Đình Thảo năm 1968 cùng một số trí thức sau 1975. Trong số này phải kể tới Tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo, Gs Châu Tâm Luân và một số nhân vật thuộc Lực lượng thứ ba…Sau nhiều năm chân thành cộng tác với CS, cuối cùng cũng tìm đường ra đi.

Riêng TS Nguyễn Xuân Oánh, trong bài viết đăng trên báo Xuân 1980, đã nói lên tâm tư của những trí thức Sàigòn đã cố phấn đấu ở lại: “không phải để tìm cho bản thân một cuộc sống vật chất phủ phê hoặc danh vọng nào đó, mà vì lòng yêu nước”. Sau 5 năm mòn mỏi trong thiếu thốn và bạc đãi, nhân có Nghị quyết 6 đề ra chính sách kinh tế mới của Võ Văn Kiệt, ông khẩn khoản yêu cầu Nhà nước CS ba điều: Một là -cho họ có môi trường thuận lợi để làm việc; Hai là -được dùng “hai tiếng anh em” với giới trí thức miền Bắc và thứ ba -An tâm về sự hội nhập của con em họ vào xã hội mới”. (Tiếng nói người trí thức: Hành trình mới của anh em chúng ta, Báo Đại Dân tộc, TP/HCM, Xuân Canh Thân 1980).

Những cựu kháng chiến không thể thụ động mãi trước tình trạng phân hóa, nghèo đói, lạc hậu của đất nước. Năm 1988 họ thành lập “Câu lạc bộ kháng chiến” và lên tiếng tố cáo Đảng CS đã lừa gạt nhân dân miền Nam và cướp công kháng chiến Nam bộ. Trần Văn Giàu -lý thuyết gia Mác xít nổi tiếng cùng thời với Tito và Đặng Tiểu Bình đã khẳng định: “Chính đảng CS là nguyên nhân làm cho đất nước điêu tàn” và “đã đến lúc người dân miền Nam phải làm cách mạng thực sự mới hy vọng theo kịp thế giới vào đầu thiên niên kỷ thứ ba này”.

Câu lạc bộ kháng chiến TP/HCM qui tụ những thành phần nồng cốt của MTGPMN trước đây. Họ là những người thực sự yêu nước, đã tham gia kháng chiến ngay từ những ngày đầu khi thực dân Pháp đặt chân trở lại Sàigòn. Họ gia nhập Đảng CS và tham gia Mặt trận Việt Minh vì tin tưởng ông HCM là một nhà ái quốc chân chính đứng ra lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Đến đầu thập niên 1960, ông HCM vẫn còn khoác chiếc áo dân tộc để phát động cuộc chiến giải phóng miền Nam. Chính vì đó nhiều người yêu nước hăng hái tham gia MTGPMN, dốc toàn lực vào cuộc kháng chiến nhằm “đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm, thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi và tiến bộ, ban bố quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tự do hội họp, tự do nghiệp đoàn, tự do đi lại và các quyền tự do dân chủ khác”. (Trích “Tuyên ngôn của Mặt trận DTGPMN” trong quyển “Thắng lợi có tính thời đại và cuộc đấu tranh trên mặt trận đối ngoại của nhân dân ta” của Học viện Quan hệ Quốc tế, NXB Sự Thật, Hànội, 1985, Tr. 89)

Ngày 18/12/1989, trong buổi họp mặt kỷ niệm ngày thành lập MTGPMN, Huỳnh Văn Tiểng cho rằng: “Nếu không có chiêu bài giải phóng miền Nam, cuộc kháng chiến đã không thành”. Sở dĩ “giới trí thức, tư sản dân tộc, nhân sĩ tiến bộ, Công giáo, Phật giáo yêu nước ra chiến khu tham gia MTGP vì có chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ, tham gia chính phủ Cách mạng Lâm thời vì có thủ tướng Huỳnh Tấn Phát, là những người Miền Nam”. Theo Tiểng “người dân Nam bộ đã bỏ nhà cửa tham gia Mặt trận vì họ nghĩ rằng Mặt trận không phải là một chiến thuật cục bộ, không phải là một sách lược tạm thời mà là chiến lược cách mạng lâu dài”.

Để chống lại những lập luận trên, nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Mặt trận GPMN (1990), Tổng bí thư Đảng CSVN Nguyễn Văn Linh đứng ra làm cố vấn, chỉ đạo việc soạn thảo tập sách Chung một bóng cờ “viết về cuộc chiến đấu anh hùng của quân và dân ta, sự lãnh đạo sáng suốt tài tình về đường lối, phương pháp và nghệ thuật cách mạng của chủ tịch Hồ chí Minh và của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ròng rã 21 năm lịch sử”. Nhân cơ hội này, TBĐ khước từ làm cố vấn “Câu lạc bộ kháng chiến” để nhận trách nhiệm làm chủ biên bộ sách trên.

Có lẽ vì lý do trên, mà những “đồng chí kháng chiến cũ” đã chê trách “Trần Bạch Đằng ngày nay không còn là TBĐ trong hồi kháng chiến nữa”. Họ đặt câu hỏi phải chăng ông không dám tham gia cái Câu lạc bộ mang tính đối kháng sự lãnh đạo của Đảng CSVN? Giờ ông chỉ biết cầu an hưởng thụ, như bài viết đã dẫn của ông Lê Tùng Minh. Họ đâu có biết, nhờ với tư cách chủ biên tập sách kể trên, ông được viết phần Tổng luận. Đây là dịp bằng vàng để TBĐ xen vào quyển sách những nhận xét riêng của mình về miền Nam mà ông là nhân chứng lịch sử có mặt ở đó suốt nửa thế kỷ tính đến năm 1993.

Phần chữ viết nghiêng là nguyên văn bài viết của TBĐ được trích trong phần Tổng Luận Chung Một Bóng Cờ về Mặt trận DTGPMN (từ trang 849 đến 871) do NXB Chính trị Quốc Gia Hànội phát hành năm 1993.

Chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ và chế độ quốc gia của Ngô Đình Diệm

Sau Hiệp định Genève, nước Việt Nam tạm chia làm hai miền với hai chính thể khác nhau. Ở Nam vĩ tuyến 17, người Mỹ thay chân người Pháp, chế độ thực dân cũ biến dạng thành chế độ thực dân mới…với tham vọng biến miền Nam Việt Nam thành một tủ kính trưng bày sự phồn vinh và nền tự do kiểu Mỹ ở Đông Nam Á, đồng thời xây dựng một tiền đồn ngăn chận phong trào cách mạng dân tộc, dân chủ khắp khu vực…Mỹ hy vọng các mục tiêu trên sẽ đạt được nhờ công thức: lực lượng thân Mỹ tại chỗ cộng với viện trợ Mỹ.

Chính sách thực dân mới, trong bước triển khai đầu, đã có trong tay một số tiền đề và điều kiện khá thuận lợi. Lợi dụng khí thế dân tộc đang bừng bừng sau 9 năm kháng chiến, cùng lòng căm ghét chế độ vua chúa bù nhìn mà Bảo Đại là đại diện cuối cùng, Mỹ Diệm giương chiêu bài “đả Thực, bài Phong”. Ngô Đình Diệm con bài được Mỹ ‘đánh bóng” cũng hội tụ một số ưu thế: từng giữ cương vị Thượng thư Bộ Lại của triều đình Huế, vì chỉ trích một vài chính sách của Pháp và triều đình mà bị thất sủng. Ông thuộc một gia đình tiếng tăm -cha của Diệm, Phụ chính đại thần Ngô Đình Khả đã không chịu ký tên vào văn bản đòi truất phế vua Thành Thái do Pháp chủ trương. Trong hơn chục năm, Diệm như ẩn dật, được giới thượng lưu cả nước tôn là “chí sĩ”. Về cá nhân, Diệm không vợ con, rượu chè, sống khắc khổ, có trình độ vừa Tây học vừa Nho học. Diệm lại được người em sắc sảo về chính trị là Ngô Đình Nhu trợ lý. Tất nhiên Bảo Đại cùng số thế lực do Pháp đào tạo không phải là đối thủ của Diệm.

Chiến dịch xóa bỏ Bình Xuyên, đánh vào lực lượng vũ trang các giáo phái, tiến công nhóm vũ trang Đại Việt ở Trung bộ, thanh trừng quân đội thân Pháp…cho phép Mỹ Diệm kiểm soát công an, cảnh sát và hệ thống quân sự, kiểm soát hầu hết lãnh thổ miền Nam. Diệm ban hành một loạt chính sách nhằm hình thành tầng lớp tư sản nội địa. Trước hết, cấm các công ty Pháp và quốc tịch Pháp hoạt động xuất nhập khẩu, hạn chế ngành nghề người Hoa, phục hồi điền chủ ở nông thôn, cho phép người di cư khai khẩn rừng, thành lập đồn điền…Nền kinh tế Nam Việt Nam sau chiến tranh được Mỹ viện trợ, phát triển khá sôi nổi. Đồng bạc và giá cả ổn định, sản xuất một số ngành, nội ngoại thương phát triển. Kế hoạch thay thế Pháp cơ bản kết thúc với việc truất phế Bảo Đại và Diệm trở thành tổng thống của Đệ nhất Cộng hòa”.

Các hoạt động chống thực dân Pháp, bù nhìn Bảo Đại, tay sai Pháp, các phần tử lưu manh, quân phiệt Bình Xuyên, lãnh chúa Hòa Hảo, Cao Đài…trong một lúc, đã thỏa mãn ít nhiều tình cảm của quần chúng và Diệm được thừa nhận như một người theo chủ nghĩa quốc gia.

Bối cảnh khu vực của Việt Nam Cộng hòa bấy giờ khá ổn, có đồng minh cùng tính chất ở Nam Hàn, Đài Loan, Thái Lan, Philippin, và Mỹ giương cái ô Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) che chở. Tâm lý “sợ Cộng sản tràn xuống Đông Nam Á” đã chừng nào cố kết các chính quyền thân Mỹ tại đây. Diệm biết lợi dụng cơ hội chứng minh “gương mặt dân tộc” của mình khi ông ta tham dự hội nghị Băngđung.

Qua nhận xét trên, đồng bào miền Bắc và các thế hệ trẻ hiện nay có thể hiểu rõ thế nào là chế độ thực dân mới của Mỹ. Nó khác thực dân cũ, vơ vét tài nguyên, bốc lột người dân thuộc địa để phục vụ mẫu quốc Pháp. Trái lại, với thực dân mới, Hoa Kỳ mang tài nguyên từ chính quốc sang viện trợ cho VN cùng với ý tưởng dân chủ tự do. Điều mà TBĐ gọi là “cái tủ kính trưng bày sự phồn vinh và nền tự do của Mỹ” đã phản ảnh lời tuyên bố của thượng nghĩ sĩ John F. Kennedy với hội “Người Mỹ bạn của Việt Nam” hồi tháng 5/1956: Hoa Kỳ coi Việt Nam “như là một thí điểm của nền dân chủ ở Á Châu”. Ông nhấn mạnh thêm “VN còn là sự trắc nghiệm về ý thức và quyết tâm của HK”. Do đó “nếu MNVN sụp đổ vì CS, vì rối loạn chính phủ, vì nghèo đói hoặc bất cứ lý do nào khác, thì HK phải chịu trách nhiệm và uy tín của HK ở Á châu chắc chắn sẽ chìm sâu”.

Mỹ là nước hùng mạnh nhất hành tinh về vật chất. Họ lại có truyền thống viện trợ giúp các nước vươn lên sau chiến tranh, dù bạn hay thù. Đó là nét đặc trưng “có một không hai” của Mỹ. Khi Thế chiến II chấm dứt, HK đã chi một số tiền khổng lồ giúp các nước từng là kẻ thù của họ là Đức, Ý Nhật. Nhờ đó, chỉ trong hai thập niên, kinh tế của Nhật và các nước Tây Âu phát triển gần ngang hàng với Mỹ. HK đã giúp Nam Triều Tiên sau chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) và nay họ giúp Nam VN sau chiến tranh chống thực dân Pháp (1946-1954). Và khi chiến tranh VN chấm dứt năm 1973, HK cũng cam kết giúp VN nhiều tỉ Mỹ Kim để giúp hàn gắn vết thương chiến tranh.

Nhìn lại thế kỷ trước, năm 1847, Karl Marx khẳng định trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”: “Chế độ tư bản đã lỗi thời, nhất định sẽ diệt vong và nhường chỗ cho chủ nghĩa xã hội văn minh”. Giai cấp công nhân được Marx tuyển chọn là lực lượng lãnh đạo cuộc Cách mạng XHCN. Ông đưa ra khẩu hiệu “Vô sản các nước đoàn kết lại”. Giai cấp công nhân có sứ mạng lịch sử: “là lực lượng đào mồ chôn CNTB, tiến hành đấu tranh giai cấp, dùng bạo lực thủ tiêu nhà nước tư sản và thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản”.

Một thế kỷ sau, chủ nghĩa tư bản vẫn chưa diệt vong, trái lại HK trở thành cường quốc tư bản mạnh nhất thế giới. Thế giới lại diễn ra cuộc đối đầu lịch sử giữa Hoa Kỳ -đứng đầu Thế giới Tự do và Liên Xô -đứng đầu Hệ thống XHCN thế giới mà tiền thân là QTCS. Địa bàn tranh chấp là các nước cựu thuộc địa, đang phát triển. Khối CS ở thế tấn công nhằm mục đích “tăng cường” hoặc “mở rộng” hệ thống XHCN thế giới. Còn TGTD ở thế tự vệ phòng thủ. Điển hình là chiến tranh Triều Tiên: quân CS miền Bắc, hai lần vượt vĩ tuyến phân ranh 38, tràn ngập lãnh thổ phía Nam, bị Mỹ và liên quân LHQ đẩy lùi về sát biên giới Trung Cộng. HK có khả năng thống nhất Cao Ly, nhưng họ không làm, lại ký hiệp ước đình chiến đưa Triều Tiên trở lại nguyên trạng cũ: hai nước Triều Tiên.

Sau hiệp định Genève, nước Việt Nam tạm chia làm hai miền với hai chính thể khác nhau. Miền Nam VN với chế độ thực dân mới của Mỹ sẽ trở thành một đất nước tương tự như Tây Đức trước kia hoặc Nam Hàn. Cái “tủ kính” mà TBĐ mô tả chính là mô hình một nước VNCH phồn vinh, theo chủ nghĩa quốc gia, có tinh thần dân tộc, với thể chế tự do dân chủ. Đó là “thí điểm của nền dân chủ ở Á châu” của Hoa Kỳ. Nó đối nghịch với mô hình một nước VNDCCH theo chủ nghĩa CS, có tinh thần quốc tế vô sản, với một thể chế độc đảng chuyên chính. Đó là mô hình của Liên Xô do ông HCM xây dựng. Theo Gs Tôn Thất Thiện, từ năm 1923, ông HCM đã được tôn phong “cominternchik”, có nghĩa là một cán bộ ưu tú, trung kiên thượng thặng của QTCS.

Chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ

Sai lầm quan trọng nhất của Mỹ Diệm là chống lại ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống lại thành tựu đánh bại chủ nghĩa thực dân Pháp,thù địch nước VNDCCH, phủ nhận và phản bội hiệp định Genève. Từ quan điểm ấy, Mỹ Diệm tiến hành “quốc sách” tố cộng truy nã những người kháng chiến cũ…bắn lại những người tay không đòi lập lại quan hệ bình thường Bắc Nam, đòi chính quyền hai miền hiệp thương để tổ chức tổng tuyển cử để đi đến thống nhất nước nhà.

Diệm là một tín đồ Thiên chúa giáo và trong một gia đình đạo Thiên chúa toàn tòng, lâu đời, khi cầm quyền, sử dụng đạo Thiên chúa làm ý thức hệ hậu thuẫn chính trị và muốn biến đạo Thiên chúa thành “quốc giáo”chống đối đạo Phật vốn sâu rễ bền gốc...Diệm rơi vào con đường gia đình trị lộ liễu: anh chị em, dòng họ xa gần cùng số đồng hương của Diệm thao túng chính quyền trung ương và địa phương...Diệm vốn là một quan lại phong kiến, cho nên khi nắm quyền hành thì không còn thể che giấu bản chất thích làm hoàng đế, điều này không ăn khớp với ý đồ của Mỹ.

Thấy nhân dân miền Nam bắt đầu phản ứng, Mỹ thấy nguy cơ chủ nghĩa thực dân mới bị biến dạng thậm chí phải sụp đổ. Mỹ đã nhiều lần nhắc nhở Diệm song Diệm tỏ ra bướng bỉnh. Say sưa với thành công, Diệm ngày càng cao ngạo, nóng vội thu tóm quyền hành, thực hiện một chế độ suy tôn cá nhân và độc tài trong các chính sách. Đến lúc đó, Mỹ đã đạt khả năng thay thế Diệm hòng duy trì chủ nghĩa thực dân mới. Hiểu ý định của Mỹ, anh em Diệm càng khẩn trương mở rộng quyền lực, tìm mọi cách đối phó. Một số chính khách được Mỹ gợi ý, tập họp trong nhóm Caravelle, nêu lên một số yêu sách cải tổ chính phủ Sàigòn. Mỹ cụ thể hóa lời cảnh cáo của mình bằng cách bật đèn xanh cho quân dù và một số đơn vị nổ súng đảo chính. Vì là cảnh cáo Diệm chưa bị lật đổ. Tuy nhiên Diệm không còn là thần tượng đối với các thế lực thân Mỹ và quân đội Sàigòn. Ngày 1-11-1963, quân đội Sàigòn đảo chính và lần này anh em Diệm-Nhu bị giết.

Đây là bất hạnh của dân tộc. Trong lúc đồng bào chờ ngày thống nhất Tổ quốc trong hòa bình. Hai miền đất nước theo đuổi hai thể chế chính trị khác nhau, khi thời cơ thuận lợi, đồng bào có sự so sánh để tự quyết định tương lai dân tộc… Nhưng chẳng may, người lãnh đạo MN lại có tinh thần quốc gia cực đoan, cai trị đất nước bằng chế độ độc tài gia đình trị. Trong khi CSBV chuẩn bị kế hoạch thôn tính Miền Nam để tăng cường phe XHCN, thì hành động của gia đình ông Diệm tạo điều kiện cho những người cựu kháng chiến Nam Bộ thành lập MTGPMN và trở thành tấm bình phong cho CSBV lợi dụng tạo ra cuộc chiến đẫm máu.

HK trực tiếp can thiệp vào VN, chấm dứt chiến tranh

Mỹ hy vọng cuộc đảo chính sẽ trấn an dư luận và bảo đảm cho Mỹ tiếp tục chính sách thực dân mới. Nội bộ những người đảo chính lại không thuần nhất. Một số không tán thành sự can thiệp quá sâu của Mỹ vào miền Nam, e ngại sự can thiệp ấy dẫn đến một cuộc chiến tranh có thực binh Mỹ tham gia. Đặc biệt Mỹ lo lắng xu hướng trung lập xuất hiện. Ba tháng sau Mỹ tổ chức cuộc “chỉnh lý” nhằm thải một số người mà Mỹ ít tin cậy và cũng nhằm cô lập tướng Dương Văn Minh. Tám tháng sau cuộc đảo chính thứ ba xảy ra với Hiến chương Vũng Tàu. Tướng Minh bị loại. Trước phong trào sinh viên phản đối quyết liệt, Hiến chương Vũng Tàu bị bỏ, tiếp đó là cuộc đảo chính thứ tư do tướng Dương Văn Đức chỉ huy, không thành công song chính quyền Sàigòn phải sắp xếp lại cơ cấu đưa bộ phận dân sự Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương lên sân khấu, chuẩn bị cho một bộ sậu khác thực hiện ý định của Mỹ: Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ.

Ngày 8/3/1965, hai tiểu đoàn thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên Đà Nẳng, bắt đầu thời kỳ Mỹ trực tiếp tham chiến ở MN. Chủ nghĩa thực dân mới cần chiếc mặt nạ quốc gia, trong khi chiến tranh xâm lược lại phải theo vết xe định mệnh của chủ nghĩa thực dân cũ…Gạt bỏ Diệm, đồng thời Mỹ đã thừa nhận chủ nghĩa thực dân mới và công thức lực lượng tại chỗ cộng với viện trợ Mỹ đã phá sản.

Màn khói quốc gia mờ nhạt hẳn khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Từ đó ý thức dân tộc bùng dậy ngày mỗi mãnh liệt, trong quần chúng, lan lây sang cả những người người không ưa chủ thuyết cộng sản, không ưa Đảng CS và MTDTGP. Cần phải nói rõ thêm rằng sau Diệm, cái gọi là “quốc cộng” chưa cáo chung -nó còn sống tận hôm nay- 1992- và sẽ còn sống lâu hơn. Song ở Việt Nam, “chủ nghĩa quốc gia” sau Ngô Đình Diệm còn lại một pho tượng đất, có thể được sơn nhiều màu sắc lạ mắt, mà cái “thần” thì không còn nữa. Chủ nghĩa quốc gia” khoác bộ quần áo lính Mỹ địa phương, cầm khẩu AR15, bước rập ràng theo tiếng còi của chỉ huy Mỹ…cái “chủ nghĩa quốc gia” gượng gạo ấy ở Thiệu Kỳ thật lố bịch. Một nhà báo Sàigòn bị khủng bố vì dám nêu khẩu hiệu “chống Mỹ cứu nước”, ông đã mỉa mai “hiến kế” cho Thiệu: tổng thống hãy dùng khẩu hiệu “chống nước cứu Mỹ”! Đó là một cuộc “trấn lột” đến trần truồng các “chủ nghĩa quốc gia” Sài gòn vào buổi chợ chiều.

Chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, ngoài việc trưng bày Miền Nam tự do như là mô hình một đất nước dân chủ phồn vinh của Thế giới TD. Nơi đây còn là tiền đồn ngăn chận mưu đồ “mở rộng” hệ thống XHCN thế giới. Vì thế, khi mục tiêu đầu thất bại, HK phải trực tiếp can thiệp như họ đã từng làm ở Cao Ly hồi năm 1950. Sự can thiệp của HK để bảo vệ tiền đồn tự do ở Nam VN, đã hỗ trợ tướng Suharto ở Nam Dương phá tan âm mưu đảo chính cướp chính quyền của đảng CS thân Mao hồi năm 1965. Từ đó, một vành đai ngăn chận CS kéo dài từ Nam Triều Tiên (Tướng Park Chung Hee), xuống Đài Loan (Thống chế Tưởng Giới Thạch) Phi Luật Tân (Tướng Ferdinand Marcos), Nam Dương (Tướng Suharto) vòng lên Thái lan (Thống chế Thanom Kittikachorn). Làn sóng CS đã bị chận đứng, tiền đồn Nam VN không còn cần thiết, HK quyết định rút quân khỏi Nam VN, để hai bên miền Nam giải quyết vấn đề nội bộ của họ mà không có sự can thiệp từ bên ngoài.

Với sức mạnh quân sự, HK đã áp lực được CSBV ngồi vào bàn đàm phán. Tám tháng trước khi HĐ Paris 1973 ra đời, TT Nixon đã đi Trung Cộng và Liên Xô để tìm sự hậu thuẫn của hai cường lực này. Cả hai cùng với ba nước hội viên thường trực Hội đồng Bảo An LHQ, bốn bên trong cuộc chiến VN và bốn nước thuộc Ủy ban kiểm soát và giám sát quốc tế đồng ký vào bản Định ước của Hội nghị Quốc tế về Việt Nam ngày 28/2/1973 trước sự chứng kiến của ông Tổng thư ký LHQ. Nội dung của Định ước ghi rõ: “Các bên ký kết Định ước này trịnh trọng ghi nhận: (điều 1) tuyên bố tán thành và ủng hộ hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”, và (điều 3) “những cam kết của các bên ký kết hiệp định và các nghị định thư tôn trọng triệt để và thi hành nghiêm chỉnh hiệp định và các nghị định thư’.

Với HĐ Paris 1973, Cương lĩnh của MTGPMN gần như đã thành tựu với chủ trương “thành lập chính quyền liên minh dân tộc dân chủ, thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi và tiến bộ, chính sách ngoại giao hòa bình trung lập, lập lại quan hệ hai miền, tiến đến hòa bình thống nhất Tổ quốc”. Nhưng giờ đây họ gặp một trở lực lớn, CSBV đã chi viện họ hết mình và dùng chiêu bài kháng chiến “chống Mỹ, cứu nước” để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” để đưa cả nước vào hệ thống XHCN thế giới. Chính vì thế, Linh mục Nguyễn Ngọc Lan đã “kiến kế” tổng thống Thiệu dùng khẩu hiệu “Chống nước, cứu Mỹ”. Hoa Kỳ đã chống nước VNDCCH để bảo vệ miền Nam với kết quả là Hiệp định Paris 1973.

Đối với VNCH, HK cũng đã hoàn tất trách nhiệm, họ cam kết chỉ công nhận VNCH, và trong hiệp định Paris không có một chữ nào đề cập đến chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam. Mỹ còn tạo ưu thế lớn cho VNCH khi hiệp định ra đời, như TBĐ đã thừa nhận: “sau ngày ký HĐ Paris, cách mạng miền Nam lại một lần nữa gặp khó khăn, lần này ngắn hơn chỉ kéo dài 6 tháng”. Đó là thời điểm để hai bên miền Nam thực hiện hòa giải hòa hợp dân tộc. Sở dĩ MTGP chấm dứt được khó khăn là nhờ TT Thiệu bắt đầu gặp khó khăn. Ngày 13/6/1973, Thiệu nhận bức thư cuối cùng của Nixon vì ông ta nhận thấy không thể nào còn thuyết phục ông Thiệu được nữa. Ông Thiệu không muốn hợp tác với Mỹ thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris. Ngay sau đó, từ cuối tháng Sáu 1973 quốc hội HK bắt đầu tước bớt quyền lực của Nixon và cắt dần viện trợ cho VNCH. Tổng thống Thiệu đã không nghe lời “hiến kế chống nước, cứu Mỹ”, trái lại còn trở cờ “chống Mỹ” để mất nước” (VNCH). Có lẽ, vì sự bực tức này, mà TBĐ lại nhắc lại câu nói “hiến kế” của linh mục Lan trong giai đoạn lịch sử vừa kể. Ông khẳng định: Cái gọi là “quốc cộng” chưa cáo chung –nó còn sống tận đến hôm nay -1992- và sẽ còn sống lâu hơn nữa. Song ở Việt Nam, chủ nghĩa quốc gia sau Ngô Đình Diệm còn lại là pho tượng đất”. TBĐ cay cú cho rằng “cái chủ nghĩa quốc gia gượng gạo ấy ở Thiệu Kỳ thật lố bịch”.

Kết luận

Từ những nhận định trên, TBĐ bày tỏ những triển vọng của đất nước khi Việt Nam đã “nắm trong tay các điều kiện cho cuộc vùng vẫy mới” để cất cánh vào thời điểm 1992, tức 15 năm về trước.

* Có lẽ không một cuộc cách mạng nào trên thế giới hội tụ nhiều nét độc đáo như cuộc cách mạng 21 năm ở miền Nam. Chúng ta nên nhớ rằng Mỹ là nước hùng mạnh nhất hành tinh về lực lượng vật chất. Thế lực tại chỗ của họ cũng là những bộ phận được tuyển chọn, là lực lượng có cơ sở xã hội, là giai cấp biết cầm quyền. Con đường của Mỹ và chính quyền Sàigòn không rập khuôn theo Pháp -họ chú trọng xây dựng kinh tế, đào tạo trí thức và kỹ thuật, đẻ ra học thuyết này khác. Tóm lại, không phải chúng ta đối phó với kẻ yếu và dốt.

Chúng ta đều biết thực tế miền Nam sau Hiệp định Genève không giống thực tế trước đó. Xã hội đã phân hóa với nhiều nét mới. Nếu dưới chế độ thực dân Pháp, giai cấp tư sản bản xứ chưa định hình với tư cách giai cấp, thì dưới chế độ thực dân Mỹ, giai cấp tư sản mại bản đã xuất hiện, lớn lên , lần lần chi phối nền chính trị- kinh tế - xã hội miền Nam, dựa vào quân đội, có đội ngũ trí thức đại biểu cho lợi ích giai cấp, với cả học thuyết làm hệ tư tưởng và nhất là đang lần lần trở thành giai cấp tư sản mại bản.

Có thể nói, ngoài chiến lợi phẩm khổng lồ, đây là cơ sở vật chất vô giá của chủ nghĩa tư bản, mà chính quyền Dương Văn Minh bàn giao cho Mặt trận GPMN. Đó cũng là món quà mà nhân dân miền Nam đã tích lũy sau 21 năm đất nước qua phân. Đây cũng là phần đóng góp của nhân dân và MTGPMN vào công cuộc kiến tạo quê hương sau 30 năm chiến tranh.

Rất tiếc, chỉ vì sùng bái Liên Xô, những người chiến thắng đã phá nát tài sản này. Chưa đầy 10 năm sau, miền Nam từng là vựa lúa lớn nhất nhì thế giới, Sàigòn từng mang danh là hòn ngọc Viễn Đông…Nhưng người dân lại thiếu gạo, phải chạy ăn từng bữa, thậm chí ăn độn cả bo bo. Rồi nhờ chút tàn dư Mỹ-ngụy còn sót lại, đã giúp kinh tế quốc doanh qua cơn đại nạn, trong bước đầu đổi mới để sống còn. Miền Nam hiện nay đã từng bước phục hồi cơ sở cũ ngày trước, giúp MN có nền kinh tế phát triển cao nhất nước. Nhờ đó, VN nở mặt phần nào khi gia nhập WTO. Trên những cơ sở sẳn có từ hơn 32 năm trước, đồng dạng với những con rồng kinh tế Đông Nam Á, cộng với khối chất xám khổng lồ và tài nguyên của đồng bào ở hải ngoại tiếp sức… Việt Nam sẽ đuổi kịp lân bang trong một thời gian, chắc sẽ ngắn hơn thời gian bị bỏ lỡ từ khi TBĐ viết những dòng tổng luận này 15 năm về trước.

* Sàigòn là thủ đô của chính quyền miền Nam, là thành phố lớn nhất nước, vào giờ chót dồn về đây một quân số không nhỏ, còn đầy đủ vũ khí. Thế mà Sàigòn được giải phóng ít đổ máu, tất cả hầu như còn nguyên vẹn…Song không thể không nhấn mạnh rằng ý thức dân tộc trong một số người đứng đầu chính phủ Sàigòn chợt bùng lên vào thời điểm đó -đặc biệt ông Dương Văn Minh- đã cống hiến đáng trân trọng cho một kết thúc rất Việt Nam, đầy đặc thù Việt Nam.

Đây là niềm tự hào dân tộc. Ông Minh ra lịnh binh sĩ miền Nam buông súng, giúp đồng bào thoát hiểm họa chiến tranh, giúp đất nước thống nhất. Bảo vệ dân chủ tự do cho miền Nam là tình riêng, thống nhất đất nước là nghĩa chung. Cả hai mục tiêu đều cao cả, nhưng vì lợi ích dân tộc, phải tạm gát tình riêng, để đạt được cái nguyện vọng lớn nhất của toàn dân. Ông đã thể hiện truyền thống cao đẹp của dân tộc: biết hy sinh tình riêng vì nghĩa chung. “Mỹ-ngụy” còn biết đến những giá trị cao đẹp của dân tộc, khi tình thế đòi hỏi, họ biết cách hành sử đúng đạo lý cương thường! Người chiến thắng lại hành sử không như tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu đối xử với binh sĩ của Võ Tánh, Ngô Tùng Châu ngày trước. Hoàn toàn không có nét đặc thù nào của VN cả. Họ lại đặt quyền lợi riêng của họ lên trên quyền lợi tối thượng của cả dân tộc. Đất nước thống nhất, miền Nam tưởng rằng đem lại hạnh phúc cho đồng bào, nào ngờ miền Bắc mang lại đau thương cho cả dân tộc.

* Sau khi nước nhà thống nhất, Mặt trận cùng các đồng minh của mình như Liên minh các Lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình, như các đoàn thể giải phóng, như Quân Giải phóng, như Chính phủ Cách mạng lâm thời, đã hoàn thành nhiệm vụ do dân tộc trao cho..Bất kể như thế nào, Mặt trận Dân tộc Giải phóng không dừng ngang ý nghĩa giai đoạn. Những gì Mặt trận thực hiện đều khắc sâu vào lịch sử dân tộc, đồng thời đều trực tiếp gợi sáng tạo cho sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam Hoà bình, Thống nhất, Độc lập, Dân chủ và Giàu mạnh.

Quả thực, VN đã hòa bình thống nhất từ 32 năm về trước…Nhưng độc lập, dân chủ và giàu mạnh thì mãi đến ngày nay vẫn chưa có. Vì lẽ sau 1975, MTGPMN đã bị CSBV đào thải. Họ đặt Đảng CS lên trên dân tộc, áp dụng chuyên chính vô sản mà bác sĩ Nguyễn Khắc Viện cho rằng đó là “nền chuyên chính vô học”. Trong thời hậu chiến, đất nước cần những người lãnh đạo có tinh thần dân tộc và có khuynh hướng quốc gia như TBĐ đã bày tỏ “để gợi sáng tạo cho sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam Độc lập, Dân chủ và Giàu mạnh”.

* Hồn dân tộc luôn cột chặt mỗi người Việt Nam với nhau, dù quá khứ ra sao, hoàn cảnh hiện tại như thế nào, sinh sống ở đâu, tin vào cái gì và không tin vào cái gì…Mối quan hệ đồng bào ấy chỉ có thể được xử lý êm đẹp bằng tấm lòng, cái rất khó chứng minh bằng tư biện trừu tượng, bằng toán học lại bằng bạc, mang mác, rung động mọi người Việt Nam. Tấm lòng là của quý của dân tộc, món gia bảo từ ngàn xưa của Việt Nam.

Tấm lòng và hồn dân tộc của TBĐ chính là “tình dân tộc, nghĩa đồng bào” lấy sự thương yêu đùm bọc như bầu với bí sống chung một dàn làm biểu tượng. Đó là sợi dây keo sơn gắn bó đã liên kết dân tộc thành một khối bất khả phân ly. Trong lịch sử hơn 4000 năm, có nhiều giai đoạn hầu như chúng ta mất cả, nhưng có một quốc bảo thiêng liêng không mất, đó là tình dân tộc nghĩa đồng bào, nó gắn liền và trở thành bản chất của dân tộc ta. Đất nước cũng nhiều phen bị chia cắt, nhưng cuối cùng vẫn qui về một mối nhờ truyền thống tình nghĩa dân tộc -đã tạo nên sức mạnh của toàn dân phá vỡ những âm mưu quỉ kế của những tập đoàn thống trị, chỉ vì quyền lợi riêng tư bè nhóm chủ trương chia rẽ dân tộc. Chỉ có quyền lợi hẹp hòi của bọn thống trị mới có đối kháng, còn quyền lợi tối thượng của dân tộc là một: đất nước thanh bình thì cùng nhau cộng lạc, đất nước bị uy hiếp thì đoàn kết chống ngoại xâm, đó là đặc tính cao đẹp của giòng giống Lạc Hồng.

TheoTBĐ, “mối quan hệ đồng bào ấy chỉ có thể được xử lý êm đẹp bằng tấm lòng”. Nhưng những người lãnh đạo CS bảo thủ giáo điều, chủ trương hận thù đấu tranh, thì làm gì có tấm lòng, nói chi đến xử lý êm đẹp. Không phải chỉ ở quá khứ, ở năm 1992 mà mãi đến ngày nay.

* Quyển sách này ra đời đúng lúc Việt Nam chúng ta đang giải quyết một thách thức sống còn mới: chủ nghĩa xã hội quốc tế lâm nguy và chủ nghĩa xã hội VN, con đẻ của dân tộc Việt Nam, bắt đầu hội tụ các tiền đề, các điều kiện vật chất và tinh thần để vượt qua thách thức. Thực tế, bước chông gai nhất đã lùi về phía sau và thế giới lại bắt đầu “nghiên cứu” dân tộc chúng ta, không chỉ về quá khứ mà cả hiện tại.

Hệ thống XHCN thế giới tan rả. Từ 1992 “VN bắt đầu hội tụ các tiền đề, các điều kiện vật chất và tinh thần để vượt qua thử thách” -nếu CNXH là con đẻ của dân tộc, tất nhiên VN phải có một tư tưởng đổi mới: đặt quyền lợi dân tộc và quốc gia lên trên hết. TBĐ từng bị nhóm bảo thủ kết án là xét lại. Có lẽ quan điểm xét lại của người “CS cấp tiến” TBĐ cũng giống như quan điểm của lãnh tụ CS xét lại Karl Kautsky hồi cuối thế kỷ 19: “Kết hợp cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa với nền chính trị dân chủ của các nước văn minh tiến bộ, coi con đường tiến tới quyền lực phải bắt buộc thông qua các cuộc bầu cử”. Đó là mô hình Dân chủ Xã hội mà các nước Âu châu đã áp dụng từ hơn một thế kỷ trước.

Trái lại, XHCN là con đẻ của Đảng CSVN như mọi người đã thấy: nó rập khuôn LX. Sau đó, trong giai đoạn đổi mới thời Nguyễn Văn Linh, nó rập khuôn TC “thực hiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa”. Và từ sau 1992, có thêm ‘tư tưởng HCM” để CSVN càng gắn bó hơn sự lệ thuộc toàn diện vào Trung Cộng, như đã xảy ra từ hơn nửa thế kỷ trước.

Nhà văn Dương Thu Hương từng hy vọng: “một dân tộc không chỉ biết chết mà còn biết sống, một dân tộc bất hạnh -đã lặn ngụp trong mất mác và thất vọng- sẽ tự hiểu mình, sẽ lớn khôn và sẽ trồi lên từ đáy sâu lầm than, đau khổ hận thù tới bờ hạnh phúc”. Nhưng gần hai thập niên đã qua, giới lãnh đạo CSVN chỉ sống với “hào quang” quá khứ, tiếp tục con đường cũ, thì làm sao có thể “lớn khôn và sẽ trồi lên” để có được “một Việt Nam tương lai, một nước Việt vẹn toàn không phân ly, không thù hận, một nước Việt Nam dân chủ và phồn vinh” (Tự bạch về cuốn “Tiểu thuyết vô đề” tức “Khải hoàn môn”). Đất nước tiếp tục tụt hậu, bà Dương Thu Hưong tiếp tục bị trù dập.

* Giành nước, dựng nước, giữ nước nằm trong một thể thống nhất. Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã làm được chuyện phi thường đánh bại Mỹ cũng theo gương tiền nhân –dân tộc Viêt Nam duy nhất trong Bách Việt không bị Hán hóa mấy nghìn năm trước, không bị Pháp và Mỹ hóa thời nay. Rồi đây, Việt Nam cất cánh -chúng ta nắm trong tay các điều kiện cho cuộc vùng vẫy mới- sẽ khắc họa một bức tranh trung thực về đất nước này, con người này, nhìn từ lăng kính hình khối hay đặc tả. Không có biểu lộ sự biết ơn nào của người đang sống với quá khứ cao đẹp hơn là tái tạo cuộc chiến đấu trước đây trong cuộc chiến đấu trước mắt. Mục tiêu, hình thức chiến đấu nhất định khác song tinh thần chiến đấu vẫn là một: một quốc gia, một dân tộc, một nguyện vọng.

Năm 1992, Liên Xô sụp đổ, đó là thời cơ giúp VN vẫy vùng cất cánh. Sau thời gian dài, gần trọn nửa thế kỷ, CSVN chỉ nhìn duy nhất “phía tả” một cách đặc cứng, nay có dịp nhìn toàn diện thế giới bên ngoài dưới lăng kính hình khối (sáu mặt) để tung bay. Đây là lúc mở rộng hết các cánh cửa, đồng bào sẽ thấy những điều mới lạ, mà trước đó họ không bao giờ nghĩ có thể xảy ra, chẳng hạn như:

- Liên Xô và hệ thống XHCN thế giới sụp đổ, Tổ quốc XHCN không còn nữa. Đế quốc Mỹ trở thành siêu cường quốc số một. Đảng luôn nói rằng “đã đánh thắng tên đế quốc đầu sỏ”, nhưng trong hồi ký, TT Ronald Reagan lại nói với các cựu chiến binh Mỹ ở VN: “Các anh trở về, không mang theo chiến thắng, không phải vì các anh bị đánh bại, mà vì các anh không được phép đánh thắng”.

- Nay, đọc sách “Chung một bóng cờ” do Nhà nước xuất bản, có đề cập đến “thực dân mới của Mỹ” và Ngô Đình Diệm, khiến đồng bào nghĩ đến việc LX, TC tận tình chi viện ông HCM để tăng cường, mở rộng hệ thống XHCN. Đó có phải là chủ nghĩa bành trướng, xâm lược “mới” hay không? Ông Diệm, chống Pháp, chống Mỹ và chết vì lý tưởng quốc gia cực doan. Còn ông Hồ được khối CS yểm trợ đến cùng, giúp các đệ tử của ông hoàn thành trách nhiệm năm 1975.

- Liên Xô đã thắng Mỹ: VN trở thành nước Cộng hòa XHCN. Đồng bào lại nghe ông thủ tướng nước láng giềng Lý Quang Diệu nhận xét: “Năm 1975 TP/HCM có thể sánh ngang với Bangkok nhưng nay -năm 1992 nó tụt lại đàng sau hơn 20 năm”. Ông còn nói “Trong lúc các quốc gia Đông Nam Á phát triển kinh tế một cách vượt bực thì ba nước Đông Dương lại bị cô lập trong sự nghèo nàn lạc hậu”.

- Những viên chức chế độ cũ, sau 17 năm bị tù đày cải tạo, họ có đủ tiêu chuẩn xuất ngoại theo diện HO…Nhưng họ không thể bỏ nước ra đi khi đại đa số đồng bào còn sống lầm than cơ cực. Họ thành lập Phong trào thống nhất dân tộc và xây dựng dân chủ, chủ trương xóa bỏ hận thù, dấn thân vào cuộc đấu tranh mới mà đối tượng cần phải tiêu diệt là nạn chia rẽ và sự nghèo khổ: đó là hai kẻ thù nguy hiểm nhất của dân tộc Việt Nam hiện nay. Muốn chấm dứt tệ nạn này, phong trào chủ trương: “phải thiết lập một định chế dân chủ và để nhân dân phán xét ai đúng ai sai, qua các cuộc bầu cử tự do, chớ không ai có quyền tự ban cho mình là chân lý” (Tuyên cáo của Phong trào công bố ngày 11/12/1992)

- Rồi tháng 2/1993, khi nhà nước VN không còn một nguồn viện nào từ khối CS, họ quay sang cầu cứu Pháp. TT Francois Mitterand sang VN với thiện ý “Tôi sang đây không những để kết toán một chương sử cũ mà cũng để bắt đầu một chương sử mới”. Ông khuyến cáo VN về thực trạng thế giới ngày nay: “Thế giới lưỡng cực không còn nữa, chiến tranh lạnh đã kết thúc. Lá cờ tự do từng bị chôn vùi ở nhiều nơi suốt bao năm qua, đã tung bay trở lại ở nhiều vùng trời. Ngày nay quyền con người phải được chính quyền các nơi tôn trọng, là bởi vì -cũng như anh em song sinh với nó là phát triển kinh tế- nó trở nên một đòi hỏi chung của cả nhân loại”. Ông nói thằng với giới lãnh đạo Hànội: “Cởi trói kinh tế mà không cởi trói chính trị là không được, chỉ ôm ấp một ảo tưởng mà thôi”. Đến tháng 7/1995, HK chấm dứt việc cấm vận và thiết lập bang giao với VN.

Những ghi nhận trên đây, cho thấy Việt Nam như TBĐ đã viết: “bắt đầu hội tụ các tiền đề, các điều kiện vật chất và tinh thần để vượt qua thách thức. Thực tế, bước chông gai nhất đã lùi về phía sau” để vùng vẫy…Nhưng bị giới lãnh đạo CS bảo thủ ngăn cản. Họ lại gắn thêm “tư tưởng Hồ Chí Minh” vào khẩu hiệu đổi mới “kinh tế thị trường, định hướng XHCN”. Dù lúc sinh thời, ông Hồ nói rằng: “tôi không có tư tưởng gì ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao trạch Đông” (Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc hội, Tr. 151 & 490)

Nay Mao không còn thì có Đặng, Giang và nay là Hồ Cẩm Đào. Có người ưu tư khi nghe Lý Quang Diệu, nhân dịp trở lại Sàigòn hồi đầu năm 2007 đã tuyên bố: “VN cần thêm 40 năm nữa mới bắt kịp Thái Lan”. Nhưng giới lãnh đạo CSVN, có lẽ không mấy quan tâm, vì ngày trước, HK đe dọa đưa VN trở lại thời kỳ đồ đá, Đảng còn không sợ, huống hồ tụt hậu 40 năm thì nhầm nhò gì? Điều quan trọng là Đảng đã có chỗ dựa vững chắc rồi, thì cần chi phải “biểu lộ sự biết ơn” để tái tạo lại cuộc chiến đấu trước đây? Tuy nhiên, đối với những người từng chiến đấu dưới ngọn cờ MTGPMN và những cán bộ trưởng thành trong phong trào Sàigòn do TBĐ lãnh đạo, thì đó lại là sự phản bội dân tộc và sự phản bội và vô ơn đối với người đồng chí đã vĩnh viễn ra đi…Nhưng để lại một sự nghiệp lớn đối với đất nước nhưng chưa hoàn thành.

Ông Đằng vừa qua đời, hôm sau nhân có cuộc phỏng vấn của Đài BBC, cựu TT Võ Văn Kiệt có nói đến hai đồng chí thân thiết là Trần Bạch Đằng và Nguyễn Hộ. Ông kêu gọi hòa giải dân tộc, đề cập đến cụm từ “quốc gia và cộng sản”, và nói rằng “có hàng trăm con đường yêu nước khác nhau”. Ông khẳng định ông là một “người quốc gia yêu nước đi theo chủ nghĩa cộng sản”. Sáu tháng trước, ông tuyên bố với phóng viên báo Việt Weekly: “Thật ra, hồi chúng tôi mới giác ngộ đi theo cách mạng, lý tưởng thế giới đại đồng mạnh mẽ lắm. Nhưng từ khi làm cách mạng đến bây giờ, tôi tự hào là đã chiến đấu vì lợi ích dân tộc, vì lợi ích đất nước, rồi kế đó mới là vì bạn bè”. Ông còn nói: “Chúng ta phải hết sức quan tâm đến sự hòa hợp, phải đặt dân tộc là tối thượng. Cho dù chính kiến, tôn giáo, quan điểm có khác nhau, nhưng lợi ích dân tộc phải được đặt lên trên hết”. (Việt Weekly, Dec-05-2006)

Hiện nay, ai cũng thấy rõ, kẻ thù nguy hiểm nhất của đất nước là sự chia rẽ và nghèo khổ. Chia rẽ là nguyên nhân đưa đến nghèo khổ. Cuộc xung đột “quốc cộng” đã tạo ra chia rẽ, gây biết bao thảm họa cho dân tộc. Trần Bạch Đằng khẳng định “cái gọi là quốc cộng chưa cáo chung –nó còn sống tận hôm nay -1992- và sẽ còn sống lâu hơn nữa”. Nghĩa là sự chia rẻ và nghèo khổ còn dài dài.

“Quốc tế hay thế giới đại đồng” (Cộng sản) và “quốc gia dân tộc” là hai tư tưởng đối nghịch nhau. Đối với đồng bào, Cộng sản đồng nghĩa với sự lệ thuộc Liên Xô, Trung Cộng, phản bội dân tộc. Cộng sản gây hận thù dân tộc, tiêu diệt những người quốc gia và bất đồng chính kiến với họ. Nay ông Kiệt thừa nhận là người quốc gia, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, tức nhiên ông đã trở thành người quốc gia theo chủ nghĩa dân tộc. Còn việc ông khẳng định là người quốc gia yêu nước đi theo chủ nghĩa CS, chỉ đúng khi ông tham gia cách mạng hồi còn thanh niên, còn hôm nay có lẽ chỉ vì cái danh lãnh tụ “CS đổi mới” mà thôi.

Đất nước tụt hậu quá sâu rồi, Chỉ có con đường hòa giải mới đoàn kết được đồng bào trong ngoài nước, vào công cuộc phát triển kinh tế. Muốn hòa giải, phải xóa bỏ ngay ranh giới quốc cộng. Xin ông Kiệt đừng vòng vo nữa, hãy nói thẳng: tôi là ngườì quốc gia theo chủ nghĩa dân tộc, còn các anh quốc gia theo chủ nghĩa quốc gia. Từ nay, chúng ta đều là người quốc gia theo chủ nghĩa quốc-gia dân-tộc, nói gọn là quốc-dân, chớ không còn quốc-cộng nữa. Tôi sẽ vận động Quốc hội, xóa bỏ ngay điều 4 trong Hiến pháp quy định “Đảng CSVN là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”. Tôi sẽ mời người chiến sĩ cách mạng lão thành đức độ Nguyễn Hộ, đứng ra thành lập Mặt trận Đoàn kết Quốc Dân Việt Nam và triệu tập một hội nghị Diên Hồng thứ hai: Hội nghị Đoàn kết Quốc Dân phát triển đất nước thời hậu chiến.

Cũng xin ông Kiệt nói thêm: đối với HK, trong cuộc họp thượng đỉnh Việt Mỹ mới đây, Chủ tịch Nhà nước Nguyễn Minh Triết không thể ký thông cáo chung với TT Bush khi ông ta nói rằng “muốn cho mối quan hệ giữa hai nước phát triển sâu hơn, phía VN phải cam kết mạnh mẽ hơn trong vấn đề nhân quyền, tự do, dân chủ”. VN sẽ không chịu áp lực bất cứ ai, nhưng tôi (Võ Văn Kiệt) sẽ vận động Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong các cuộc họp sắp tới với ông Bush, sẽ nói thẳng:

“Việt Nam không những tôn trọng nhân quyền, tự do tôn giáo mà còn “Thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với bên này hoặc bên kia” và “Bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm ăn sinh sống, quyền tư hữu tài sản và tự do kinh doanh” như điều 11 của HĐ Paris 1973. Vì đó là cam kết của một thành viên MTGPMN chúng tôi -bà Nguyễn Thị Bình với đại diện của Mỹ, VNDCCH và VNCH hồi năm 1973. Bản hiệp định đã được năm hội viên Thường trực Hội đồng Bảo An trong đó có Liên Xô và Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố tán thành trước sự hiện diện của ông TTK/ LHQ. Hiện nay bà Bình là thành viên duy nhất còn sống trong số bốn đại diện ký kết hiệp định lịch sử này. Bà phải được chứng kiến sự thực thi HĐ trước khi vĩnh viễn nằm xuống. Đây là cơ sở cuối cùng để VN và HK có mối quan hệ bình đẳng và cùng có lợi như điều 22 của hiệp định”.

Trong mặt trận và hội nghị Đoàn kết Quốc Dân VN như đề nghị trên, mọi khuynh hướng chính trị đều đưọc tự do bày tỏ chính kiến của mình. Dựa vào đó, một chính phủ chuyển tiếp đứng ra tổ chức cuộc bầu cử tự do, lập ra quốc hội lập hiến. Đó là quyền tự quyết thiêng liêng mà các cường lực lớn đã thừa nhận, sau khi toàn dân ta đã xã thân chiến đấu và hy sinh cho hai ngọn cờ Thế giới Tư do và Quốc tế Cộng sản.

Đây là hoài bảo của người viết bài này khi chiến tranh lạnh chấm dứt. Cũng năm 1993, tôi xuất bản quyển Việt Nam - Thắng và Bại: Tổng kết cuộc chiến VN trong bối cảnh chiến tranh lạnh vừa qua. Trong lời cuối của tác giả, tôi viết:

“Hội nghị Diên Hồng lần trước vào đời nhà Trần để đoàn kết toàn dân bảo vệ đất nước chống Nguyên Mông. Hội nghị Diên Hồng lần này sẽ đoàn kết Bắc Trung Nam, hòa đồng các tôn giáo, gắn bó đồng bào trong nước với hải ngoại, không phân biệt giữa những người từng chiến đấu cho đất nước dù trước kia đứng bên này hay bên kia chiến tuyến, cả hai đều là kẻ bại trận đối với đồng bào. Tinh thần đoàn kết mới giữa những con người quyết tâm tận hiến tài năng, trí tuệ cho quốc gia dân tộc được đặt trên căn bản: cảm thông, công bằng và trung chánh, thay thế những căn bịnh đã làm suy yếu quốc gia, gây hận thù chia rẽ dân tộc là: phân biệt đối xử, xung khắc, đầu cơ, yểm tài.

Trong tinh thần đó, chúng tôi kêu gọi chính quyền Cộng sản hãy đi bước đầu, thể hiện thành tâm thiện chí bằng cách sửa đổi hiến pháp, từ bỏ quyền lãnh đạo độc tôn của Đảng Cộng sản. Tôn trọng quyền tự quyết thiêng liêng -không những của nhân dân miền Nam như tinh thần Hiệp định Paris 1973- mà của toàn dân Việt Nam. Hợp tác với các lực lượng đấu tranh cho dân chủ tự do nhân quyền, thành lập một chính quyền chuyển tiếp thực sự hòa hợp hòa giải dân tộc, đứng ra tổ chức cuộc tổng tuyển cử tự do có quốc tế giám sát. Đó là con đường duy nhất để đích thân nhân dân chôn vùi cái chủ nghĩa đã mang đến cho họ biết bao là tai ương từ bấy lâu nay. Quốc hội tương lai tức Hội nghị Diên Hồng lần thứ hai, thể hiện tinh thần đại đoàn kết để toàn dân hợp lực xây dựng một nước VIỆT NAM cực thịnh vào đầu thiên niên kỷ thứ ba này”. (Tr. 970). Quyển sách được Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do trao tặng giải Los Angeles 1989 của Giải Văn Học tổ chức đầu tiên năm 2002.

Rồi đây, Việt Nam sẽ cất cánh trong cuộc vùng vẫy mới, chạy đua cùng các thành viên khác của WTO. Với mục tiêu mới: Nước mạnh, Dân giàu, mọi người đều ấm no hạnh phúc, cùng hưởng không khí dân chủ tự do. Một hình thức mới: Mặt trận Đoàn kết Quốc Dân Việt Nam phát triển kinh tế vững mạnh.

Những đứa con Việt Nam chỉ có một Tổ quốc để tôn thờ, đó là Tổ Quốc Việt Nam ngàn đời bất diệt.

Lê Quế Lâm (7/7/2007)