Thứ Năm, 26 tháng 7, 2007

Toàn văn Quyết Nghị về Việt Nam được thông qua tại Đại Hội Thế Giới Văn Bút Quốc Tế

Bản Tin Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ
Toàn văn Quyết Nghị về Việt Nam
được thông qua tại Đại Hội Thế Giới Văn Bút Quốc Tế

Dakar, nước Sénégal

Như chúng tôi đã đưa tin, Quyết Nghị về Việt Nam, do Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp thoại đề nghị với sự tán trợ củ a hai Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Đức thoại và Thụy Sĩ Ý thoại, đã được Hội Đồng Đại Biểu Văn Bút Quốc Tế đồng thanh biểu quyết chấp thuận trong phiên họp khoáng đại ngày thứ ba 10 tháng 7 năm 2007 tại Dakar, nước Sénégal. Được biết có gần 90 Trung tâm Văn Bút tham dự Đại Hội Thế Giới Văn Bút Quốc Tế và tất cả đại biểu hiện diện đã bỏ phiếu ‘Thuận’ (không phiếu Trắng và Chống) sau khi bản văn được trình bày giới thiệu cùng với lời phát biểu của nhà văn Zeki Ergas và nữ triết gia Fawzia Assaad , thay mặt Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp thoại. Theo tin giờ chót, ngày thứ năm 19 tháng 7 vừa qua, bản Quy ết Nghị đã được Ủy Ban Văn Bút Quốc Tế Bênh Vực Nhà Văn bị Cầm Tù gởi bằng đường bưu chính đến hai người cầm đầu Nhà nước và chính phủ cùng đại sứ CHXHCNVN trú sở Vương Quốc Anh. Rồi qua sáng thứ hai 23 tháng 7, bản Quyết Nghị còn được gởi đi bằng fax.

Cũng cần ghi thêm rằng Dự án Quyết Nghị đã trở thành văn bản Quyết Nghị chính thức của Văn Bút Quốc Tế, sáu ngày trước khi chế độ Hà Nội bị bắt buộc phải trả lại ‘tự do’ cho nữ luật sư Bùi Kim Thành vì áp lực quốc tế. Ngoài ra, vì lý do kỹ thuật và hành chánh, bản Quyết Nghị chưa ghi được đầy đủ tất cả những người tranh đấu cho Tự Do Dân Chủ, Nhân Quyền và Công Bằng Xã hội bị bắt giữ, câu lưu để tra cứu hoặc chờ kháng án tù. Trong số tù nhân đó không thể quên nhà báo Huỳnh Nguyên Đạo, bác sĩ Lê Nguyên Sang và luật sư Nguyễn Bắc Truyển. Riêng luật sư Lê Quốc Quân không còn được nêu tên trong Quyết Nghị vì cuối tháng 6, ông đã ra khỏi nhà giam cũng nhờ áp lực quốc tế, nhứt là Hoa Kỳ đối với trường hợp ông.

Qua Quyết Nghị về Việt Nam, Văn Bút Quốc Tế tố cáo và phản kháng chế độ độc tài Hà Nội tiếp tục vi phạm nghiêm trọng các quyền Tự do Phát biểu, Thông tin và Báo chí. Qua Quyết Nghị về Việt Nam, Hiệp Hội các Nhà Văn Thế giới*, một lần nữa, từ thủ đô Dakar nước Sénégal, Phi Châu, bày tỏ tình liên đới đoàn kết với các nhà văn, nhà thơ, nhà báo, học giả, luật sư, tu sĩ, trí thức độc lập, những người dân chủ đối kháng Việt Nam bị sách nhiễu, đàn áp, giam nhốt, lưu đày độc đoán và bất nhân.

Ghi chú thêm:* Ra đời từ năm 1921, Văn Bút Quốc Tế có 147 Trung tâm tại 104 quốc gia và lãnh thổ, với khoảng 18 ngàn hội viên, trong số đó có nhiều nhà văn và nhà thơ khôi nguyên Giải Nobel Văn Chương.

Genève ngày 24 tháng 7 năm 2007
Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ
Ligue Vietnamienne des Droits de l'Homme en Suisse
Vietnamese League for Human Rights in Switzerland


Danh sách các Trung tâm Văn Bút có mặt đã bỏ phiếu ủng hộ Quyết Nghị về Việt Nam tại Đại Hội Thế Giới Văn Bút Quốc Tế Dakar, nước Sénégal, ngày 10 tháng 7 năm 2007

Tên Trung tâm Văn Bút viết bằng tiếng Pháp :

Centres PEN Afarphone, Afghan, Algérien, Allemand, Américain, Anglais, Autrichien, Bangladesh, Basque, Belge Francophone, Belge Néerlandophone, Bishkek, Bulgare, Camerounais, Canadien, Catalan, Colombien, Chinois Indépendant, Congo, Coréen, Croate, Danois, Écossais, Écrivains Africains à l'Étranger, Écrivains Cubains en Exil, Écrivains en Exil/Branche Américaine, Écrivains Germanophones à l'Étranger, Égyptien, Espagnol, Espéranto, Etats-Unis d'Amérique, Finlandais, Français, Gabonais, Ghanéen, Guadalajaran, Guinéen, Hong Kong Sinophone, Hongrois, Irakien, Islandais, Israélien, Italien, Ivoirien, Japonais, Jordanien, Kenyan, Kosovar, Kurde, Lituanien, Macédonien, Malawite, Marocain, Melbourne, Mexicain, Néerlandais, Néo-Zélandais, Népalais, Nigérien, Norvégien, Ougandais, Palestinien, Polonais, Portugais, Prétoria, Québécois, Roumain, Russe, San Miguel de Allende, Sénégalais, Serbe, Sierra Léonais, Slovaque, Slovène, Somaliphone, Sud Africain, Suédois, Suisse Allemand, Suisse Italien et Réto-Romanche, Suisse Romand, Sydney, Taipei Chinois, Tchèque, Tunisien, Turc et Zambien.

Tên Trung tâm Văn Bút viết bằng tiếng Anh :

Afar-speaking, Afghan, African Writers Abroad, Algerian, American, Austrian, Bangladeshi, Basque, Belgium Dutch-Speaking, Belgium French-Speaking, Bishkek, Bulgarian, Cameroonian, Canadian, Catalan, Colombian, Congolese , Croatian, Cuban Writers in Exile, Czech, Danish, Egyptian, English, Esperanto, Finnish, French, Gabonese, German, German-Speaking Writers Abroad , Ghanaian, Guadalajaran, Guinean, Hong Kong Chinese-Speaking, Hungarian, Icelandic, Independent Chinese, Iraqi, Israeli, Italian, Ivory Coast, Japanese, Jordanian, Kenyan, Korean, Kosovo, Kurdish, Lithuanian, Macedonian, Malawian, Melbourne, Mexican, Moroccan, Nepalese, Netherlands, New Zealand, Nigerian, Norwegian, Palestinian, Polish, Portuguese, Pretoria, Quebecois, Romanian, Russian, San Miguel de Allende, Scottish, Senegalese, Serbian, Sierra Leonean, Slovakian, Slovene, Somali-speaking, South African, Spanish, Suisse Romand, Swedish, Swiss German, Swiss Italian and Reto-Romansh, Sydney, Taipei Chinese, Tunisian, Turkish, Ugandan, USA, Writers in Exile/American Branch and Zambian PEN Centres.

Nguồn tài liệu : Nguyên Hoàng Bảo Việt, thành viên Ủy Ban Bênh Vực Nhà Văn bị Cầm Tù/Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp Thoại ( Centre PEN Suisse Romand), hội viên Nhà Văn Việt Nam Lưu Vong và Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại/PEN Âu Châu, thành viên phái đoàn Đại diện Văn Bút Quốc Tế tại các Khóa Họp 2006 và 2007 của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (Conseil des Droits de l’Homme/Human Rights Council).

Toàn văn Quyết Nghị về Việt Nam chuyển dịch Anh/Pháp ngữ qua Việt ngữ của Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ.

Quyết Nghị về Việt Nam do Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp Thoại ( Centre PEN Suisse Romand) soạn thảo và đề nghị, với sự tán trợ của các Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Đức thoại và Thụy Sĩ Ý Thoại và Réto-Romanche.

Hội Đồng Đại Biểu Văn Bút Quốc Tế, họp Đại Hội Thế Giới kỳ thứ 73 tại thành phố Dakar, nước Sénégal từ ngày 4 đến 11 tháng 7 năm 2007,

Phiền trách rằng kể từ Đại Hội Văn Bút Quốc Tế kỳ thứ 72 ở Berlin, nước Đức, tình cảnh những nhà văn bị hành hạ, ngược đãi tại Việt Nam càng tệ hại thêm. Ba người cầm bút sau đây chỉ được ‘ân xá’ vì sức khoẻ của họ suy sụp nặng : Nhà văn Phạm Hồng Sơn, 38 tuổi, bị bắt tháng 3 năm 2002 và phóng thích tháng 8 năm 2006, nhà thơ Võ Lâm Tể (Vũ Đình Thụy), 59 tuổi, bị bắt năm 1979 và phóng thích tháng 4 năm 2007, và nhà báo viết tiểu luận Nguyễn Vũ Bình, 39 tuổi, bị bắt tháng 9 năm 2002 và phóng thích tháng 6 năm 2007. Hơn nữa, hai ông Nguyễn Vũ Bình và Phạm Hồng Sơn còn bị áp đặt quản chế 3 năm. Từ khi ra khỏi trại tù, ông Phạm Hồng Sơn bị hành hung và công an thẩm vấn nhiều lần.

Được báo động và công phẫn về một đợt trấn áp nhiêm trọng nhứt từ 20 năm qua, trong đó có ít nhứt 19 nhà văn, dân chủ đối kháng sử dụng Internet và người tranh đấu bênh vực quyền tự do phát biểu đã bị đối xử rất tàn nhẫn và giam cầm độc đoán. Một số người bị kết án tù nặng nề trong những vụ án không công minh.

Trong số nạn nhân có:
- Linh mục Nguyễn Văn Lý, 61 tuổi, chủ biên tạp chí Tự Do Ngôn Luận (bất hợp pháp), bị bắt ngày 19 tháng 2 năm 2007, bị kết án 8 năm tù và 5 năm quản chế ngày 30 tháng 3 năm 2007 về ‘tội tuyên truyền chống nhà nước’. Linh mục từng trải qua 15 năm tù giữa 1977 và 2005. Bốn cộng sự viên cũng bị kết án : hai ông Nguyễn Phong , 32 tuổi, 6 năm tù và Nguyễn Bình Thành, 51 tuổi, 5 năm tù; cô Hoàng Thị Anh Đào, 21 tuổi, 2 năm tù treo và bà Lê Thị Lệ Hằng, 44 tuổi, 18 tháng tù treo;
- Luật sư Trần Quốc Hiền, 42 tuổi, nhà dân chủ đối kháng sử dụng Internet, bị bắt ngày 12 tháng giêng năm 2007 và kết án 5 năm tù và 2 năm quản chế vì ‘tuyên truyền chống nhà nước’;
- Luật sư Lê Thị Công Nhân, 28 tuổi, nhà dân chủ đối kháng sử dụng Internet, hội viên luật sư đoàn Hà nội và Liên hiệp Quốc Tế Luật sư, và luật sư Nguyễn Văn Đài, 38 tuổi, chủ biên tạp chí ‘Tự Do và Dân Chủ’ (bất hợp pháp), cùng bị bắt ngày 6 tháng 3 năm 2007 và cùng bị kết án ngày 11 tháng 5 năm 2007, bà Lê Thị Công Nhân 4 năm tù và 3 năm quả n chế , ông Nguyễn Văn Đài 5 năm tù và 4 năm quả n chế vì ‘tuyên truyề n chống nhà nước’.

Ít nhứt có 9 nhà văn và dân chủ đối kháng sử dụng Internet, bị bắt từ tháng 8 năm 2006, còn bị giam cầm không truy tố và xét xử. Trong số tù nhân có: bà Trần Khải Thanh Thủy, cô Trần Thị Thùy Trang, các ông Lê Trung Hiếu, Trương Quốc Huy, Vũ Hoàng Hải, Nguyễn Ngọc Quang và Phạm Bá Hải.

Kinh ngạc và quan ngại trước những vụ hành hung cường bạo và cưỡng giam đối với các nhà văn nữ và dân chủ đối kháng sử dụng Internet, như trường hợp:
- Luật sư Bùi Kim Thành, 48 tuổ i, nhà dân chủ đối kháng sử dụng Internet, bị nhốt tại bệnh viện tâm thần Biên Hòa từ ngày 2 tháng 11 năm 2006, vì những hoạt động nghề nghiệp và những bài viết chỉ trích (chế độ);
- Nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, 47 tuổi, nhà giáo, nhà báo và nhà thơ, hội viên Hội nhà văn và Câu lạc bộ nhà thơ nữ Hà nội, bị bắt nhiều lần vì những bài viết chỉ trích (chế độ) từ tháng 9 năm 2006 và bị đưa ra ‘đấu tố’ tại một ‘tòa án nhân dân’. Bà bị quản thúc tại gia thật nghiêm ngặt. Bà bị bắt giữ và giam nhốt từ ngày 21 tháng 4 năm 2007 vì ‘tuyên truyề n chống nhà nước’. Bà Trần Khải Thanh Thủy mắc bệnh tiểu đường và bệnh lao phổi nặng;
- Nhà báo Dương Thị Xuân, 49 tuổi, nhà giáo, thư ký tòa soạn tạp chí Tự Do và Dân Chủ (bất hợp pháp), đã phải chịu nhiều sự sách nhiễu, hăm dọa và thẩm vấn từ tháng 8 năm 2006. Bị thương nặng trong một vụ tai nạn lưu thông dường như do một cảnh sát mặc thường phục gây ra ngày 29 tháng 10 năm 2006.

Thúc giục chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
- Phóng thích tức khắc và vô điều kiện tất cả những nhà văn và nhà báo bị giam nhốt vì đã hành sử quyền tự do phát biểu của họ;
- Chấm dứt tất cả những vụ hành hung, sách nhiễu và hăm dọa đối với những nhà văn và nhà báo độc lập. Như trường hợp bà Dương Th ị Xuân, các ông Lê Chí Quang , Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Trần Ngọc Nghiêm (Hoàng Minh Chính), Nguyễn Đan Quế, Đỗ Nam Hải, Nguyễn Xuân Tụ (Hà Sỹ Phu) , Bạch Ngọc Dương, Hoàng Tiến, Nguyễn Xuân Nghĩa, Trần Khuê, Nguyễ n Thanh Giang , cũng như gia đình họ;
- Cho phép những tù nhân đau yếu được vào bệnh viện, được săn sóc, điều trị thích hợp và được gia đình thân nhân thăm nom; và
- Bải bỏ kiểm duyệt cùng thu hồi tất cả các biện pháp hạn chế độc đoán đối với quyền tự do phát biểu và tự do báo chí.

Resolution on Viet Nam submitted by the Suisse Romand Centre and seconded by the Swiss German Centre and the Swiss Italian and Reto-romansh Centre.

The Assembly of Delegates of International PEN, meeting at its 73rd Congress in Dakar, Senegal, 4-11 July 2007,

Deploring that since the 73nd International PEN Congress in Berlin , Germany , the situation of persecuted writers in Viet Nam has further deteriorated. The writer Pham Hong Son , 38, arrested in March 2002, has been ‘amnestied’ in August 2006, the poet Vo Lam Te, 59, arrested in 1979, has been ‘amnestied’ in April 2007 and the journalist-essayist Nguyen Vu Binh , 39, arrested in September 2002, has been ‘amnestied’ in June 2007, only for serious health’s reasons. Moreover, Nguyen Vu Binh and Pham Hong Son have been placed under 3 years’ probationary detention. Since his liberation, Pham Hong Son has been subjected to several attacks and interrogation sessions by security police.

Alarmed and indignant by the fact that in the worst crackdown campaign for 20 years, at least 19 writers, cyberdissidents and defenders of freedom of expression have been violently attacked and detained arbitrarily. Some have been condemned to heavy prison sentences after unfair trials. They include:
- Nguyen Van Ly, 61, priest, editor of the clandestin review ‘Freedom of Expression’, arrested on 19 February 2007 and sentenced on 30 March 2007 to 8 years’ imprisonment and 5 years’ probationary detention for ‘spreading propaganda against the State’. He previously served 15 years in prison between 1977 and 2005. His co-editors have also been sentenced: Nguyen Phong , 32, and Nguyen Binh Thanh , 51, respectively to 6 and 5 years’ imprisonment; Hoang Thi Anh Dao (f), 21, and Le Thi Le Hang (f), 44, to 2 years and 18 months’ suspended imprisonment.
- Tran Quoc Hien, 42, lawyer and cyberdissident, arrested on 12 January 2007, sentenced on 15 May 2007 to 5 years’ imprisonment and 2 years’ probationary detention for ‘spreading propaganda against the State’;
- Le Thi Cong Nhan (f), 28, lawyer and cyberdissident, a barrister from Hanoi and member of International Association of Lawyers and Nguyen Van Dai , 38, lawyer and editor of the clandestin review ‘Freedom and Democracy’, arrested on 6 March 2007 and sentenced on 11 May 2007 to 4 and 5 years’ imprisonment and 3 and 4 years’ probationary detention respectively, for ‘spreading propaganda against the State’.

At least 9 Internet writers and dissidents have been arrested since August 2006 and remain detained without charge or trial. They include Tran Khai Thanh Thuy (f), Trân Thi Thuy Trang (f), Le Trung Hieu , Truong Quoc Huy , Vu Hoang Hai, Nguyen Ngoc Quang and Pham Ba Hai.

Appalled and concerned by violent attacks and forced confinement on women writers and cyberdissidents, including
-Bui Kim Thanh (f), 48, lawyer and cyberdissident, held in psychiatric detention at Bien Hoa mental hospital since 2 November 2006, for her legitimate professional activities and critical writings;
-Tran Khai Thanh Thuy (f), 47, teacher, woman writer and poet, journalist, member of the Union of Hanoi writers and the Club of Hanoi women poets. Arrested and harassed several times for her critical writings since September 2006, and reportedly subjected to trial by a ‘popular court’ and held under strict house arrest. On 21 April 2007, she was arrested and imprisoned on the charge of ‘spreading propaganda against the State’. Tran Khai Thanh Thuy is suffering from diabetes and advanced tuberculosis;
-Duong Thi Xuan (f), 49, teacher and journalist, editorial secretary of the clandestin review ‘Freedom and Democracy’, subjected to harassments, threats and interrogations since August 2006. Seriously injured in a street accident allegedly caused by a plain-clothes policeman, on 29 October 2006.

Urges the government of the Socialist Republic of Viet Nam
- to release immediately and unconditionally writers and journalists detained for having exercised their right to freedom of expression;
- to cease all attacks, harassments, intimidation and humiliation against independent writers and journalists. Including: Le Chi Quang, Nguyen Khac Toan, Pham Hong Son, Duong Thi Xuan (f), Tran Ngoc Nghiem, Nguyen Dan Que, Do Nam Hai, Nguyen Xuan Tu, Bach Ngoc Duong, Hoang Tien, Nguyen Xuan Nghia, Tran Khue, Nguyen Thanh Giang, and as well as their families;
- to allow sick prisoners to be hospitalized, to receive adequate medical care and visits from their families;
- to abolish censorship and to lift all arbitrary restrictions on freedom of expression and freedom of the press.

Résolution sur le Viêt Nam, soumise par le Centre Suisse Romand et appuyée par le Centre Suisse Allemand et le Centre Suisse Italien et Réto-Romanche.

L’Assemblée des Délégués de PEN International réunie à son 73ème Congrès Mondial à Dakar, Sénégal, du 4 au 11 juillet 2007,

Déplore que depuis le 73ème Congrès du PEN International à Berlin, en Allemagne, la situation des écrivains persécutés au Viet Nam s’est encore détériorée. L'écrivain Pham Hong Son, 38 ans, arrêté en mars 2002, a été 'amnistié' en août 2006, le poète Vo Lam Te, 59, arrêté en 1979, a été 'amnistié' en avril 2007 et le journalise-essayiste Nguyen Vu Binh, 39, arrêté en septembre 2002, a été 'amnistié' en juin 2007, seulement pour de sérieuses raisons de santé. De plus, Nguyen Vu Binh et Pham Hong Son ont été mis en détention probatoire pour 3 ans. Depuis sa libération, Pham Hong Son a été sujet à plusieurs agressions et séances d’interrogations par la police de sécurité.

Alarmée et indignée par le fait que, dans la plus grave campagne de répression depuis 20 ans, au moins 19 écrivains, cyberdissidents et défenseurs de la liberté d’expression ont été brutalisés et détenus arbitrairement. Certains d’entre eux ont été condamnés à de lourdes peines de prison à la suite des procès inéquitables. Entre autres:
- Nguyen Van Ly, 61 ans, prêtre, rédacteur de la revue clandestine ‘Liberté d’Opinion’, arrêté le 19 février 2007 et condamné le 30 mars 2007 à 8 ans de prison et 5 ans de détention probatoire pour ‘propagande contre l’Etat’. Il avait déjà purgé 15 ans de prison entre 1977 et 2005. Ses collaborateurs ont aussi été condamnés: Nguyen Phong, 32 ans, et Nguyen Binh Thanh, 51 ans, respectivement à 6 et à 5 ans de prison; Hoang Thi Anh Dao (f), 21 ans et Le Thi Le Hang (f), 44 ans, à 2 ans et à 18 mois de prison en sursis.
- Tran Quoc Hien, 42, avocat et cyberdissident, arrêté le 12 January 2007 et condamné le 15 mai 2007 à 5 ans de prison et 2 ans de détention probatoire pour ‘propagande contre l’État’;
- Le Thi Cong Nhan (f), 28 ans, avocate et cyberdissidente, membre du barreau de Hanoi et de l’Union Internationale des Avocats et Nguyen Van Dai, 38 ans, avocat et rédacteur de la revue clandestine ‘Liberté et Démocratie’, arrêtés le 6 mars 2007 et condamnés le 11 mai 2007 à 4 et 5 ans de prison et 3 et 4 ans de détention probatoire respectivement, pour ‘propagande contre l’Etat’.

Au moins 9 écrivains et cyberdissidents, arrêtés depuis août 2006, restent en détention sans inculpation ni jugement. Entre autres, Tran Khai Thanh Thuy (f), Tran Thi Thuy Trang (f). Le Trung Hieu, Truong Quoc Huy, Vu Hoang Hai, Nguyen Ngoc Quang et Pham Ba Hai.

Consternée et inquiète par des attaques violentes et internement forcé visant des écrivaines et cyberdissidentes, dont
- Bui Kim Thanh (f), 48 ans, avocate et cyberdissidente, internée dans l’hôpital psychiatrique de Bien Hoa depuis le 2 novembre 2006, pour ses activités professionnelles et ses écrits critiques;
- Tran Khai Thanh Thuy (f), 47 ans, enseignante, journaliste, écrivaine et poète, membre de l’Union des écrivains et du Club des femmes poètes de Hanoi. Arrêtée plusieurs fois pour ses écrits critiques depuis septembre 2006 et soumise à un jugement d’un ‘tribunal populaire’. Elle était en résidence étroitement surveillée. Depuis le 21 avril 2007, elle a été arrêtée et emprisonnée pour ‘propagande contre l’Etat’. Tran Khai Thanh Thuy souffre du diabète et de la tuberculose avancée;
- Duong Thi Xuan (f), 49 ans, enseignante et journaliste, secrétaire de rédaction de la revue clandestine ‘Liberté et Démocratie’, a été soumise à des harcèlements, menaces et interrogations. Grièvement blessée dans un accident de rue provoqué, paraît-il, par un policier en civil le 29 octobre 2006.

Demande instamment au gouvernement de la République Socialiste du Viet Nam

- de relâcher sans délai et sans condition tous les écrivains et journalistes détenus pour avoir exercé leur droit à la liberté d’expression;
- de cesser toutes les attaques et tous les harcèlements et menaces à l’encontre des écrivains et journalistes indépendants. Entre autres: Le Chi Quang, Nguyen Khac Toan, Pham Hong Son, Duong Thi Xuan (f), Tran Ngoc Nghiem, Nguyen Dan Que, Do Nam Hai, Nguyen Xuan Tu, Bach Ngoc Duong, Hoang Tien, Nguyen Xuan Nghia, Tran Khue, Nguyen Thanh Giang, ainsi que leurs familles;
- de permettre aux prisonniers en mauvaise santé d’être hospitalisés, de recevoir des soins médicaux adéquats et des visites de leurs familles; et
- d’abolir la censure et de lever toutes restrictions arbitraires sur la liberté d’expression et la liberté de la presse.

Người Cày Có Ruộng! Hãy Trả Lại Ruộng Đất Canh Tác Cho Người Dân Cày!

Cái mệnh đề "Người Cày Có Ruộng!" có một ý nghĩa chính xác của nó là "Hãy Trả Lại Ruộng Đất Canh Tác Cho Người Nông Dân Thực Sự Đang Canh Tác!

Lịch sử nông nghiệp tổng quát ở các nước trên thế giới cho thấy ruộng đất canh tác là nguồn sống duy nhất của những người nông dân nghèo. Ruộng đất canh tác được hôm nay là xương máu của những người nông dân nghèo đã đi khẩn hoang. Ruộng đất canh tác được hôm nay là kết quả của những giọt mồ hôi những dòng nước mắt, và đôi khi là sinh mạng của những thân nhân trong những gia đình của người nông dân nghèo trong thời kỳ khai hoang ngày xưa. Ruộng đất canh tác được hôm nay có một số lượng nhiều như vậy không phải là quá dễ dàng trong một thời gian tương đối ngắn và mau chóng để các đại địa chủ thu tóm hết số đất đai vào trong tay của họ. Các cuộc tranh chấp ruộng đất canh tác giữa những đại địa chủ và những người nông dân nghèo đã thường xảy ra với nhiều cảnh tượng máu đổ đầu rơi gông cùm tù đầy ở một thuở xa xưa, và với những hình ảnh võ trang phản kháng, biểu tình chống đối bạo động và bất bạo động của những người nông dân nghèo bị cướp ruộng mất nhà phải nổi lên chống lại đại địa chủ trong nửa thế kỷ vừa qua, sau Thế Chiến Thứ Hai. "Người Cày Có Ruộng" đã là một câu khẩu hiệu vang dội thúc đẩy hầu hết người nông dân Việt Nam nghèo mạnh mẽ cầm lấy những ngọn tầm vông những cây mã tấu đánh lại những đại địa chủ Việt Nam và thực dân Pháp ở Việt Nam để đòi hỏi có được quyền sở hữu ruộng đất canh tác mà sinh sống.

Để ứng phó với tính cách bức thiết của vấn đề ruộng đất canh tác cho người nông dân nghèo, ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương những nước tự do như Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, Phi Luật Tân, Thái Lan, và Việt Nam Cộng Hoà (trước năm 1975) đều có những chương trình Cải Cách Nông Nghiệp, Phát Triển Nông Thôn, và Luật Người Cày Có Ruộng được thực hiện một cách rất thành công.

Cụ thể là chương trình Người Cày Có Ruộng được Douglas MacArthur thực hiện ở Nhật Bản, Chiang Kai-Shek-Tưởng Giới Thạch thực hiện ở Đài Loan, Syngman Rhee thực hi ện ở Nam Hàn, Nguyễn Văn Thiệu thực hiện ở Việt Nam Cộng Hoà (Miền Nam Việt Nam) trong thời gian 1970-1973; ở Thái Lan vào những 1997-2001; ở Phi Luật Tân vào những năm 1972-1980 qua những công cuộc tái-phân-phối ruộng đất cho đồng đều và xác nhận quyền sở hữu ruộng đất canh tác này căn cứ trên nguyên tắc người nông dân thực sự trực tiếp canh tác trên diện tích ruộng đất đã xác định được quyền làm chủ đất . Giải pháp Người Cày Có Ruộng đã thực sự mang lại những kết quả tốt của sự phát triển nông thôn và ổn định xã hội nông nghiệp.

Riêng ở nước Việt Nam Cộng Hoà (miền Nam Việt Nam) trong những năm 1970- 1973, đã phân phối 3,285,000 mẫu ruộng đất canh tác cho 1,000,000 gia đình nông dân nghèo. Mặc dù trong thời gian này cho tới tháng 4 năm 1975, ở miền Nam vẫn còn xảy ra những cuộc xung đột võ trang giành dân lấn chiếm đất của cả hai phe lâm chiến, nhưng phát triển kinh tế nông thôn của Việt Nam Cộng Hoà đã gia tăng 30% sản lượng nông nghiệp.

Vấn đề tham nhũng đã có xảy ra ở bất cứ một xã hội nào và có được giải quyết dứt khoát một cách thoả đáng hay không. Thí dụ như ở Phi Luật Tân, chính quyền của Tổng thống Marcos đã bị cáo buộc về tội tham nhũng các món tiền đô la viện trợ cho chương trình Người Cày Có Ruộng đã khiến cho chương trình này có tiếng mà không có miếng. Chính vì chương trình Cải Cách Điền Địa không có thực chất, Marcos đã bị thất cử tổng thống Phi và đã bị truy tố trước pháp luật của nước Phi về tội tham nhũng (?)

Theo tài liệu thống kê của Học Viện Nghiên Cứu Phát Triển Nông Thôn-Rural Development Institute thì Miền Nam Việt Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã đang có một hệ thống giao thông cầu đường được các đơn vị công binh Mỹ và công binh VNCH sửa chữa hoàn thiện. Miền Nam Việt Nam có một nền nông nghiệp rất khác với miền Bắc Việt Nam là hơn 80% các hộ nông dân đã được tư sản trung nông hoá hoàn toàn. Phương thức sản xuất nông nghiệp kiểu phong kiến đã bị xoá sạch. Những phương pháp canh tác mới có tiến bộ kỷ thuật đã được áp dụng để gia tăng năng suất.

Sau khi hoàn tất chương trình Người Cày Có Ruộng, nước Việt Nam Cộng Hoà đã có 80% tư sản trung nông hoá và thành phần nông dân này là lực lượng chính của sản xuất nông nghiệp của Miền Nam Việt Nam. Trong số 80% được tư sản trung nông hoá này chắc chắn phải có một số không ít gia đình thân nhân của các đảng viên CSVN.

Ở miền Nam Việt Nam trước 1975 có khoảng 20% là phú nông và tư sản trung nông giàu sở hữu chừng 10% ruộng đất canh tác. Số người nông dân giàu có này ngoài việc canh tác số ruộng đất sau khi đã truất hữu còn lại, họ cũng kinh doanh các dịch vụ cơ khí nông nghiệp, lưu thông nông sản phẩm, chế biến nông sản phẩm trong một môi trường thương nghiệp nông thôn và lao động nông nghiệp rất tự do.

Trình bày sơ lược qua tình hình nông nghiệp của Miền Nam Việt Nam vào thời điểm trước tháng 4 năm 1975 như trên để cho thấy những người CSVN khi vi phạm Hiệp Định Paris 1973 để cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam, họ đã cưỡng đoạt một nền nông nghiệp cơ khí hoá khá phát triển với một sản lượng nông nghiệp rất cao trong vùng Đông Nam Á.

Không kể đến những người dân thành thị Miền Bắc Việt Nam đã tròn xoe đôi mắt khi được trông thấy tận mắt những thành phố Miền Nam. Những người nông dân của Miền Bắc Việt Nam, từng quen thuộc với phương thức sản xuất nông nghiệp của các hợp tác xả, các tập đoàn sản xuất nông nghiệp sở hữu tập thể, đã phải ngạc nhiên thích thú khi được biết là người nông dân Miền Nam tự do canh tác ruộng đất của mình, đi cày bằng những con trâu của chính mình, hoặc thuê mướn một xe máy cày lớn, hoặc sở hữu một chiếc xe máy cày nhỏ chế tạo tại Đài Loan hay Nhật Bản. Còn vấn đề lúa giống và phân bón, hay vốn liếng để làm vụ mùa thì có Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp giúp đỡ cho vay.

Tiếc thay tất cả những nguồn lợi ích nêu trên đều bị huỷ hoại trong tay của những người CSVN khi họ cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam. Người CSVN chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp của Miền Nam bằng hình thức hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, người nông dân phải lao động tập thể.

Người CSVN thực hiện công cuộc tập thể hoá nông nghiệp là nhằm ngăn chặn khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa ở nông thôn. Họ đã muốn tạo ra một sự thuần nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa ở cả hai miền Nam-Bắc với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể.

Người CSVN nhận định: "Chế độ tiểu nông hàng ngày hàng giờ sinh ra chủ nghĩa tư bản" . "Còn chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lối làm ăn riêng lẻ thì vẫn còn cơ sở vật chất và điều kiện xã hội cho khuynh hướng tư bản chủ nghĩa tự phát nảy nở" .

Người CSVN phải tiến hành tập thể hoá triệt để ruộng đất, tổ chức lại sản xuất theo hình thức lao động tập thể, chặn đứng con đường tư bản chủ nghĩa ở nông thôn. Hơn nữa, phải tập trung sức lao động, tư liệu sản xuất của bần nông và trung nông lại để xây dựng một phương thức sản xuất mới, một sự phân công lao động mới.

Trong khi ấy thực tế ở Miền Nam Việt Nam đã không còn có BẦN NÔNG! Có chăng nó chỉ là tên gọi của một giai cấp ở nông thôn để chỉ rõ thành phần đảng viên

Người CSVN đã áp dụng đường lối giai cấp ở nông thôn: "Dựa hẳn vào bần nông ... đi đến xoá bỏ sự bóc lột kinh tế của phú nông, cải tạo tư tưởng phú nông, ngăn ngừa địa chủ ngóc đầu dậy ...".

Ruộng đất canh tác tập thể hoá được đặt dưới sự quản lý và sử dụng của Ban Quản Trị Hợp Tác Xã, mà ban quản trị chủ yếu được chọn từ những thành phần Bần Cố Nông, là đảng viên CSVN. Như vậy có nghĩa là ruộng đất canh tác của người nông dân Miền Nam Việt Nam đã có được do từ chương trình Người Cày Có Ruộng của TT Thiệu trong những năm 1970-1973 lại bị tập thể hoá đưa vào các tập đoàn sản xuất nông nghiệp.

Lịch sử đã cho thấy những mô hình kinh tế nông nghiệp tập thể hoá tập trung cao độ như chương trình "Chuẩn Bị Đi Vào Chủ Nghĩa Cộng Sản" của Liên Xô, hoặc là chương trình "Bước Đại Nhảy Vọt" của Trung Cộng đã đều bị thất bại thê thảm. Thế mà những người CSVN lại đi bắt chước làm theo y nguyên như thế!!

Sau đây là nguyên văn lời nhận định của Báo Điện Tử Đảng CSVN, cơ quan trung ương của đảng CSVN:

"Mô hình sở hữu tập thể có nhiều sai trái, yếu kém, chậm được phát hiện, sửa chữa. Vì vậy, sau ba năm xác lập mô hình sở hữu tập thể cho thấy: việc tập thể hoá triệt để ruộng đất tất yếu dẫn đến tập thể hoá triệt để sức lao động và các tư liệu sản xuất khác của nông dân. Cách làm đó đã biến nông dân từ người làm chủ ruộng đất trở thành người làm công cho ban quản trị hợp tác xã - những người chưa đủ khả năng và kinh nghiệm quản lý.

Trong phương pháp tiến hành tập thể hoá, nông dân từ chỗ là một lực lượng sản xuất xã hội, một tiềm năng kinh tế to lớn trở thành đối tượng cải tạo, vì vậy đã triệt tiêu tính năng động, sáng tạo của họ trong sản xuất" !!!!!

Trong quá trình tập thể hoá, người CSVN đã coi việc phân biệt lợi ích kinh tế trên đất đai của những gia đình nông dân là không cần thiết, nên dẫn đến tình trạng cắt đất xâm canh và xáo canh diễn ra hết sức phức tạp ở nông thôn Miền Nam Việt Nam.

Việc điều chỉnh ruộng đất theo cách làm như trên, người CSVN đã vi phạm lợi ích của người nông dân ở miền Nam, đặc biệt là những tư sản trung nông - thành phần chính yếu của sản xuất nông sản phẩm ở miền nam. Thành phần trung nông này có vốn, phương tiện lao động và kinh nghiệm sản xuất. Họ tiêu biểu cho lực lượng sản xuất nông nghiệp đã đang phát triển mạnh ở nông thôn miền Nam trước năm 1975.

Người CSVN đã điều chỉnh sở hữu ruộng đất canh tác nhiều lần dẫn đến bình quân, xoá xâm canh, gây ra xáo canh. Họ đã làm cho quá trình sản xuất nông nghiệp và phân công lao động nông nghiệp bị biến động rất lớn. Ở nhiều nơi những người CSVN có chức có quyền chia ruộng đất cho cả những người hoạt động trong các lãnh vực phi-nông-nghiệp. Nói theo luận điệu nguỵ biện gian xảo của người CSVN là "việc họ tách ra khỏi sản xuất nông nghiệp lại chính là kết quả tiến bộ của quá trình phân công lao động xã hội." Như vậy những người "phi-nông-nghiệp" này là ai mà họ được đảng CSVN chia cho ruộng đất và "việc họ tách ra khỏi sản xuất nông nghiệp lại chính là kết quả tiến bộ của quá trình phân công lao động xã hội." Các chức vụ Thành Uỷ, Tỉnh Uỷ, Huyện Uỷ, Xã Uỷ, Phường Uỷ, Quân Uỷ, các cấp uỷ đủ loại của đảng CSVN là quá trình phân công lao động xã hội của đảng CSVN.Như vậy tính cách chiếm hữu ruộng đất canh tác của người nông dân miền Nam đã xảy ra từ năm 1976 tới nay càng lúc càng thêm phức tạp vì đã có tính chất tham lam nhập nhằng chồng chéo che giấu tài sản của người CSVN.

Những khiếu kiện của người nông dân bị tước đoạt ruộng đất không được giải quyết dứt khoát thoả đáng đã kéo dài quá nhiều năm. Ông Hồ Chí Minh nằm trong lăng mộ kia cũng phải trở mình thở dài ngao ngán, "nếu nước nhà độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì". Và chính ông Hồ cũng đã từng hô vang vang khẩu hiệu "Người Cày Có Ruộng" để vận động nông dân tham gia cuộc chiến tranh chống thực dân.

Chẳng lẽ đối với người CSVN câu khẩu hiệu "Người Cày Có Ruộng" là một lời bịp bợm lừa gạt những người nông dân Việt Nam chất phác suốt đời sống gắn chặt với đất đai ruộng vườn của mình.

"NGƯỜI CÀY CÓ RUỘNG" có nghĩa chính xác là HÃY TRẢ LẠI RUỘNG ĐẤT CANH TÁC CHO NGƯỜI NÔNG DÂN THỰC SỰ ĐANG CANH TÁC!

Và nói theo Tiến Sĩ Đặng Hùng Võ là "Tham Nhũng Đất Đai Là Tham Nhũng Xương Máu Của Nhân Dân Việt Nam".

Những người CSVN hãy nghiêm túc thực hiện nội dung của câu khẩu hiệu "NGƯỜI CÀY CÓ RUỘNG" để người nông dân Việt Nam không cho rằng “những người CSVN cứ oang oang cái miệng nói một câu khẩu hiệu gian xảo bịp bợm”./.

Dr. Tristan Nguyễn, San Francisco 22.7.2007
(@vietvungvinh.com)

Quốc hội do “đảng cử dân bầu”, nhà nước do “đảng bảo quốc hội gật”

Phiên họp đầu tiên của Quốc hội “đảng cử dân bầu” Khóa 12 vừa bế mạc hôm 23/7 với những kết quả không làm ai ngạc nhiên vì nó đúng như những dự đoán của tất cả mọi người ngay trước khi phiên họp này khai mạc. Trái ngược với những tin tức về dân oan biểu tình tại Sài Gòn vừa qua đã không được đề cập đến, dù chỉ là vài dòng ngắn ngủi, thì những tin tức chung quanh phiên họp Quốc hội này đã được các tờ báo quốc doanh khai thác tối đa và cho chạy tít lớn trên các trang chính.

“Đảng đã thay mặt nhân dân cả nước giao cho chúng tôi trọng trách”!

Kết quả đầu tiên là Nguyễn Phú Trọng “tái” đắc cử chức chủ tịch Quốc hội. Ngay sáng 23/7, sau khi được tuyên bố “trúng cử” với 97,97% số phiếu hợp lệ (vậy là có vài phiếu “không hợp lệ”!), Nguyễn Phú Trọng đã nói rằng: "Cảm ơn vì sự tín nhiệm của QH, chúng tôi nhận thức sâu sắc rằng bằng lá phiếu của mình, các đại biểu QH đã thay mặt nhân dân cả nước giao cho chúng tôi trọng trách vô cùng lớn lao". Không hiểu các ông bà đại biểu QH nào đã thay mặt nhân dân cả nước trao cho Nguyễn Phú Trọng cái “trọng trách” đó? Ðúng ra thì Trọng nên nói là “Đảng đã thay mặt nhân dân cả nước giao cho chúng tôi trọng trách” vì ai cũng biết các đại biểu Quốc hội là do Ðảng đưa ra hoặc do Ðảng chấp nhận mới được ra ứng cử.

Theo bài bản đã định sẵn được các cơ quan báo chí truyền thông quốc doanh đưa tin, lần lượt 4 phó chủ tịch Quốc hội cũng được nêu tên là: Nguyễn Đức Kiên (đắc cử với tỷ lệ 96,75%); Uông Chu Lưu (93,91%); Huỳnh Ngọc Sơn (92,49%); Tòng Thị Phóng (91,08%). Những con số tỷ lệ đắc cử 91, 92, 93, 96 … rất đẹp, rất khéo vẽ chỉ có thể có trong những quốc gia độc tài nơi mà các kết quả bầu cử đã được xếp đặt trước.

Tiếp tục trò hề “đảng bảo quốc hội gật”, Trọng đã thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội đọc tờ trình danh sách đề cử để các đại biểu bầu Chủ tịch nước. Danh sách do Chủ tịch Quốc hội đọc chỉ vỏn vẹn có ... 1 ứng viên duy nhất là Nguyễn Minh Triết và đương nhiên là Triết đã được tái đắc cử vào vị trí này với một kết quả hết sức "khiêm nhường" là 98.78% tức là 487 phiếu trên tổng số 490 phiếu, vì phải trừ đi 3 phiếu của Tổng Bí thư (Mạnh), Chủ tịch Quốc hội (Trọng) và của chính Triết (Chủ tịch nước) !

Phát biểu nhậm chức, Triết nói "Tôi sẽ cùng vui với cái vui của mọi người đồng thời cũng chia sẻ những nỗi buồn, những nỗi đau của người dân. Tôi sẽ làm hết sức mình để sớm vơi đi những nỗi đau đó".

Mới cách đây có hơn 5 ngày thôi, hàng ngàn dân oan dãi nắng dầm mưa ngồi chờ đợi ở trước văn phòng QH2 mà có thấy Triết đến để “chia sẻ những nỗi buồn, những nỗi đau của người dân” đâu? Hay là Triết ghiền coi bóng đá cúp châu Á nên không biết ?

Báo chí quốc doanh cũng không quên khoe giùm Triết có bằng cử nhân toán (dưới thời ... "chế độ Ngụy"!). Thật ra Triết bỏ học ngang rồi vào bưng theo VC, thì làm sao mà xong được cử nhân Toán?. Và không biết có phải vì “nặng nợ” với cái “chế độ Ngụy” đã cho Triết có cơ hội “ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản” để đi học đại học không, mà Triết đã “cảm tác” ra hai câu thơ đọc ngay giữa nghị trường:

“Chúng mình nặng nợ Quốc Gia.
Quyết làm rạng rỡ nước nhà Việt Nam” (VietNamNet)

Sau khi được Quốc hội “chấp thuận” với 98,78% phiếu, thì tới phiên Nguyễn Minh Triết đọc tờ trình giới thiệu danh sách đề cử để QH bầu các chức vụ Phó chủ tịch nước, Thủ tướng, Chánh án TAND Tối cao và Viện trưởng Viện KSND. Vừa được tái đắc cử chức Chủ tịch nước xong là Triết có ngay sẵn tờ trình để đọc trước nghị trường, đề cử ra các chức vụ linh tinh khác. Ðiều này chứng tỏ rõ ràng là Triết đã biết trước và biết chắc chắn mình sẽ tái đắc cử. Một sự dàn cảnh vô cùng vụng về.

98.78% là chưa tính đến 3 phiếu của bác Mạnh, thằng Dũng và tui đó!

Chức Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được giao cho Trần Quốc Vượng (nguyên là Phó Viện trưởng thường trực Viện kiểm sát nhân dân tối cao); trong khi vị trí Chánh án Toà án nhân dân tối cao thì được giao cho Trương Hoà Bình, người Long An (là Thứ trưởng Bộ Công an). Được biết tên Trương Hòa Bình (có bí danh là Sáu Đạt, được thăng trung tướng cách đây 3 tháng) là người được đảng CSVN dự trù kiêm thêm chức Chủ tịch Liên Đoàn VoViNam Việt Võ Đạo Việt Nam, một tổ chức do CSVN dựng nên để thâu tóm hết các võ đường trên thế giới của phái võ dân tộc cổ truyền này về dưới trướng của đảng.

Sáng Thứ Tư 25/7 thì Nguyễn Tấn Dũng được Quốc hội "bầu" vào chức vụ Thủ tướng với tỷ số phiếu thuận 96.96%. Cựu du kích gốc Cà Mau này được giới thiệu là có bằng cử nhân luật, nhưng không cho biết là bằng cử nhân do trường đại học nào cấp và vào năm nào, đã trúng cử đại biểu QH khóa 12 tại Hải Phòng. Anh cựu du kích này giỏi và chịu khó thật, người quê quán ở mũi Cà Mau miền Nam mà lặn lội ra ứng cử tận thành phố Hải Phòng ngoài miền Bắc xa xôi, Dũng không phải là người điạ phương Hải Phòng mà được cử tri Hải Phòng “tín nhiệm” với tỷ lệ 99%!

Báo VnExpress cũng không quên bốc thơm ông Thủ tướng là “một nhà kỹ trị và có hiểu biết về kinh tế” đang tìm cách đưa “nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN tham gia tích cực vào kinh tế thế giới”.

Như đã được dự đoán từ 3 tháng trước đây, Nguyễn Thị Doan, đại biểu Hà Nam, được Ðảng cho thay thế Trương Mỹ Hoa trong vai trò phó chủ tịch nước với một tỷ lệ chấp thuận 72% rất khiêm nhường.

Quốc hội thì do “đảng cử dân bầu”, còn nhà nước thì do “đảng bảo quốc hội gật” với kết quả đắc cử toàn là những con số gần như tuyệt đối!

Lê Minh Úc (25/07/2007)