Hiển thị các bài đăng có nhãn Chính trị - Xã hội. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chính trị - Xã hội. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 27 tháng 8, 2007

Phải phản đối mạnh Nguyễn Tấn Dũng!

“… Sự nghiệp của ông là một bất công lớn đối với chính các đảng viên cộng sản khác, một chuỗi dài những gian dối và tội ác, và chính bàn tay ông ta cũng đẫm máu …”

Có một điều rất nghịch lý cần được nói ra để tránh một sai lầm tai hại: cộng đồng người Việt tại Mỹ đã biểu tình mạnh mẽ phản đối Nguyễn Minh Triết khi ông này sang Mỹ cuối tháng 6 vừa qua nhưng lại có vẻ chưa chuẩn bị gì để biểu tình phản đối Nguyễn Tấn Dũng dù ông này cũng sắp tới Mỹ. Phải nói rõ: giữa hai ông Triết và Dũng người đáng và cần biểu tình phản đối mạnh mẽ là Nguyễn Tấn Dũng chứ không phải Nguyễn Minh Triết.

Chính Nguyễn Tấn Dũng mới là người nhiều quyền lực nhất hiện nay, vượt xa cả Nông Đức Mạnh lẫn Nguyễn Minh Triết.

Chính Nguyễn Tấn Dũng chứ không phải Nguyễn Minh Triết là người quyết định đợt đàn áp thô bạo những người dân chủ bắt đầu từ Tết Đinh Hợi, tác giả của những vụ xử án lỗ mãng trong đó can phạm không có luật sư, không được tự bào chữa và còn bị bịt miệng.

Chính Nguyễn Tấn Dũng là người cầm đầu khuynh hướng Đỗ Mười – Lê Đức Anh dựa vào Trung Quốc, nhắm mắt để Trung Quốc lấn chiếm đất và biển với ý đồ duy nhất là kéo dài chế độ độc tài đảng trị.

Nguyễn Tấn Dũng là một con người vô học, thủ cựu, gian ác, nguy hiểm.

Đã hơn một năm từ ngày ông Nguyễn Tấn Dũng trở thành thủ tướng, đồng thời cũng là nhân vật quyền lực nhất trong Đảng Cộng SảnViệt Nam, nhờ được sự đỡ đầu của hai ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh, mà dư luận gọi là "đảng MA" bằng cách ghép tên hai ông này nhưng đồng thời cũng để nói lên hai bản chất của sự liên kết giữa hai nhân vật này: cầm quyền trong bóng tối và hành động bất chính. Bộ máy tuyên truyền của đảng cộng sản tô vẽ Nguyễn Tấn Dũng như một người trẻ, có kiến thức hiện đại, tiến bộ, cởi mở, bộc trực, dám nói, dám làm. Chiến dịch tuyên truyền này phần nào đã thành công. Có khá nhiều người đã có cảm tình với Nguyễn Tấn Dũng và cảm tình này vẫn còn dai dẳng dù ông Dũng không thực hiện được một lời hứa nào và còn làm ngược lại những gì người ta có thể chờ đợi: dung dưỡng và bao che tham nhũng, đàn áp những người dân chủ một cách thô bạo, sang chầu trực thường xuyên quan thày Bắc Kinh, im lặng hèn nhát khi hải quân Trung Quốc bắn chết ngư dân Việt Nam tại Trường Sa, làm ngơ khi các công ty Trung Quốc ở Quảng Tây lập chi nhánh trên lãnh thổ Việt Nam một cách tự nhiên mà không cần xin phép.

Nguyễn Tấn Dũng là ai?

Theo tiểu sử chính thức của ông thì ông là con của tướng Nguyễn Tấn Minh nhưng cả nước biết ông mồ côi cha rất sớm và trở thành con nuôi của ông Lê Đức Anh. Ông sinh ngày 17/11/1949 tại thị xã Cà Mau và đúng ngày sinh nhật thứ 12, tức ngày 17/11/1961, gia nhập quân đội cộng sản, làm giao liên, cứu thương, y tá, rồi bộ binh và công an. Chi tiết này đáng chú ý: theo công pháp quốc tế việc tuyển dụng thiếu nhi vào quân đội là một tội ác, cuộc đời Nguyễn Tấn Dũng đã bắt đầu một cách bệnh hoạn, rất trái ngược với giáo dục mà một người lãnh đạo quốc gia hiện đại phải có.

Tiểu sử chính thức của ông đã rất mơ hồ trong giai đoạn 1961 – 1981. Chỉ thấy nói ông được thăng lên cấp bậc thiếu tá bộ binh vào tháng 9/1981, lúc 32 tuổi. Không thấy nói vào ngày 30/4/1975 ông có cấp bậc nào và giữ chức vụ gì. Các nguồn tin đáng tin cậy cho biết lúc đó ông chỉ là một hạ sĩ quan công an. Sự nghiệp của ông chỉ bắt đầu thăng tiến tốc hành khi cha nuôi của ông, tức ông Lê Đức Anh, lọt mắt xanh của Lê Đức Thọ và được thăng chức vùn vụt từ đại tá năm 1974 lên đại tướng năm 1979.

Tiểu sử chính thức của Nguyễn Tấn Dũng càng mơ hồ, và phải nói thẳng là dối trá, trong giai đoạn 1981 – 1994. Chỉ thấy nói ông được đi học trường đảng Nguyễn Ái Quốc, nhưng lúc nào và trong bao lâu? Lại thấy ghi là ông đậu cử nhân luật, nhưng học ở đâu và bao giờ? Sự thực là Nguyễn Tấn Dũng chỉ được gửi đi học trường đảng Nguyễn Ái Quốc cho có lệ, như một thủ tục bắt buộc của các cán bộ trẻ muốn được vào trung ương đảng chứ Nguyễn Tấn Dũng chẳng học hành gì cả. Thực tế ông là một mẫu người cán bộ không có học vấn như những lãnh tụ cộng sản trước ông. Về điểm này Nguyễn Tấn Dũng rất khác với Nguyễn Minh Triết, một người có học vấn thực sự.

Trong giai đoạn 1981 – 1993 này Nguyễn Tấn Dũng lên chức ào ạt nhờ Lê Đức Anh đã trở thành cánh tay mặt của Lê Đức Thọ. Ông lên tới cấp bậc trung tướng và trở thành thứ trưởng thứ nhất bộ công an. Điều dối trá của tiểu sử chính thức là nó đã mô tả Nguyễn Tấn Dũng như một cán bộ làm công tác đảng và công tác hành chính. Thực sự thì trong giai đoạn 1981 – 1987 Nguyễn Tấn Dũng là trưởng công an huyện Hà Tiên và được giao một công tác cực kỳ quan trọng: làm kinh tài cho đảng bằng cách tổ chức buôn lậu tại của biển Hà Tiên. Những ai từng ở Rạch Giá trong giai đoạn này đều đã thấy mỗi đêm cửa biển Hà Tiên rực sáng vì hàng ngàn thuyền buôn lậu Thái Lan đến đậu ngoài khơi với đủ thứ hàng chờ các thuyền con từ đất liền ra "ăn hàng". Trong thời gian này Nguyễn Tấn Dũng cũng đã lập một thành tích lớn và được phong "anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân" nhờ gài bẫy bắt được Trần Văn Bá, cũng về cửa biển Hà Tiên buôn lậu lấy tài chính cho tổ chức kháng chiến Lê Quốc Túy.

Cần lưu ý là trước đó, trong các năm 1976 – 1977 Nguyễn Tấn Dũng, dưới lệnh của Võ Văn Kiệt và Võ Viết Thanh cùng đã tham gia vào một tội ác đẫm máu khác: thành lập tổ chức kháng chiến giả mang tên là «Đảng Việt Nam Phuc Quốc» để gài bẫy bắt những thanh niên miền Nam chống chế độ cộng sản. Hàng ngàn thanh niên đã sa lưới, và dù họ chỉ là những thanh niên ngây thơ bị mắc lừa nhiều người đã bị xử bắn.

Cũng cần lưu ý là tham nhũng đã lên rất cao trong giai đọan 2001 – 2006, nhiệm kỳ 9 của Ban Cháp hành trung ương ĐCSVN. Trong giai đoạn này Nguyễn Tấn Dũng là ủy viên bộ chính trị và phó thủ tướng trực, quyền hành vượt hẳn ông thủ tướng mờ nhạt Phan Văn Khải. Chính Nguyễn Tấn Dũng phải chịu trách nhiệm lớn nhất về quốc nạn tham nhũng, nhưng hiện nay ông ta lại trâng tráo tự xưng là một người quyết tâm chống tham nhũng.

Tóm lại sự nghiệp của Nguyễn Tấn Dũng là sự nghiệp của một con ông cháu cha trong đảng, không trải qua gian nguy, không đạo đức và cũng chẳng có kiến thức và khả năng nào, nhưng đã được áp đặt vào địa vị lãnh đạo tối cao không khác gì một thái tử dưới các chế đô quân chủ. Sự nghiệp của ông là một bất công lớn đối với chính các đảng viên cộng sản khác, một chuỗi dài những gian dối và tội ác, và chính bàn tay ông ta cũng đẫm máu. Trong kế hoạch chuẩn bị đưa ông lên cầm quyền đảng MA đã nhiều khi có những biện pháp thách đố như đưa ông lên làm thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước dù ông hoàn toàn không biết gì về kinh tế tài chính. Nguyễn Tấn Dũng còn tệ hơn nhiều so với Đỗ Mười và Lê Đức Anh vì ít ra những vị này còn có đởm lược, còn vào sinh ra tử. Những người có bản lãnh còn hy vọng có thể dám sửa sai khi nhận ra sự lầm lẫn: những sản phẩm của những đặc ân và gian trá như Nguyễn Tấn Dũng chỉ có thể cố thủ trong sự gian trá.

Trong hơn một năm qua Nguyễn Tấn Dũng đã làm gì? Ông chưa giải quyết được một hồ sơ tham nhũng lớn nào cả như ông đã hứa lúc lên cầm quyền, trong vụ PMU 18 ông đã không giải quyết mà còn che đậy một cách trắng trợn. Không nên chờ đợi Nguyễn Tấn Dũng dẹp được tham nhũng bởi vì chính ông là một trùm tham nhũng và buôn lậu.

Ông Dũng đã phát động đợt đàn áp qui mô nhất từ nhiều năm nay và những phiên tòa dưới chính quyền của ông đã phá mọi kỷ lục thô bạo. Bộ máy tuyên truyền của đảng đánh bóng ông như một người dám nói, dám làm nhưng ông đã dám làm gì? Việc dám làm nổi bật nhất gần đây của ông là đưa lên chức chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao một trung tướng công an, ông Trương Hòa Bình. Nhân vật Trương Hòa Bình này không khác Nguyễn Tấn Dũng bao nhiêu: cách đây một năm mới chỉ là đại tá bị nhiều sĩ quan công an tố giác về cả khả năng lẫn đạo đức, nhưng vẫn được thăng chức vùn vụt, biết đâu chẳng sẽ là giải pháp của đảng MA cho giai đoạn «hậu» Nguyễn Tấn Dũng?

Không nên chờ đợi gì ở Nguyễn Tấn Dũng cả. Với thế lực hiện nay nếu muốn làm gì ông đã có thể làm rồi. Càng không nên chờ đợi ở Nguyễn Tấn Dũng những bước tiến đột phá trong chiều hướng dân chủ hóa hay thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc. Ông Dũng dứt khoát không phải là người của những thay đổi này, trái lại ông là một trở ngại, và một trở ngại lớn. Người ta không thể hy vọng gì ở ông. Điều mà người ta có thể hy vọng là sau khi hai ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh không còn nữa, Nguyễn Tấn Dũng sẽ bị thay thế bởi một người có khả năng và sáng suốt hơn ông, điều này rất có thể xảy ra vì sự nghiệp của Nguyễn Tấn Dũng chỉ thuần túy do hai ông này áp đặt. Đó sẽ là một may mắn thực sự cho đất nước.

Trở lại công việc trước mắt, có thể thấy là cộng đồng người Việt tại Mỹ nên và cần chuẩn bị để biểu lộ sự phẫn nộ phải có đối với một con người độc ác, với bàn tay đẫm máu, tác giả của những đàn áp thô bạo đối với anh em dân chủ trong nước, đồng thời cũng lả trở ngại chính của tiến trình dân chủ hóa đất nước.

Nguyễn Trung Chính

Thứ Bảy, 25 tháng 8, 2007

Thủ tuớng Việt Nam khuyến khích đầu tư vào Việt Nam nhưng phải cẩn thận

Prime minister of Vietnam recommends investing in nation - with caveats
Reuters 23/8/07 – Khánh Ðăng lược dịch

Ðầu tư vào nền kinh tế thị trường còn mới mẻ của Việt Nam mang nhiều bất lợi như việc thiếu sót một đội ngũ lao động có tay nghề giỏi, cơ sở hạ tầng kém cỏi và hệ thống pháp luật yếu kém, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết như vậy hôm Thứ Năm

Ông Dũng nói trước một buổi hội thảo của các nhà doanh nghiệp cao cấp và chính trị gia thuộc Hiệp hội các nước Ðông Nam Á (ASEAN) rằng Việt Nam có nhiều cơ hội, nhưng cũng có nhiều khó khăn, đang chờ đợi các nhà đầu tư nước ngoài.

“Cái khó khăn đầu tiên là việc phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng với nhu cầu phát triển nhanh chóng của kinh tế ”
“Có một điều bất lợi là nếu quý vị muốn phát triển công việc làm ăn của quý vị nhưng lại không có đủ nguồn nhân lực với tay nghề khá hoặc giỏi”

Ðối với ông Dũng, người được ÐCSVN đưa vào làm thủ tướng hồi tháng 6/2007, sau khi được chải chuốt hàng năm trời, thì sự kiện này được coi là một phản ứng hiếm có trước một diễn đàn công cộng.

Việt Nam với nền kinh tế tăng trưởng hơn 8 phần trăm một năm, cộng với một đội ngũ lao động trẻ và được nhận làm thành viên của WTO hồi đầu năm nay, đã thu hút 10 tỷ Mỹ kim đầu tư trực tiếp vào năm ngoái và đang trên đà để vượt qua con số đó trong năm nay.

Nhưng dù sao đi nữa, tổng sản lượng quốc gia của Việt Nam với dân số 85 triệu vẫn chỉ vào khoảng 61 tỷ Mỹ kim, bằng phân nửa của Tân Gia Ba (Singapore), với dân số 4 triệu người.

Lợi tức trung bình hàng năm của một người tại Việt Nam vào khoảng 760 Mỹ kim.
Ông Dũng nói rằng cơ sở hạ tầng kém cỏi là một sự bất lợi khác, nhưng nhà nước Việt Nam đang cố gắng để cải thiện điều đó.

“Vấn đề thứ ba mà tôi muốn nhấn mạnh đến là một hệ thống luật pháp có tổ chức
“Chúng tôi đang trong tiến trình cải thiện hệ thống luật pháp. Chúng tôi có một chính sách để tạo ra bất cứ sự thay đổi nào trong hệ thống luật pháp để làm giảm đến mức tối đa những ảnh hưởng đến tiện ích và quyền lợi của các doanh nghiệp.

Bên cạnh cái quốc nạn tham nhũng, có một điều thường bị các doanh nhân nước ngoài than phiền là hệ thống luật pháp của Việt Nam rất mù mờ không được rõ ràng

Nhà nước Việt Nam bị Hoa Kỳ và Liên hiệp Âu Châu phê phán về việc bỏ tù các nhà tranh đấu chính trị khi họ kêu gọi cho sự chấm dứt chế độ độc đảng thì ông Dũng lại nói rằng các nhà đầu tư không nên quan tâm về hiểm nguy chính trị.

Ông Dũng nói trước hội nghị “Và một điều tôi muốn bảo đảm với quý vị là sự ổn định chính trị tại Việt Nam”

Reuters: Prime minister of Vietnam recommends investing in nation - with caveats
Thursday, August 23, 2007

HANOI: Investing in the emerging market economy of Vietnam carries risks like a shortage of skilled workers, poor infrastructure and shortcomings in the legal system, Prime Minister Nguyen Tan Dung said Thursday.

Dung told a Association of South East Asian Nations conference of business executives and politicians that many opportunities, but also challenges, awaited foreign investors in the country.

"The first challenge is human resources development that meets the need of rapid economic development," Dung said.

"This is a risk if you want to expand your business but you cannot have sufficient or skilled human resources."

For Dung, installed as prime minister by the Communist Party in June 2006 after years of grooming, the event was a relatively rare interaction with a public forum.

Vietnam, with its economy growing by more than 8 percent a year, a young work force and World Trade Organization membership secured early this year, attracted $10 billion in foreign direct investment last year and is on track to exceed that figure this year.

However, gross domestic product in the country of 85 million people is still only about $61 billion, about half that of Singapore, which has a population of four million.

The per capita annual income in Vietnam is about $760.

Dung said poor infrastructure was another risk, but one that his government was working on improving with international partners.

"The third issue I would like to emphasize is the institutional and legal framework," he said.

"We are in the process of improving the legal framework. We have a policy to get any changes of the legal framework to minimize impact on the interests and benefits of enterprises."

Besides endemic corruption, a persistent complaint by foreign businessmen is that the legal system in Vietnam is opaque.

Dung, whose government has been criticized by the United States and the European Union for jailing political activists calling for an end to one-party rule, said investors should not be concerned about political risk

"And one thing I would like to assure you about is the political stability in Vietnam," Dung told the gathering.

http://www.iht.com/articles/2007/08/23/business/dong.php

Thứ Hai, 20 tháng 8, 2007

Hà Nội đang điên cái đầu!

“… Người nông dân bức xúc có thể đã bắt đầu ý thức rằng khiếu nại trước mắt của họ gắn liền với những lý tưởng tự do và dân chủ trừu tượng …”
Đòi quyền sống là thể hiện lí tưởng tự do dân chủ

Chế độ cộng sản Hà Nội sẽ cần thuốc nhức đầu để đối phó với một thách thức nhân quyền mới. Cuộc biểu tình phản đối về ruộng đất kéo dài một tháng tại Thành phố Hồ Chí Minh và bị giải tán vào tháng 7 sẽ không lật đổ chính quyền độc đoán. Tuy nhiên, bất ổn vừa qua cho thấy phát triển kinh tế phối hợp với công nghệ hiện đại có thể tạo nên sức ép đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Vấn đề ruộng đất là tụ điểm của cuộc phản đối kéo dài 27 ngày từ tháng 6 đến tháng 7 . Những người biểu tình đã tụ tập trước trụ sở quốc hội tại Thành phố Hồ Chí Minh để khiếu nại về một số vấn đề . Vài người đòi bồi thường cho đất bị tịch thu từ nhiều thập niên qua . Một số khiếu nại khác lên án quan chức địa phương nhũng lạm đã tước ruộng đất để xây khu kỹ nghệ cho nền kinh tế đang tăng vọt của Việt Nam .

Từ nhiều năm qua, nông dân đã kêu gọi sự giúp đỡ của chính quyền trung ương để diệt tham nhũng địa phương, và đợt phản đối kỳ này cũng diễn ra trong chiều hướng đó . Tuy nhiên, những người dân oan đặt kỳ vọng nơi quốc hội tưởng là dân chủ của họ đã lầm to . Mặc dù cuộc “bầu cử” đã đến rồi đi, hình như không một đại biểu quốc hội nào đã chịu khó đến tiếp xúc trực tiếp với “cử tri” của họ tụ tập biểu tình trước trụ sở quốc hội . Những dân oan biểu tình trong mưa nắng đã phải nọp kiến nghị mới được phép xử dụng nhà vệ sinh tại trụ sở .

Chế độ Hà Nội sau một thời gian đã ra tay như thông lệ, với lực lượng công an, hơi cay và dùi cui, để giải tán và bắt bớ những người biểu tình . Một vài người đã bị bắt giữ sau khi về nhà, như ông Ngô Luật, một người cầm đầu biểu tình 71 tuổi hiện đang bị giam giữ không bản án. “Tội” của ông là đã viết biểu ngữ phản đối và cầm loa phóng thanh. Riêng về những khiếu nại của dân oan thì không thấy có vấn đề nào được giải quyết.

Mặc dù gặp trở ngại, cuộc biểu tình vừa qua có thể là một khúc quanh quan trọng cho những thành phần tranh đấu cho nhân quyền tại Việt Nam . Một điều đáng ghi nhận là một cuộc biểu tình phát xuất từ khiếu nại ruộng đất của nông dân đã biến thành nơi lên tiếng của Hòa Thượng Thích Quảng Độ, một người đứng đầu phong trào đòi dân chủ và tự do tôn giáo, và cũng là nhân vật lãnh đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hiện vẫn còn bị chính quyền ngược đãi .Đây là giây phút hội tụ đầu tiên của những phản đối ruộng đất và phong trào nhân quyền. Người nông dân bức xúc có thể đã bắt đầu ý thức rằng khiếu nại trước mắt của họ gắn liền với những lý tưởng tự do và dân chủ trừu tượng.

Vai trò của công nghệ hiện đại cũng được thấy rõ hơn so với những đợt phản đối trước . Ít nhất có một người tham gia biểu tình đã cho một đài phát thanh phía dân chủ biết rằng bà đã biết đến cuộc biểu tình qua mạng internet. Có thể vì lý do này, số người tham gia biểu tình đã từ vài trăm lúc đầu tăng lên đến hơn một ngàn trong giai đoạn cao điểm. Ngoài ra, thành phần lãnh đạo biểu tình phát xuất từ 19 tỉnh trong số 59 tỉnh tại Việt Nam cũng đã trao đổi số điện thọai di động để giữ liên lạc với nhau.

Thêm vào đó, những người biểu tình đã dùng điện thoại di động để loan tin trực tiếp về những diễn biến cuộc biểu tình . Một phụ nữ đã kể lại qua điện thoại cho một đài phát thanh đối lập về khí thế cuộc biểu tình và lý do vì sao chị tham gia. Những nhà họat động nhân quyền hải ngoại đã theo dõi được diễn biến từng giờ của cuộc biểu tình. Các nhà quan sát phong trào nhân quyền Việt Nam nhận xét rằng đầy là một trong những cuộc biểu tình được tường trình lại tường tận nhất trong giai đoạn lịch sử gần đây của Việt Nam.

Cuộc biểu tình đã cho thấy dân Việt Nam ngày một sẵn sàng bày tỏ bất bình một cách công khai với chế độ và người dân cũng đang học cách tổ chức những cuộc phản kháng bất bạo động. Chính quyền cộng sản sẽ không sụp đổ ngày mai, nhưng Hà Nội hiện có thêm một mối lo .

Trương Minh Trí chuyển ngữ
Nguồn: Wall Street Journal, ngày 15/08/2007

Thứ Hai, 30 tháng 7, 2007

Vấn-Dề Tranh-Chấp Trường-Sa: Hậu-Quả Của Những Sai Lầm Chiến-Lược

I. Những nạn-nhân trực-tiếp :

Theo tin BBC loan báo ngày 20 tháng 7 năm 2007 « tàu hải quân Trung Quốc hôm 9/7 đã nã súng vào một số thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam trong vùng biển gần Trường Sa, cách TP Hồ Chí Minh 350km làm cho một ngư dân thiệt mạng và một số người khác bị thương ». Ngày hôm sau RFA xác-nhận tin này sau khi trích bản tin của hãng tin Kyodo (Nhật Bản). Trên bản-đồ, địa-điểm xảy ra biến-cố thuộc vùng biển ở giữa vùng Trường-Sa và bờ biển Việt-Nam.

Biến-cố xảy ra đã 2 tuần-lễ nhưng phía Việt-Nam và Trung-Quốc hoàn-toàn im-lặng (cho đến thời-điểm viết bài này). Việc im lặng của hai phía đã không làm người ta ngạc-nhiên. Cả hai (tức hai đảng cộng-sản) chỉ giải-quyết vấn-đề theo lối « anh em đóng cửa dạy nhau », không cho người ngoài xen vào, nhưng mọi người đều biết là anh ba Trung-Quốc luôn « giao-thiệp nghiêm-khắc » với đám em út Việt-Nam.

Nhớ lại biến-cố vịnh Bắc-Việt ngày 8 tháng 1 năm 2005, hải-quân Trung-Cộng « giao thiệp nghiêm khắc » xả súng bắn chết 9 ngư-dân Việt-Nam cư-ngụ tại các làng chài lưới vùng Thanh-Hóa, bắt đi 8 người khác và tịch-thu một thuyền đánh cá (xảy ra ở điểm có tọa-độ 19° 16’ vĩ-độ Bắc và 107° 06’ kinh-độ Ðông, chiếu theo hiệp-định phân-định vịnh Bắc-Bộ tháng 12 năm 2000, điểm này thuộc hải-phận Việt-Nam). Rõ ràng đây là hành động của hải-tặc. Hải-quân Trung-Quốc xâm-phạm chủ-quyền của Việt-Nam lại còn giết người, cướp của, nhưng phía Trung-Quốc « nghiêm-khắc » dạy nhà-nước VN rằng chính những ngư-nhân Thanh-Hóa mới là hải-tặc. Vụ việc này đến hôm nay không ai biết được đã giải-quyết ra sao, các nạn-nhân được đền bồi thế nào ?

Ngày hôm nay những ngư-dân Việt-Nam đánh cá trong vùng biển của mình cũng bị Trung-Quốc « nghiêm khắc giao thiệp » bằng súng ống. Biến-cố xảy ra tại vùng biển cách Sài-Gòn 350km, tức cách bờ biển VN khoảng 250km, tức ở giữa vùng Trường-Sa và bờ biển Việt-Nam. Vị-trí này nằm trên thềm lục-địa của Việt-Nam chứ không thuộc hải-phận (nếu có) của các đảo thuộc Trường-Sa. Nên biết, việc xảy ra trong vùng biển này không phải chỉ mới lần đầu mà đã có nhiều lần tương-tự trong quá-khứ. Điều 1 của bộ « luật biên giới quốc gia » năm 2003 qui-định : « Biên giới quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đường và mặt thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ». Điều luật liên-quan đến Hoàng-Sa và Trường-Sa phù-hợp với lịch-sử Việt-Nam và thực-tế công-pháp quốc-tế. Các ngư-nhân Việt-Nam đánh cá trong vùng biển xảy ra biến-cố là đánh cá trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt-Nam.

Tuy-nhiên, Đại-Tá Lê Phúc Nguyên, phó Tổng-Biên-Tập báo Quân-Đội Nhân-Dân, trả lời phỏng-vấn với báo The Straits Times (Tân-Gia-Ba) được BBC ghi lại ngày 19 tháng 7: « Ngư dân rất khó mà biết được đâu là lằn ranh chính xác giữa hai bên. Thế nhưng không nên dùng vũ lực trên biển vì việc này sẽ chỉ dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng hơn mà thôi »

« Lằn ranh » mà ông Nguyên nói là lằn ranh nào ? Đã có phân-định lãnh-hải chưa mà nói đến « lằn ranh » ? Lãnh-hải chưa phân-định sao lại nói đến « lằn ranh chính xác giữa đôi bên » ? Nhưng khi nói đến « phân-định » thì đã gián-tiếp công-nhận tính hợp-lý và hơp-pháp của đối-tượng tranh-chấp. Bọn cướp vào cướp đất, cướp đảo, cướp biển của mình, bây giờ mình « phân-định » với nó, vạch ra « lằn ranh », mình một bên, nó một bên à ? Phát biểu của ông Nguyên không khác những lời phát-biểu ngu-xuẫn, thiển-cận, theo lối tự bắn vào chân mình, của các viên-chức cao-cấp như Ung Văn Khiêm, Lê Lộc (1956) và Phạm Văn Đồng (1958) dưới thời Hồ Chí Minh. Một trong các chứng-cớ mà Trung-Quốc dựa lên để đòi hỏi chủ-quyền Hoàng-Sa và Trường-Sa là các lời tuyên-bố hàm-hồ, vô trách-nhiệm của các ông này. Nay mai sẽ có thể có tên của ông đại-tá Nguyễn Phúc Nguyên trong danh-sách ấy !

Ông Nguyên cũng nói « không nên dùng vũ lực trên biển vì việc này sẽ chỉ dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng hơn mà thôi ». Trung-Quốc thường-xuyên dùng vũ-lực trên biển nhưng đã dẫn đến « vấn-đề nghiêm-trọng » nào ? Đài-Loan cách đây không lâu cũng tập-trận bằng đạn thật trên đảo Ba-Bình (Itu Aba, thuộc Trường-Sa), xây ra-đa, làm lại phi-trường, công-sự chiến-đấu… trên đảo nhưng Việt-Nam đã làm được gì Đài-Loan ? Phía Nam-Dương cũng thế, vừa rồi bắn chìm thuyền và gây tử thương nhiều ngư dân VN, nhưng có việc nào « nghiêm-trọng » đã xảy ra đâu ? Thực sự sẽ không có việc gì nghiêm-trọng xảy ra cả, lý-do rất đơn-giản : Việt-Nam không có một khả-năng đối-kháng nào, hải-quân Việt-Nam đối với Trung-Quốc, Nam-Dương, Đài-Loan… là đứa bé sơ-sinh trước những anh khổng-lồ.

Ở một nước mà nhà-nước có trách-nhiệm, các biến-cố (tai-nạn) tương-tự đều được giải-quyết một cách minh-bạch và theo luật-pháp, các nạn-nhân phải được đền-bồi đầy đủ, quốc-gia phía sai-quấy phải có công-hàm chính-thức xin-lỗi gia-đình và quốc-gia các nạn-nhân. Ở đây ta thấy nhà-nước Việt-Nam, dầu đã tỏ ra rất côn-đồ trong việc giải-quyết các vụ dân oan bị cán-bộ đảng cộng-sản cướp đất trong những ngày trung tuần tháng 7-2007 vừa qua, nhưng lại tỏ ra khiếp-nhược đến mức hèn-hạ trước những nước hùng-mạnh khác. Có nhiều triệu-chứng cho thấy biến-cố ngày 9 tháng 7 năm 2007 sẽ như biến-cố trong vịnh Bắc-Việt ngày 8 tháng 1 năm 2005. Những nạn-nhân vô-tội sẽ bị Trung-Quốc vu-cáo là hải-tặc, rồi mọi việc sẽ chìm vào quên lãng.

Chúng ta cũng không thể không nhắc đến những vạt dầu không biết từ đâu liên-tục trong nhiều tháng (đầu năm 2007) từ ngoài khơi tràn vào bờ biển miền Trung VN, chạy dài từ Quảng-Bình cho đến Phan-Thiết, gây ô-nhiễm môi-sinh và làm thiệt-hại lớn lao cho kinh-tế của những người dân sống trong vùng. Nhà-nước VN hôm nay vẫn không biết nguồn-gốc các vết dầu loan ấy đến từ đâu. Vừa qua ông thủ-tướng Nguyễn Tấn Dũng nói rằng sẽ nhờ Nhật-Bản truy-tầm nguồn các vết dầu đã gây ô-nhiễm ấy nhưng đến nay chưa thấy công-bố kết-quả. Chắc-chắn các vệ-tinh của Nhật-Bản không mù-lòa và bất-lực như nhà-nước VN. Họ đã biết các vạt dầu ấy từ đâu đến, nhưng nhà-nước VN không công-bố vì sợ phản-ứng mạnh của Trung-Quốc.

Qua các lời tố-cáo trước đây, tháng 5 năm 1992, TC ký với công ty Crestone, Hoa Kỳ để tìm dò một khu-vực 25.000 km2 thuộc lãnh-hải Việt-Nam, nằm về phía tây quần-đảo Trường-Sa (thuộc bãi Tu-Chính, không thuộc nhóm Trường-Sa) và chỉ cách bờ biển Việt-Nam khoảng 250Km. Tháng 3 năm 2004 Trung cộng mang dàn khoan KANTAN 3 vào trong hải-phận Việt-Nam, thuộc vùng cửa vịnh Bắc-Việt để thăm-dò. Khu-vực mục tiêu nằm ở tọa độ 17 độ 25’ 42 ‘’, vĩ độ Bắc, 108 độ 19’05’’ kinh độ Đông, cách bờ biển Việt-Nam 63 hải-lý, và cách đảo Hải-Nam 67 hải-lý. Tháng 8 năm 2006, Trung-Quốc đã cho khai-thác giếng dầu Hóa-Quang, thuộc khu-vực Hoàng-Sa, cách Đà-Nẵng 230km v.v…

Phía Việt-Nam có lên tiếng phản-đối lấy-lệ nhưng Trung-Quốc đã bất-chấp những phản-đối này và ngang-nhiên khai thác những mỏ dầu trên thềm lục-địa Việt-Nam hoặc thuộc lãnh-hải Việt-Nam.

Như thế, chắc-chắn là các giếng dầu của Trung-Quốc khai-thác đã làm tràn dầu gây ô-nhiễm cho bờ biển các tỉnh miền Trung của Việt-Nam. Vấn-đề đặt ra : Chủ-quyền vùng khai-thác đã xác-định chưa ? Việt-Nam sẽ phản-ứng ra sao nếu vùng Trung-Quốc hiện khai-thác thuộc Việt-Nam ? ai sẽ bồi-thường những thiệt-hại cho dân-chúng và tái-tạo lại môi-trường bị ô-nhiễm tại các vùng bị dầu loang ?

II. Trung-Quốc và quan-niệm « không-gian sinh-tồn ».

1/ Không-gian sinh-tồn, tạm dịch từ “L’Espace Vital”, tác-phẩm nghiên-cứu về “địa-lý chính-trị” – Géopolitique – nổi tiếng của Ratzel xuất-bản năm 1902, đề-cập 7 định-luật liên-quan đến sự bành-trướng của một quốc gia: Định-luật 1. Không-gian (sinh-tồn) của một dân-tộc được mở rộng đồng-thời với văn-minh của dân-tộc đó. Một dân-tộc có nền văn-minh tiến-bộ sẽ đồng-hóa các dân-tộc kém văn-minh hơn. 2. Lãnh-thổ quốc-gia sẽ phát-triển theo tỉ-lệ thuận với sức mạnh kinh-tế và đội-ngũ thương-buôn của quốc-gia cũng như chủ-thuyết phát-triển quốc-gia. Việc bành-trướng vì thế chỉ tùy-thuộc vào ý-chí và phương-tiện. 3. Việc bành-trướng của một đế-quốc được thực-hiện qua cách « hấp-thụ và tiêu-hóa » các nước nhỏ. 4. Đường biên-giới quốc-gia không xác-định (frontière vivante). Biên-giới xác-định chỉ có giá-trị tạm-thời, chỉ để đánh dấu giữa hai giai-đoạn bành-trướng. 5. Trong quá-trình bành-trướng, đất (bây giờ là biển) là mục-tiêu chính. 6. Mục-tiêu bành-trướng là các quốc-gia yếu-kém ở kế-cận. Sự bành-trướng của đế-quốc không thể tiến-triển nếu quốc-gia lân-bang cũng là cường-quốc. 7. Hiện-tượng bành-trướng có khuynh-hướng lan rộng do việc tranh-dành lãnh-thổ của các quốc-gia.

Những nhà chiến-lược hiện-đại cho rằng lý-thuyết « địa-lý chiến-lược » của Ratzel là sơ-khai, lỗi-thời, tuy-nhiên, ở một số điểm cơ-bản lý-thuyết này vẫn còn nguyên giá-trị cho đến ngày nay. Tranh chấp lãnh-thổ Do-Thái và Palestine là một thí-dụ điển-hình. Lý-thuyết này cũng đã ảnh-hưởng rất sâu-đậm lên nhiều thế-hệ lãnh-đạo Trung-Hoa, như Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào v.v… Tưởng Giới Thạch có tuyên-bố về « không-gian sinh-tồn » của Trung-Quốc như sau : « le territoire de l’Etat chinois est délimité par les besoins de son exitance et par les bornes de sa culture » , lãnh-thổ của Trung-Quốc định-nghĩa theo họ Tưởng là được xác-định bằng văn-minh cũng như những cần thiết để dân-tộc này hiện-hữu. Như thế bao gồm hầu hết các nước Đông-Nam Á. Các học-giả Tây-Phương gọi Trung-Quốc là một « Empire sans voisin », một đế-quốc không có nước láng-giềng.

Lý-thuyết của Ratzel cũng ảnh-hưởng đến một số các lãnh-tụ đảng-phái quốc-gia Việt-Nam.

Mặt khác, ngoài lý-thuyết của Ratzel, các nhà lãnh-đạo Trung-Quốc sau này cũng ảnh-hưởng sâu đậm đến lý-thuyết của Alfred Mahan (1840-1904) về địa-lý chính-trị. Bài học bị phân-liệt bắt đầu từ 1840, kéo dài đến cả trăm năm đã làm cho nhiều lớp trí-thức ái-quốc Trung-Hoa ý-thức được cái hay của học-thuật Tây-Phương. Theo lý-thuyết này hải-quân đóng vai-trò trọng-yếu trong quá-trình bành-trướng của một quốc-gia.

Từ 1949 đến nay Trung-Quốc đã nỗ-lực liên-tục để hiện-đại hóa hải-quân của họ.

2/ Bảy định-luật của Ratzel, ngoài định-luật số 2, hoàn-toàn chứng-nghiệm cho dân-tộc Hán từ lập-quốc đến ngày hôm nay. Định-luật 1 : Nền văn-minh Hán-Tộc đã đồng-hóa tất cả các dân-tộc khác, kể các các dân-tộc dũng-mãnh đã chiếm-hữu và trị-vì Trung-Quốc. Văn-hóa các dân-tộc Mãn-Châu, Mông-Cổ, Liêu, Kim… đã không còn dấu vết ở Trung-Quốc. Định-luật 3 : Dân-tộc Hán luôn bành-trướng và tiêu-diệt (hay Hán-hóa) tất-cả các dân-tộc khác. Hiện nay việc đồng-hóa đang được thực-hiện ráo-riết tại Tây-Tạng. Đặc-biệt hai định-luật số 5 và 6 phản-ảnh rõ-rệt thái-độ bành-trướng của Trung-Quốc ngày hôm nay : Trung-Quốc xem vùng biển Đông của Việt-Nam là « không-gian sinh-tồn » của dân-tộc Hán ; Trung-Quốc không bao giờ muốn thấy một Việt-Nam giàu mạnh. Một nước Việt-Nam giàu, mạnh sẽ ngăn-cản sức bành-trướng của Trung-Quốc.

Các thế-hệ lãnh-đạo Trung-Quốc từ đầu thế-kỷ 20 cho đến nay đều có chung quan-điểm này. Họ luôn tìm cách làm cho Việt-Nam suy-yếu để thực-hiện nhu-cầu bành-trướng. Mục-tiêu trước tiên là chiếm biển Đông và kéo Việt-Nam vào vòng ảnh-hưởng của họ. Ta thấy Nam-Hàn, Nhật-Bản đã ý-thức hiểm-họa đến từ Trung-Quốc. Hai nước này muốn hiện-hữu phải « mạnh », hay phải dựa vào một thế lực mạnh. Theo thuyết của Samuel P. Huntington về « Sự Đụng-Độ của các nền văn-minh », nguyên-nhân đụng-độ đến từ tranh-chấp biển Đông, sau đó Nhật-Bản ngả về phía Trung-Quốc, lúc đó là một đại-cường. Lý-thuyết này phần nhiều chủ-quan, nhưng không thể bỏ qua. « Chủ-Nghĩa nước nhỏ » vì thế sẽ không thể hiện-hữu được ở các nước láng-giềng của Trung-Quốc. Định-mạng đã xếp dân-tộc Việt-Nam ở kế-cận Trung-Quốc, vì thế phải thật khéo-léo. Nếu Việt-Nam không đủ mạnh thì phải dựa vào một thế-lực mạnh khác (như trường-hợp Đại-Hàn, Đài-Loan và Nhật-Bản) để tự-vệ, nếu không chắc-chắn sẽ không tránh được hấp-lực của Trung-Quốc.

3/ Trung-Quốc không muốn một Việt-Nam thống-nhất và mạnh. Trong thời chiến-tranh 1954-1975 mọi người đều biết Trung-Quốc sẵn-sàng giúp súng-đạn cho CSVN đánh Mỹ đến người Việt-Nam cuối cùng. Ngay sau khi thống-nhất 1949, Trung-Quốc có cả một sách-lược đào-tạo các cán-bộ tương-lai lãnh-đạo Việt-Nam. Đỗ Mười và Lê Đức Anh cũng thuộc đội-ngũ cán-bộ này. Vì thế chính-trị đối-ngoại của Việt-Nam trong một thời-gian rất dài luôn phù-hợp với quan-niệm địa-lý chiến-lược của Trung-Quốc. Người ta ca-ngợi nhiều về tư-tưởng của ông Hồ Chí Minh (vận-dụng từ tư-tưởng quốc-tế Marx-Lenin), cho nó có một giá-trị thực-dụng dựng nước bất-khả tranh-nghị và đưa nó lên hàng tư-tưởng chiến-lược phát-triển quốc-gia. Nhưng đây là một sai lầm lớn, vì nếu xét tỉ-mỉ thì tư-tưởng của ông Hồ luôn phù-hợp với chính-sách bành-trướng của Trung-Quốc. Người ta cho rằng ông Hồ là người « yêu nước », nhưng quan-niệm về quốc-gia của ông Hồ là một cái gì rất không rõ-rệt : « Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa ». Nhiều học-giả nước ngoài phê-bình Việt-Nam lấy đất nước để xây dựng XHCN trong khi Trung-Quốc lấy XHCN xây-dựng đất nước. Trong tư-tưởng của ông Hồ người ta thấy thấp-thoáng một « chủ-nghĩa nước nhỏ », đu giây giữa hai thế-lực áp-đảo là Liên-Xô và Trung-Quốc, khai-thác những mâu-thuẩn của hai thế-lực này để thực-hiện mưu-đồ cá-nhân và làm tròn bổn-phận của một thành-viên quốc-tế vô-sản gương-mẫu. « Chủ-nghĩa nước nhỏ » của ông Hồ đã trở thành « chủ-nghĩa chư-hầu », cam chịu lệ-thuộc, làm tay chân cho Nga và Tàu bành-trướng chủ-nghĩa hơn là tự-chủ và độc-lập dân-tộc. Việt-Nam đã có lần mang danh « thành đồng cách-mạng vô-sản » là một bằng-chứng. Nhưng vấn-đề của ông Hồ không nằm trong phạm-vi bài viết này.

Trung-Quốc cũng là một trong những tác-nhân chánh trong vấn-đề Việt-Nam chia cắt tại vĩ-tuyến 17. Theo nhiều nhân-chứng ghi lại, trong cuộc-chiến (1954-1975) phía Bắc-Kinh luôn chủ-trương 2 nước Việt-Nam và họ đã làm nhiều thủ-thuật để gây trở ngại cho phe miền Bắc trong các chiến-dịch tiến-công miền Nam. Ngay sau khi Hoa-Kỳ rút khỏi miền Nam, trong những ngày cuối cùng, Bắc-Kinh đề-nghị với một số lãnh-đạo miền Nam, thông qua tòa đại-sứ Pháp, Trung-Quốc sẽ dàn quân trên biên-giới Việt-Trung làm áp-lực, ép Hà-Nội rút quân và ngồi vào đàm-phán. Làm thế vì Trung-Quốc không bao giờ muốn một Việt-Nam thống nhất.

Sau 1975, chủ-trương của Trung-Quốc là muốn có một Việt-Nam suy-yếu ở phía Nam. Trong khoảng thời-gian 1975-1978 Việt-Nam say men chiến-thắng, dựa vào Liên-Xô hống-hách với Trung-Quốc. Trung-Quốc liên-minh với Hoa-Kỳ bao vây Việt-Nam, ngăn-chắn sự bành-trướng của Liên-Xô. Cuộc chiến 10 năm Kampuchia, Đặng Tiểu Bình giúp-đỡ tận-tình Khmer đỏ, chủ-trương « làm cho VN chảy máu đến chết ». Đây là cái bẩy hiểm-độc mà Đặng Tiểu Bình gài cho lớp lãnh-đạo « phản-phúc » ở Hà-Nội. Theo nguyên thứ-trưởng bộ Ngoại-Giao Trần Quang Cơ, qua hồi-ký năm 2002, đây là một thất-bại vô cùng lớn về ngoại-giao của Việt-Nam. Đúng ra đây không phải là một thất bại ngoại-giao, mà phải nói là một sai lầm chiến-lược của nhóm lãnh-đạo Hà-Nội.

Thực-tế và lịch-sử cho thấy Khmer đỏ của tập-đoàn Pol Pot là một lũ diệt-chủng, cả thế-giới kinh-tởm và lên án. Hiện nay có nhiều nỗ-lực vận-động một tòa-án đặc-biệt để xử các hung-thần Khmer đỏ hiện còn sống-sót nhưng còn gặp nhiều trở ngại. Lý ra, khi can-thiệp vào Kampuchia, Việt-Nam đã có vai trò của một anh hùng cứu dân độ thế. Thế nhưng hầu như cả thế-giới lúc đó chống lại Việt-Nam. Thái-độ hung-hăng của Việt-Nam, quá thân Liên-Xô, đòi đánh cả Thái-Lan, đã làm cho khối ASEAN và Hoa-Kỳ ủng-hộ lập-trường Trung-Quốc, giúp Khmer đỏ, bao-vây Việt-Nam về mọi mặt . Hậu-quả sai-lầm này vẫn còn ảnh-hưởng sâu-đậm đến Việt-Nam hôm nay.

4/ Lãnh-đạo CSVN không có viễn-kiến. Khi Liên-Xô sụp-đổ đầu thập niên 90, thay vì nhanh-chóng lập quan-hệ ngoại-giao với Hoa-Kỳ, thiết-lập trục chiến-lược Do-Thái - Ấn-Độ - Việt-Nam – Nhật-Bản để tìm thế đối-trọng, lãnh-đạo Việt-Nam lại quyết-định khấu đầu hướng về thiên-triều, liên-kết với Trung-Quốc để bảo-vệ thành-trì xã-hội chủ-nghĩa, xem Hoa-Kỳ là kẻ thù chiến-lược. Đây là một sai-lầm về chiến-lược khác của Hà-Nội, đã dẫn Việt-Nam vào vòng kềm-tỏa của Trung-Quốc, kéo đất nước trì-trệ thêm hàng thập niên so với các nước trong vùng. Theo hồi-ký Trần Quang Cơ, thủ-phạm của sai-lầm chiến-lược lần này là Đỗ Mười và Lê Đức Anh.

Trong việc giao-thương với Hoa-Kỳ, Trung-Quốc luôn tìm cách phá-bỉnh, vụ ngưng ký hiệp-ước thương-mãi với Hoa-Kỳ, để cho Trung-Quốc ký trước, năm 2000 là một thí-dụ. Trung-Quốc không muốn Việt-Nam có quan-hệ chặt-chẽ với Hoa-Kỳ. Trung-Quốc biết rằng chỉ có Hoa-Kỳ mới có thể giúp Việt-Nam phát-triển bắt kịp các nước rồng, hổ trong vùng.

Khuynh-hướng chính-trị hiện nay của đảng CSVN thông qua ông Nông Đức Mạnh, là tiếp nối con đường của Đỗ Mười và Lê Đức Anh, đã làm Việt-Nam trì-trệ hàng 20 năm và đẩy Việt-Nam lệ-thuộc ngày thêm sâu-đậm vào Trung-Quốc. Công việc chính của ông Tổng Bí-Thư họ Nông là xem việc nhà, việc làng to hơn việc đảng, xem việc đảng to hơn việc quốc-gia. Việt-Nam sẽ phải trì-trệ thêm nhiều năm nữa.

5/ Bành-trướng ra biển Đông.

Ngoài mục-tiêu phải làm Việt-Nam suy-yếu, Trung-Quốc hiện-đại hoá quân-đội của họ, nhất là hải-quân, để bành-trướng ra biển Đông.

Năm 1949, Trung-Quốc cho công-bố một bản-đồ, trong đó lãnh-hải của Trung-Quốc bao gồm tất cả các đảo Đài Loan, quần đảo Senkaku (Điếu-Ngư), Pescadores (Bành-Hồ), Pratas (Đông-Sa), Macclesfield Bank (Trung-Sa), Paracel (Tây-Sa tức Hoàng Sa của Việt-Nam) và Spratley (Nam-Sa, tức Trường Sa của Việt-Nam). Đường xác-định lãnh-hải chỉ cách bờ biển của Việt-Nam, Phi-Luật-Tân, Mã-Lai, Brunei khoảng 50 đến 100km. Năm 1974, Trung-Quốc sử-dụng vũ-lực tấn-công Hoàng-Sa và chiếm quần-đảo này từ tay Việt-Nam Cộng-Hòa. Tháng 3 năm 1988, Trung-Quốc cho tàu đổ bộ vào chiếm 6 rạng đá nhỏ vùng rạng đá Chữ Thập (Recif Croix de Feu – Fiery Cross), bắn chìm 3 tàu Việt-Nam, gây thiệt mạng 74 chiến-sĩ. Vào tháng 2 năm 1992, Trung-Quốc ra Luật Lãnh-Hải Trung Quốc (Chinese Territorial Waters Law) qui-định rõ các đảo và quần-đảo nói trên thuộc Trung-Quốc. Ngày 21 tháng 5 cùng năm, Đài-Loan ra luật lãnh-hải có nội-dung tương-tự. Nói thêm là trong vụ đánh chiếm các vị-trí của Việt-Nam tại bãi Chữ-Thập, Trung-Cộng đã được quân Đài-Loan đóng tại đảo Ba-Bình giúp-đỡ về vật-chất như nước uống. Trung-Quốc đã cho xây tại đây một căn-cứ quân-sự có dạng tương-tự như một chiếc hạm. Năm 1992, Trung-Cộng đánh chiếm thêm một vị-trí của VN trên Trường-Sa là đảo d’Eldad Reef (đá En Đát), tổng-số đảo chiếm đóng là 9. Tháng 2 năm 1995, Trung-Quốc cho xây công-sự trên vùng bãi đá Vành-Khăn (Mischief), giống như công-sự xây trên đá Chữ Thập.

Hiện nay hải-quân Trung-Quốc có khoảng 76 chiến hạm (so với Hoa-Kỳ là 100 chiến hạm và 11 mẫu-hạm) nhưng khôngTrung-Quốc không có hàng-không mẫu hạm nào. Trung-Quốc cũng có khoảng 60 tàu ngầm, một số tàu này được trang-bị hỏa-tiễn siêu-thanh của Nga để tấn-công hàng-không mẫu hạm. Nhưng việc so-sánh hải-quân hai nước Hoa-Kỳ và Trung-Quốc sẽ khập-khểnh. Mục-tiêu của Trung-Quốc chỉ ở biển Đông, Đài-Loan và Châu Á trong khi mục-tiêu Hoa-Kỳ là giữ vị-trí hàng đầu thế-giới. Trung-Quốc không ngừng tăng ngân-sách quốc-phòng. Những năm sau này, mức gia-tăng mỗi năm là 18%. Năm 2005, Trung-Quốc tuyến-bố chi 45 tỉ đô-la cho quốc-phòng, nhưng thực ra con số này lớn hơn rất nhiều. Trung-Quốc hiện nay cũng có nhiều tàu đổ bộ, có khả năng vận chuyển 150 người với vận-tốc 120km/giờ và họ đang nghiên cứu tàu đổ bộ 450km/giờ chuyên-chở 500 người. Đảo Phú-Lâm (Hoàng-Sa) được xây phi-đạo dài 2.800m, xây nhiều nhà hầm chứa phi-cơ có khả năng chứa hơn 20 phi-cơ SU 27. Khu đá Vành-Khăn cũng được xây-dựng lại ; vị-trí thiên-nhên của bãi đá này (dài 8km, rộng 6,5km) trung-tâm là vùng nước sâu và êm, có thể được dùng làm cảng trú-ẩn của một hàng-không mẫu-hạm, chung-quanh được bao bọc bằng các công-sự chiến-đấu. Vì thế, với khả-năng hiện có, hải-quân Trung-Quốc có thể chiếm và giữ bất-kỳ một vị-trí nào trên biển Đông.

Trung-Quốc bành-trướng như thế, trên đất thì lấn đất, dưới biển thì dành biển, cướp hải-đảo. Hiện nay việc phân-định biên giới trên đất liền vẫn chưa xong, nguyên-nhân đưa đến sự trì-trệ này là vì Trung-Quốc đòi chủ-quyền tại một vùng đất thuộc Việt-Nam, vùng này có mỏ urani .

Thái độ của Việt-Nam ra sao ?

III. Qui-tắc hành-sử 2000.

Việt-Nam hoàn-toàn bất-lực, chỉ dựa vào chính-trị để xoa-dịu Trung-Quốc. Vũ khí duy-nhất để Việt-Nam tự-vệ hiện nay là…. Qui-Tắc Hành-Sử 2000.

« Qui-Tắc Hành-Sử - Code de Conduite » đã được các nước ASEAN đề-nghị vào tháng 3 năm 2000 với các nước có tranh-chấp tại Trường-Sa – đặc-biệt là với Trung-Quốc - có các nguyên-tắc như sau : Các nước quan-hệ cam-kết : 1/ không sử-dụng vũ-lực và giải-quyết những tranh-chấp bằng những nỗ-lực hòa-bình. 2/ Cam-kết giữ nguyên-trạng (statue quo) và không làm điều gì có thể gây trở-ngại thêm (những tranh-chấp tại Trường-Sa). 3/ Giữ những quan-hệ đối-thoại và trao đổi thông-tin giữa các bên. 4/ Ngưng mọi việc thăm-dò và khai-thác liên-quan đến dầu-hỏa và khí đốt. 5/ Thông-báo mọi cuộc thao-diễn quân-sự cũng như mọi cuộc chuyển quân trong vùng. 6/ Phi-quân-sự hóa và thay-thế những nhân-viên quân-sự tại đây bằng nhân-viên dân-sự. 7/ Hợp-tác trong chiều-hướng bảo-đảm an-ninh cho thuyền-bè qua lại trong vùng. 8/ Hợp-tác để chống hải-tặc và buôn bán trái phép ma-túy, vũ-khí. 9/ Hợp-tác trong các công-tác khoa-học và bảo-vệ môi-sinh. 10/ Tìm một giải-pháp đa-phương và thỏa-đáng cho các bên tranh-chấp.

Việt-Nam được các nước ASEAN chấp-nhận cho vào làm hội-viên năm 1991 vì lý-do bành-trướng thế-lực của Trung-Quốc tại biển Đông. Các nước nhận thấy sau khi Hoa-Kỳ ngó lơ các vụ xâm-lăng bằng vũ-lực của Trung-Quốc qua các vụ chiếm Hoàng-Sa (1974) và Trường-Sa (1988, 1992,1995). Trung-Quốc chiếm đảo Vành-Khăn gần Phi-Luật-Tân, trong khi Hoa-Kỳ bỏ Subic Bay ; biển Đông hoàn-toàn « giao » cho Trung-Quốc. Các nước ASEAN có nhu-cầu đoàn kết chống lại áp-lực và sức bành-trướng của Bắc-Kinh.

Qui-tắc này đã gây bất-lợi rất nhiều cho Việt-Nam vì các việc sau đây : Các nước Trung-Quốc và Đài-Loan luôn vi-phạm qui-ước này mà Việt-Nam không có phương-tiện trả đũa. Một thí-dụ khác bất-lợi cho Việt-Nam : Trong khi Trung-Quốc khai-thác bừa-bãi trên thềm lục-địa cũng như trong các vùng biển của Việt-Nam, phía Việt-Nam phản-đối nhưng Trung-Quốc vẫn tiến-hành việc khai-thác, không coi Việt-Nam và qui-ước hành-sử ra cái gì. Khi Việt-Nam cho khai-thác vùng Tu-Chính (trên thềm lục-địa Việt-Nam), Trung-Quốc đã lên tiếng phản-đối. Kế-hoạch hợp-tác giữa Việt-Nam với công ty xăng dầu BP của Anh Quốc trong việc xây-dựng hệ-thống dẫn khí đốt trong Biển Đông vừa mới ký-kết phải hủy-bỏ. Thí-dụ khác, Trung-Quốc và Đài-Loan liên-tục xây-dựng công-sự chiến-đấu trên các đảo mà họ kiểm-soát, vi-phạm trầm-trọng qui-tắc hành-sử, Việt-Nam hoàn-toàn bất lực trước các vi-phạm này.

IV Kết luận :

Vì sao Việt-Nam bất-lực đến mức không-thể khai thác tài-nguyên trong vùng biển của nước mình ?
Vì sao Việt-Nam không đuổi được bọn cướp đến cướp đất, cướp biển của mình ?
Vì sao người dân Việt-Nam đã không thể an-ổn làm ăn trên vùng biển mà từ ngàn xưa ông cha họ đã từng bỏ lưới đánh cá ở đó ?

Nguồn tin BBC đã dẫn ghi « Các nguồn tin quân sự nói ngày 9/7 hai tàu chiến cơ động BPS-500 của Việt Nam do Nga thiết kế đã vội vã đến hiện trường nhưng phải đứng từ xa vì hỏa lực quá mạnh từ tàu Trung Quốc.

Đại tá Nguyễn Phúc Nguyên nói: "Về lâu dài, chúng tôi cần củng cố lực lượng hải quân cũng như nâng cấp các đơn vị tuần tra ven biển."

Câu trả lời trước tiên là hải-quân Việt-Nam quá yếu, không có khả-năng bảo-vệ dân và nước. Họ chỉ đứng xa và ngó. Việt-Nam không còn thì giờ để « củng-cố lực-lượng hải-quân » như ông đại-tá Nguyễn Phúc Nguyên nói. Việt-Nam cũng không còn thì giờ để liên-minh chiến-lược với Ấn-Độ, cho dầu Ấn-Độ rất muốn trang-bị vũ-khí nguyên-tử cho Việt-Nam để đối-trọng với Pakistan trong vấn-đề đối-đầu với Trung-Quốc. Việc liên-minh này người ta đã nói đến từ lâu, nhưng lãnh-đạo VN chọn hướng thiên-triều.

Nguyên-nhân của tình-trạng tệ-hại ngày hôm nay rõ-ràng là do những sai lầm chiến-lược của nhiều thế-hệ lãnh-đạo Việt-Nam từ nhiều thập-niên qua. Nhiều vùng biển (và vùng đất) của Việt-Nam đã và đang âm-thầm đổi chủ, trở thành biển và đất của Trung-Quốc. Việc này không phải mới đây mà đã bắt đầu xảy ra từ thập niên 50, lúc ông Hồ Chí Minh còn sống.

Ông Hồ Chí Minh có trách-nhiệm rất lớn trong vấn-đề nhượng đất và biển cho Trung-Quốc . Vì hậu quả của những công-hàm ngoại-giao ký dưới thời ông Hồ mà Trung-Quốc mới có cớ xâm-chiếm Hoàng-Sa, một số đảo thuộc Trường-Sa và đòi hỏi toàn biển Đông thuộc chủ quyền của họ. Một số đất vùng biên-giới trên đất liền đã bị mất vào tay Trung-Quốc, điển hình là khu-vực Nam-Quan và thác Bản-Giốc, cũng mất dưới thời Hồ Chí Minh.

Tài-liệu « Con Hổ Và Thùng Dầu », nguyên tác Joachim Hoelzgen, Báo Spiegel Online, CHLB Đức, ngày 25.06.2007 do Phạm Việt Vinh chuyển ngữ, đăng trên Tổ-Quốc số 21 vừa rồi có viết : Thềm lục-địa của những quốc gia vùng Đông Nam Á, các dàn khoan càng ngày càng gặp nhiều khí đốt và dầu mỏ. Việt Nam là quốc gia gặp nhiều may mắn nhất: ở đây, các bãi dầu như một tấm thảm trải dài từ Bắc chí Nam- trong đó, có cả một „supergiant field“ (bãi dầu siêu khổng lồ) tầm cỡ như ở Ả Rập Xê Út. Chắc không ai muốn « các bãi dầu như tấm thảm trải dài từ Bắc chí Nam » của Việt-Nam thuộc về Trung-Quốc.

Việt-Nam không thể bó tay, bất-lực « từ xa đúng nhìn » như hiện-tại.

Lãnh-đạo Việt-Nam hãy tức-thời mở mắt, định-hướng lại chiến-lược quốc-gia, nhận rõ đâu là bạn đâu là thù, phải coi quyền lợi dân-tộc là tối-thượng. Tình-trạng này kéo dài là mất tất cả cho Tàu.

Trước mắt, nhà-nước VN lấy bớt ngân-sách cho công-an, giải-tán ít nhất 2/3 đám côn-đồ ức-hiếp dân này, thanh-lọc, chỉ chọn những người có ý-chí phục-vụ cho dân ; lấy lại ngân-sách dành cho tổng-cục 2 (nghe nói là làm tay sai cho Tàu) ; dẹp bỏ hệ-thống đảng-ủy song song với hệ-thống nhà-nước, dẹp đám đảng-viên ăn hại đát nát, ăn bám vào dân, là gánh nặng cho đất nước ; thanh-lọc lại toàn-bộ nhân-sự bộ Quốc-Phòng, tuyển những người trong sạch, có khả-năng quân-sự, tất-cả dồn vào hiện-đại hóa quân-đội, thì rất có thể không bao lâu Việt-Nam sẽ có khả-năng làm cho đối-phương nhượng-bộ.

Trương Nhân Tuấn
Marseille, Pháp Quốc 28-07-2007
©Vietnam Review

Thứ Năm, 26 tháng 7, 2007

Quốc hội do “đảng cử dân bầu”, nhà nước do “đảng bảo quốc hội gật”

Phiên họp đầu tiên của Quốc hội “đảng cử dân bầu” Khóa 12 vừa bế mạc hôm 23/7 với những kết quả không làm ai ngạc nhiên vì nó đúng như những dự đoán của tất cả mọi người ngay trước khi phiên họp này khai mạc. Trái ngược với những tin tức về dân oan biểu tình tại Sài Gòn vừa qua đã không được đề cập đến, dù chỉ là vài dòng ngắn ngủi, thì những tin tức chung quanh phiên họp Quốc hội này đã được các tờ báo quốc doanh khai thác tối đa và cho chạy tít lớn trên các trang chính.

“Đảng đã thay mặt nhân dân cả nước giao cho chúng tôi trọng trách”!

Kết quả đầu tiên là Nguyễn Phú Trọng “tái” đắc cử chức chủ tịch Quốc hội. Ngay sáng 23/7, sau khi được tuyên bố “trúng cử” với 97,97% số phiếu hợp lệ (vậy là có vài phiếu “không hợp lệ”!), Nguyễn Phú Trọng đã nói rằng: "Cảm ơn vì sự tín nhiệm của QH, chúng tôi nhận thức sâu sắc rằng bằng lá phiếu của mình, các đại biểu QH đã thay mặt nhân dân cả nước giao cho chúng tôi trọng trách vô cùng lớn lao". Không hiểu các ông bà đại biểu QH nào đã thay mặt nhân dân cả nước trao cho Nguyễn Phú Trọng cái “trọng trách” đó? Ðúng ra thì Trọng nên nói là “Đảng đã thay mặt nhân dân cả nước giao cho chúng tôi trọng trách” vì ai cũng biết các đại biểu Quốc hội là do Ðảng đưa ra hoặc do Ðảng chấp nhận mới được ra ứng cử.

Theo bài bản đã định sẵn được các cơ quan báo chí truyền thông quốc doanh đưa tin, lần lượt 4 phó chủ tịch Quốc hội cũng được nêu tên là: Nguyễn Đức Kiên (đắc cử với tỷ lệ 96,75%); Uông Chu Lưu (93,91%); Huỳnh Ngọc Sơn (92,49%); Tòng Thị Phóng (91,08%). Những con số tỷ lệ đắc cử 91, 92, 93, 96 … rất đẹp, rất khéo vẽ chỉ có thể có trong những quốc gia độc tài nơi mà các kết quả bầu cử đã được xếp đặt trước.

Tiếp tục trò hề “đảng bảo quốc hội gật”, Trọng đã thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội đọc tờ trình danh sách đề cử để các đại biểu bầu Chủ tịch nước. Danh sách do Chủ tịch Quốc hội đọc chỉ vỏn vẹn có ... 1 ứng viên duy nhất là Nguyễn Minh Triết và đương nhiên là Triết đã được tái đắc cử vào vị trí này với một kết quả hết sức "khiêm nhường" là 98.78% tức là 487 phiếu trên tổng số 490 phiếu, vì phải trừ đi 3 phiếu của Tổng Bí thư (Mạnh), Chủ tịch Quốc hội (Trọng) và của chính Triết (Chủ tịch nước) !

Phát biểu nhậm chức, Triết nói "Tôi sẽ cùng vui với cái vui của mọi người đồng thời cũng chia sẻ những nỗi buồn, những nỗi đau của người dân. Tôi sẽ làm hết sức mình để sớm vơi đi những nỗi đau đó".

Mới cách đây có hơn 5 ngày thôi, hàng ngàn dân oan dãi nắng dầm mưa ngồi chờ đợi ở trước văn phòng QH2 mà có thấy Triết đến để “chia sẻ những nỗi buồn, những nỗi đau của người dân” đâu? Hay là Triết ghiền coi bóng đá cúp châu Á nên không biết ?

Báo chí quốc doanh cũng không quên khoe giùm Triết có bằng cử nhân toán (dưới thời ... "chế độ Ngụy"!). Thật ra Triết bỏ học ngang rồi vào bưng theo VC, thì làm sao mà xong được cử nhân Toán?. Và không biết có phải vì “nặng nợ” với cái “chế độ Ngụy” đã cho Triết có cơ hội “ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản” để đi học đại học không, mà Triết đã “cảm tác” ra hai câu thơ đọc ngay giữa nghị trường:

“Chúng mình nặng nợ Quốc Gia.
Quyết làm rạng rỡ nước nhà Việt Nam” (VietNamNet)

Sau khi được Quốc hội “chấp thuận” với 98,78% phiếu, thì tới phiên Nguyễn Minh Triết đọc tờ trình giới thiệu danh sách đề cử để QH bầu các chức vụ Phó chủ tịch nước, Thủ tướng, Chánh án TAND Tối cao và Viện trưởng Viện KSND. Vừa được tái đắc cử chức Chủ tịch nước xong là Triết có ngay sẵn tờ trình để đọc trước nghị trường, đề cử ra các chức vụ linh tinh khác. Ðiều này chứng tỏ rõ ràng là Triết đã biết trước và biết chắc chắn mình sẽ tái đắc cử. Một sự dàn cảnh vô cùng vụng về.

98.78% là chưa tính đến 3 phiếu của bác Mạnh, thằng Dũng và tui đó!

Chức Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được giao cho Trần Quốc Vượng (nguyên là Phó Viện trưởng thường trực Viện kiểm sát nhân dân tối cao); trong khi vị trí Chánh án Toà án nhân dân tối cao thì được giao cho Trương Hoà Bình, người Long An (là Thứ trưởng Bộ Công an). Được biết tên Trương Hòa Bình (có bí danh là Sáu Đạt, được thăng trung tướng cách đây 3 tháng) là người được đảng CSVN dự trù kiêm thêm chức Chủ tịch Liên Đoàn VoViNam Việt Võ Đạo Việt Nam, một tổ chức do CSVN dựng nên để thâu tóm hết các võ đường trên thế giới của phái võ dân tộc cổ truyền này về dưới trướng của đảng.

Sáng Thứ Tư 25/7 thì Nguyễn Tấn Dũng được Quốc hội "bầu" vào chức vụ Thủ tướng với tỷ số phiếu thuận 96.96%. Cựu du kích gốc Cà Mau này được giới thiệu là có bằng cử nhân luật, nhưng không cho biết là bằng cử nhân do trường đại học nào cấp và vào năm nào, đã trúng cử đại biểu QH khóa 12 tại Hải Phòng. Anh cựu du kích này giỏi và chịu khó thật, người quê quán ở mũi Cà Mau miền Nam mà lặn lội ra ứng cử tận thành phố Hải Phòng ngoài miền Bắc xa xôi, Dũng không phải là người điạ phương Hải Phòng mà được cử tri Hải Phòng “tín nhiệm” với tỷ lệ 99%!

Báo VnExpress cũng không quên bốc thơm ông Thủ tướng là “một nhà kỹ trị và có hiểu biết về kinh tế” đang tìm cách đưa “nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN tham gia tích cực vào kinh tế thế giới”.

Như đã được dự đoán từ 3 tháng trước đây, Nguyễn Thị Doan, đại biểu Hà Nam, được Ðảng cho thay thế Trương Mỹ Hoa trong vai trò phó chủ tịch nước với một tỷ lệ chấp thuận 72% rất khiêm nhường.

Quốc hội thì do “đảng cử dân bầu”, còn nhà nước thì do “đảng bảo quốc hội gật” với kết quả đắc cử toàn là những con số gần như tuyệt đối!

Lê Minh Úc (25/07/2007)

Thứ Tư, 25 tháng 7, 2007

Dân biểu Loretta Sanchez gởi thư yêu cầu Chủ tịch Triết giải thích về việc công an dùng bạo lực đối với những người biểu tình trước Quốc hội 2

Thưa Chủ tịch Triết

Tôi viết (lá thư này) để bày tỏ sự thất vọng sâu xa của tôi về cách đối xử với những người biểu tình ôn hòa tại Tp. HCM ngày 18/7/07. Theo tôi biết thì có khoảng 1500 công an Việt Nam đã được điều động để phá vỡ một cuộc toạ kháng ôn hòa của 1700 nông dân. Tôi đã đọc những báo cáo cho biết khoảng 30 nông dân đã bị thương nặng vì hành vi bạo động của công an.

Là một Dân biểu Quốc hội đại diện cho một cộng đồng đông đảo của người Mỹ gốc Việt, tôi rất lo ngại về những báo cáo công an dùng bạo lực tại cuộc toạ kháng. Tôi đặc biệt lo ngại hơn khi mà ông vừa mới đến thăm Tổng thống Bush vào ngày 22/6, và ông ấy đã bày tỏ cho ông biết sự quan trọng của nhân quyền trong quan hệ hữu nghị giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Đặc biệt là Tổng thống Bush đã tuyên bố trong buổi họp báo chung với ông là ông ta đã nói với ông điều sau đây:


"Tôi cũng đã xác định rất rõ ràng là để cho những quan hệ được phát triển sâu đậm hơn, điều quan trọng là những người bạn của chúng tôi có một quyết tâm mạnh mẽ về nhân quyền, tự do và dân chủ. Tôi đã giải thích sự tin tưởng mạnh mẽ của tôi là xã hội được giàu đẹp hơn khi người dân được phép bày tỏ tư tưởng của họ một cách tự do hay được tự do hành đạo."


Lời tuyên bố này liên quan đến tầm quan trọng của nhân quyền đối với Hoa Kỳ, là lời tuyên bố tiếp theo sau bản thông cáo chung giữa ông và Tổng thống Bush ngày 17/11/06. Bản thông cáo chung này cũng lại đề cập đến tầm quan trọng của nhân quyền:


"Tổng thống Bush đã giải thích Chiến lược An ninh Quốc gia của Hoa Kỳ, mà Chiến lược này đã nhấn mạnh tầm quan trọng của nền hoà bình thế giới và sự ổn định phát triển trong tất cả các quốc gia có sự tôn trọng hoàn toàn cho nhân quyền và những quyền tự do căn bản. Chủ tịch Triết đã báo cho Tổng thống Bush biết về những luật lệ và quy định được công bố mới đây về tự do tôn giáo đang được thi hành trên khắp các địa phương tại Việt Nam. Cả hai nhà lãnh đạo cũng đã ghi nhận tầm quan trọng của việc tiếp tục làm cho tiến triển vấn đề đối thoại nhân quyền song phương, và tái xác nhận rằng điều đó nên được thực hiện với một thái độ cởi mở, xây dựng và có kết quả”.


Qua những trao đổi về tầm quan trọng của nhân quyền trong buổi hội kiến hồi tháng 11/06 và tháng 6/07 giữa ông và Tổng thống Bush, tôi cảm thấy thất vọng và bực mình bởi những báo cáo về việc công an hành xử tàn bạo tại Sài Gòn vào ngày 18/7/07. Tôi muốn được thấy nhà nước Việt Nam chú ý một cách nghiêm túc hơn về vấn đề nhân quyền. Những báo cáo liên tục về việc vi phạm nhân quyền tại Việt Nam trong vài tháng vừa qua, là điều thất bại trong việc thuyết phục nhân dân Hoa Kỳ rằng nhà nước Việt Nam có những tiêu chuẩn căn bản về nhân quyền mà các đối tác thương mãi và các thành viên của cộng đồng thế giới mong đợi.

Tôi muốn được nghe thẳng từ ông tại sao những hành vi bạo động này đã được công an Việt Nam xử dụng đối với những người biểu tình ôn hòa.

Kính thư
Loretta Sanchez
Dân biểu Hạ viện

Đồng kính gởi:
Bà Condoleezza Rice, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao

Miễn Visa, một cạm bẫy tinh vi của Việt cộng.

Cả hơn tháng nay có mấy người quen đến «chơi hay đến thăm» gia đình tôi và lần nào tôi cũng có nghe bàn đến chuyện về Việt nam được «miễn Visa». Tin nầy thì chúng tôi đã biết từ ngày ông chủ tịch Nguyễn Minh Triết tuyên bố trong thời gian đi Mỹ vừa qua. Sở dĩ tôi viết bài nầy là muốn gửi đến những người quen biết đến «chơi hay đến thăm», nếu có đọc qua, thì mỗi lần đưa tin «miễn Visa» cũng xin nói đến mưu mô thâm độc quỷ kế, một cạm bẫy tinh vi của Việt cộng trong chiến thuật nầy.

1. Chủ trương lấy tiền và kiểm soát người tỵ nạn cộng sản.

Trước đây Việt cộng nghĩ rằng vấn đề chu cấp Visa nhập cảnh sẽ là chiến thuật hiệu nghiệm trong việc kiểm soát cộng đồng Việt kiếu tại nước ngoài. Các toà đại sứ Việt cộng được lệnh phải dễ dãi với Việt kiều mỗi lần muốn về tham quan trong nước. Ban đầu toà Đại sứ yêu cầu kiều dân muốn về Việt nam phải đích thân đến toà đại sứ để khai lý lịch tường tận qua «ba đời bốn kiếp» của mình. Lối khai lý lịch «ba đời bốn kiềp» chẳng thu hút được số đông du khách Việt kiều, nên Việt cộng liền cho ra một loạt khai lý lịch «nhẹ nhàng» hơn, nhưng số người Việt tỵ nạn cộng sản vẫn còn thưa thớt.

Thấy vậy, Việt cộng liền cho phép các hãng du lịch máy bay thay mặt đương đơn xin Visa trực tiếp với toà Đại sứ Việt cộng, nghĩa là không cần vào lời khai lý lịch người xin Visa nhập cảnh. Kế hoạch nầy, ngoài việc toà Đại sứ Việt cộng thu thêm được ít đô-la, chứ không cách nào kiểm soát và kiềm chế được người tỵ nạn cộng sản. Có chăng chỉ được vài tên hoặc là thành phần thiếu hiểu biết, hoặc là những tên trong các băng đảng «ăn cháo đá bát», chuyên nghề đâm lén sau lưng các đồng liêu tại nước ngoài đứng ra xin làm điểm chỉ mật báo mà thôi. Bằng chứng những cuộc chống đối Việt cộng tại hải ngoại hôm nay đã trả lời trực tiếp nói lên sự thất bại ê chề trong các kế hoạch xin Visa nhập cảnh của Việt cộng.

2. Miễn Visa, sự giải thích vòng vo của Việt cộng.

Không được kế hoạch nầy thì có kế hoạch khác. Miễn sao kiểm soát được dân tỵ nạn cộng sản để lủng đoạn các cộng đồng người Việt hải ngoại là thượng sách. Đó là kế hoạch «Miễn Visa» cho tất cả những người Việt nam tại nước ngoài như chủ tịch Nguyễn minh Triết tuyên bố qua các diễn giải vòng vo sau đây.

Theo chủ tịch Hội Liên Lạc với người Việt nam hải ngoại tại Saigon thì «Việc bỏ thị thực cũng phải đi kèm với một số thủ tục, ví dụ không cần xin thị thực nhập cảnh nhưng mà chắc chắn cũng phải có một cái gì để xác nhận là có nguồn gốc Việt Nam. Bởi vì đa số người Việt Nam ở nước ngoài đều mang quốc tịch nước ngoài, thì không phải cứ cầm passport nước ngoài vào một cái là được mà còn phải có một thủ tục đi kèm, đó là cái giấy xác nhận nguồn gốc Việt Nam. Và cái giấy xác nhận nguồn gốc hiện nay thì do hiện nay ở Bộ Ngoại Giao, các đại sứ quán của chúng ta là coi như là có cái hướng dẫn để mà thức hiện việc này. Tức nhiên là đối với mỗi nước thì luật quốc tịch nó gắn liền với luật pháp quốc tế, và như vậy mình phải làm việc song phương. Thí dụ đối với kiều bào ở Mỹ thì làm việc với chính phủ Mỹ, kiều bào ở Pháp thì mình làm việc với chính phủ Pháp vân vân…Cần phải chuẩn bị song phương tức là Việt Nam với các nước là phải thông cái vấn đề này. Còn bây giờ kiều báo có thể hỏi đại sứ quán Việt Nam tại các nước, tại vi đại sứ quan Việt Nam ở tại các nước là cái nơi sẽ phải giải thích và hướng dẫn những chi tiết cụ thể. Ở thánh phố Hồ Chí Minh thì có Ủy Ban Về Người Việt Nam Nước Ngoài là cái nơi cung cấp giấy xác nhận nguồn gốc Việt Nam.»

Theo ông Lê quốc Hưng, phó giám đốc thường trực sở Ngoại vụ Saigon thì «Vấn đề miễn thị thực là cho những người có gốc Việt Nam, chứ còn bây giờ hai người đều cầm passport Mỹ, có người mình cho vào có người mình không cho vào, là bởi vì cái người mình cho vào là người có gốc Việt Nam thì nó phải có cái gì xác nhận là gốc Việt Nam chứ. Dù là anh mang quốc tịch nước ngoài nhưng anh là người có gốc Việt Nam, và định nghĩa thế nào là người có gốc Việt Nam thì cái việc đó sẽ phải có những hướng dẫn cụ thể. Khi tôi nói đến nghị quyết ba mươi sáu của đảng có nghĩa là đối với tất cả bà con Việt kiều ở nước ngoài. Bà con người Việt, bà con gốc Việt, chứ không chỉ riêng Việt kiều ở Mỹ. Ở đâu có người Việt Nam thì đều được hưởng quí chế đó hết cả. Để làm được cái chuyện đó thì nó phải là đồng bộ, nó phải tất cả các cơ quan ban ngành, nó phải đi từng bước. Tôi lấy vị dụ như bây giờ chuẩn bị chúng tôi đang phải làm cái chuyện là giải quyết cho bà con về nước không cần visa. Nhưng bây giờ những người Việt Nam về nước thì mới không cần visa, chứ còn những người quốc tịch khác thì vẫn phải visa chứ. Như vậy để xác định người nào là người Việt Nam thì đấy là chuyện mà chúng tôi đang cố gắng nỗ lực để tìm ra một phương án tối ưu. Ví dụ như là bà con có thể đến đăng ký là người Việt Nam hay thế nào đó, và chúng tôi sẽ phải cấp một giấy tờ gì đấy. Thì trên cơ sở những cái giấy tờ đó thì bà con có thể về nước yên tâm và không cần phải visa nữa.».

3. Miễn Visa, một vấn đề cần khai triển.
Theo nhà báo Nguyễn Cần, cư ngụ tại tiểu bang California là nơi có một cộng đồng Mỹ gốc Việt đông nhất Hoa Kỳ đã đưa ra một nhận xét đáng chú ý : «Người nào giữ passport của nước nào thì trên thực tế đương nhiên coi như người đó có quốc tịch đó. Nhưng bây giờ mình ở Mỹ về chẳng hạn thì mình phải có hai loại giấy tờ, thứ nhất là phải có passport của Mỹ, cái giấy tờ thứ hai mà muốn được khỏi visa thì phải có thêm một giấy chứng minh mình là người Việt Nam. Đó là một vấn đề».

Người viết rất tiếc nhà báo Nguyễn Cần không khai triễn «vấn đề» đó ra sao, nên tiện dịp tôi cần tiếp tay khai triễn «vấn đề» đó để bà con Việt nam, những người không cộng sản tại Bỉ đừng quá nhẹ dạ mà sẽ bị xập bẫy Việt cộng trong việc xin thêm «một giấy chứng nhận mình là người Việt nam» để có một «Miễn Visa 5 năm».

Sở dĩ trong bài nầy tôi muốn nhắc riêng đến bà con người Việt tỵ nạn cộng sản tại Bỉ, nguyên do cũng vì bấy lâu một số đông bà con đã lên toà Đại sứ Việt cộng vô tình đóng thuế xin thị thực tờ Giấy Khai Sinh mỗi lần cưới hỏi, mà các lãnh tụ các hội đoàn tôn giáo và chính trị tại xứ nầy không dám nhúc nhích. Các ngài lãnh tụ không «làm chính trị» hoặc có «làm chính trị hai mang» đã im thin thít để được về Việt nam thuê con gái vị thành niên và đàn bà Saigon-Hànội đấm bóp !. (Một bọn hèn như lũ chó dại).

Thực ra người viết chưa biết Việt cộng hiến kế cách khai lý lịch «ba đời bốn kiếp» để xin chứng thư Miễn Visa sẽ ra sao, nhưng một ý nghĩ thô thiển nhứt là :

a) Khi bạn đưa đơn xin «xác nhận mình là người Việt nam» tức là bạn gián tiếp thối thác quyền công dân bạn là người dân Bỉ, bởi lẽ theo hiến pháp Bỉ thì người dân không có quyền mang hai quốc tịch. Một việc làm tuy ngoài ý muốn của bạn, nhưng khi hữu sự về phương diện chính trị sự nhập tịch Bỉ của bạn sẽ là vấn đề.

b) Mặt khác bạn tự động «xin xác nhận bạn là người Việt nam» thì mọi thủ tục hành chánh và pháp lý bạn phải tuỳ thuộc vào Việt cộng và chính quyền Bỉ không có quyền viện dẫn lý do để can thiệp cho bạn được, dù cho có chuyện Việt cộng khủng bố và áp đặt lên bạn những tội vạ vô căn cứ.

Vậy tôi trân trọng xin các chủ biên báo chí và giám đốc diễn đàn điện tử đăng tải cho bà con trong cộng đồng tỵ nạn cộng sản điều nghiên kỹ càng khi tự động nghe theo kế hoạch «Miễn Visa» cuả Việt cộng. Tôi chân thành cám ơn.

Lê Hùng Bruxelles.

Cái bẫy "xác minh nguồn gốc Việt Nam để được miễn thị thực visa" của CSVN
Quê Hương Chùm Khế Ngọt Ngào
Bản-tin ngày 19-7-2007 của đài Á Châu Tự Do RFA có phỏng vấn những thắc mắc về qui-định xác minh nguồn gốc Viêt nam để được miễn thị thực visa.

Nghe qua bản-tin thì vấn-đề xin xác-minh về nguồn-gốc Việt-nam sẽ được hiểu như sau:

Xác-minh nguồn-gốc Việt-nam tức là người đứng đơn xin minh-xác mình là nguời Việt-Nam thực-sự. Giấy xác-minh nầy sẽ do Tòa-Đại-Sứ nước Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-nghĩa Việt-Nam cấp ; như vậy việc minh-xác nầy sẽ là một chứng-minh hết-sức hoàn-mỹ của chánh-quyền nước CHXHCNVN với thế-giới là: Người đứng đơn đã xin chánh-thức minh-định mình là người công-dân của nước CHXHCNVN vậy.

Như vậy người xin được làm công-dân nước CHXHCNVN khi trở lại VN với bất cứ một lý-do gì khi có việc lôi-thôi giữa cá-nhân với cá-nhân hay với các tổ-chức ở trong nước ; hay xa hơn nữa là với chánh-quyền Việt-Cộng thì sẽ do chánh-quyền quốc-nội hoàn-toàn xử-lý số mạng của quí-vị mặc dù quí-vị đang có quốc-tịch ngoại-quốc.

Cái bẫy nhỏ nầy là vậy đó, chỉ vậy thôi.

Nếu quí-vị nào cảm thấy qua nghị-quyết 36 đã thấy và ngửi được mùi quê-hương là chùm khế ngọt thì xin hãy vui lòng phấn-khởi hồ-hởi vô đơn xin xác-minh mình là người công-dân nguyên-gốc của nước Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam vậy.

Nguồn-Gốc rõ-Ràng

Nguồn-gốc ngoại-kiều được rõ-ràng
Là điều hạnh-phúc quá thênh-thang
Ăn trên trong lúc vòng lao-lý
Ngồi trước khi chờ án-lệ làng
Xác-nhận Công-dân người Việt-Tộc
Chứng-minh chánh-sách phỉ đàng-hoàng
Ai ơi! Khế ngọt nguyên chùm chín
Cố-quốc mau về cúng phát-tang

Tiểu Bảo
23-7-2007
(@take2tango.com)




Những thắc mắc về quy định xác minh nguồn gốc Việt Nam để được miễn thị thực visa
2007.07.19
Thanh Trúc, phóng viên đài RFA

Hôm thứ Hai vừa qua, ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do phát thanh một bài do Thanh Trúc thực hiện có nội dung liên quan đến lời công bố của chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết lúc công du Hoa Kỳ hồi tháng Sáu là bắt đầu từ tháng Chín năm nay, kiều bào ở hải ngoại về thăm nhà sẽ được miễn visa.

Điều này có nghĩa là không riêng người Việt ở Hoa Kỳ mà ở khắp nơi trên thế giới được miễn thủ tục xin thị thực chiếu khán trước rồi mới được nhập cảnh Việt Nam như trước giờ.

Sau khi bài được phát đi, qua đó phỏng vấn tiến sĩ Lâm Bạch Vân, chủ tịch Hội Liên Lạc Với Người Việt Nam Ở Nước Ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh, và ông Lê Hưng Quốc, phó giám đốc thường trực Sở Ngoại Vụ thành phố Hồ Chí Minh, Thanh Trúc nhận được khá nhiều ý kiến thắc mắc của thính giả.

Để câu chuyện được rõ ràng hơn, mời quí vị nghe lại lời giải thích của tiến sĩ Lâm Bạch Vân cũng như của ông Lê Hưng Quốc:

Tiến sĩ Lâm Bạch Vân: Việc bỏ thị thức cũng phải đi kèm với một số thủ tục, ví dụ không cần xin thị thực nhập cảnh nhưng mà chắc chắn cũng phải có một cái gì để xác nhận là có nguồn gốc Việt Nam. Bởi vì đa số người Việt Nam ở nước ngoài đều mang quốc tịch nước ngoài, thì không phải cứ cầm passport nước ngoài vào một cái là được mà còn phải có một thủ tục đi kèm, đó là cái giấy xác nhận nguồn gốc Việt Nam.

Và cái giấy xác nhận nguồn gốc hiện nay thì do hiện nay ở Bộ Ngoại Giao, các đại sứ quán của chúng ta là coi như là có cái hướng dẫn để mà thức hiện việc này. Tức nhiên là đối với mỗi nước thì luật quốc tịch nó gắn liền với luật pháp quốc tế, và như vậy mình phải làm việc song phương. Thí dụ đối với kiều bào ở Mỹ thì làm việc với chính phủ Mỹ, kiều bào ở Pháp thì mình làm việc với chính phủ Pháp vân vân…

Cần phải chuẩn bị song phương tức là Việt Nam với các nước là phải thông cái vấn đề này. Còn bây giờ kiều báo có thể hỏi đại sứ quán Việt Nam tại các nước, tại vi đại sứ quan Việt Nam ở tại các nước là cái nơi sẽ phải giải thích và hướng dẫn những chi tiết cụ thể. Ở thánh phố Hồ Chí Minh thì có Ủy Ban Về Người Việt Nam Nước Ngoài là cái nơi cung cấp giấy xác nhận nguồn gốc Việt Nam.

Vấn đề miễn thị thực là cho những người có gốc Việt Nam, chứ còn bây giờ hai người đều cầm passport Mỹ, có người mình cho vào có người mình không cho vào, là bởi vì cái người mình cho vào là người có gốc Việt Nam thì nó phải có cái gì xác nhận là gốc Việt Nam chứ. Dù là anh mang quốc tịch nước ngoài nhưng anh là người có gốc Việt Nam, và định nghĩa thế nào là người có gốc Việt Nam thì cái việc đó sẽ phải có những hướng dẫn cụ thể.

Ông Lê Hưng Quốc: Khi tôi nói đến nghị quyết ba mươi sáu của đảng có nghĩa là đối với tất cả bà con Việt kiều ở nước ngoài. Bà con người Việt, bà con gốc Việt, chứ không chỉ riêng Việt kiều ở Mỹ. Ở đâu có người Việt Nam thì đều được hưởng quí chế đó hết cả.

Để làm được cái chuyện đó thì nó phải là đồng bộ, nó phải tất cả các cơ quan ban ngành, nó phải đi từng bước. Tôi lấy vị dụ như bây giờ chuẩn bị chúng tôi đang phải làm cái chuyện là giải quyết cho bà con về nước không cần visa. Nhưng bây giờ những người Việt Nam về nước thì mới không cần visa, chứ còn những người quốc tịch khác thì vẫn phải visa chứ.

Như vậy để xác định người nào là người Việt Nam thì đấy là chuyện mà chúng tôi đang cố gắng nỗ lực để tìm ra một phương án tối ưu. Ví dụ như là bà con có thể đến đăng ký là người Việt Nam hay thế nào đó, và chúng tôi sẽ phải cấp một giấy tờ gì đấy. Thì trên cơ sở những cái giấy tờ đó thì bà con có thể về nước yên tâm và không cần phải visa nữa.

Câu hỏi mọi người nêu lên ở đây là để được miễn visa mà phải chứng nhận mình là người gốc Việt Nam thì phương cách khai báo ra sao, dựa trên tiêu chuẩn nào. Một thính giả còn email cho Thanh Trúc, bày tỏ e ngại rằng qui định vừa nói có thể tạo cơ hội để nhân viên sứ quán Việt Nam tại các nước gây khó dể người xin xác minh không, và liệu có yêu cầu người xin xác minh phải khai báo lý lịch không?

Thủ tục đi kèm
Nhà báo Nguyễn Cần, cư ngụ tại tiểu bang California là nơi có một cộng đồng Mỹ gốc Việt đong nhất Hoa Kỳ, trình bày quan điểm chung chung ông nghe được từ khi có tin sắp bãi miễn visa cho Việt Kiều về thăm nhà.

Nhà báo Nguyễn Cần: Không có visa hay có visa thì một số người Việt ở đây vẫn gặp trở ngại khi về Việt Nam. Thứ nhất bảo là phải chứng minh nguồn gốc Việt Nam, thì đối với những người ở khu vực Đông Nam Á được nhập cảnh vào Việt Nam không cần visa thì dể rồi, ví dụ họ cho Thái Lan, Cambodia, Singapore, mình đưa passport của nước đó ra là đương nhiên họ cho vào.

Bởi vì người nào giữ passport của nước nào thì trên thực tế đương nhiên coi như người đó có quốc tịch đó. Nhưng bây giờ mình ở Mỹ về cẳng hạn thì mình phải có hai loại giấy tờ, thứ nhất là phải có passport của Mỹ, cái giấy tờ thứ hai mà muốn được khỏi visa thì phải có thêm một giấy chứng minh mình là người Việt Nam. Đó là một vấn đề

Cái khó khăn là bởi nếu như trên hộ chiếu có ghi tên Việt Nam và nơi sinh Việt Nam thì không cần có các loại giấy tờ nói tên. Mà thức ra thì hộ chiếu Việt Nam bây giờ là đổi tên hết rồi, tên Việt Nam không còn nữa. Rồi ở trên đó để nơi sinh Việt Nam nhưng mà có nhiều cái không có để. Thành ra chứng minh bằng cách nào?

Đem theo một cái khai sanh hay đem theo những giấy tờ gì còn lại. Nhiều người đi đã mưới năm hai mươi năm những giấy tờ đó họ vất đi hết rồi thì làm sao họ chứng minh được họ là quốc tịch Việt Nam. Ở đây tôi thấy dấu hiệu của họ là muốn như vậy thì mình có thể xin toà lãnh sự của Việt Nam ở đây xác nhận mình là người Việt Nam theo những giấy tờ mình chứng minh mình cầm theo là đủ.

Nhưng mà đa số người Việt ở đây không muốn đến toà lãnh sự Việt Nam ở bất cứ nơi nào trên đất Mỹ, có thể nói đến 90% sẽ không chịu làm công việc ấy. Thành ra trở ngại vẫn còn. Tôi có đọc tài liệu trong nước thì thấy hai việc khó khăn mà họ đang xét, thứ nhất là vấn đề an ninh, thứ hai là vấn đề tiền cấp visa đó.

Vấn đề an ninh thì còn cái thắc mắc là từ trước đến nay chính phủ Việt Nam có danh sách những Việt kiều không bao giờ được cho nhấp cảnh vào Việt Nam, xin visa là họ bác. Rồi có những người khi đã về tới Saigon họ không cho vô họ đẩy lui. Thành những trường hợp đó còn kho khắn hơn trước nữa.

Hồi trước mình gởi một cái đơn lên mình xin visa họ không cho là mình biết không được về. Bây giờ mình về tới Saigon rồi thị họ lật sổ đen ra họ thấy tên mình trong đó là họ tống mình về. Thành ra mình sẽ gặp khó khăn, mình không biết được mình có phải thuốc loại được cho về hay không cho về. Đó là những thắc mắc thông thường thôi, chứ còn thắc mắc nữa thì còn nhiều vấn đề lắm.

Trong khi đó ông Phan Thành, Việt kiều Canada, hiện là chủ tịch Hội Doanh Nghiệp Người Việt Nam Ở Nước Ngoài tại Saigon, trả lời câu hỏi của Thanh Trúc.

Ông Phan Thành: Chủ tịch nước nói tháng Chín này bỏ visa cho bà con nước ngoài về thăm đất nước quê hương thì tôi cho là việc có thật và đúng hẹn lại lên.

Thanh Trúc: Nhưng thưa ông Phan Thành, phó giám đốc Sở Ngoại Vụ thành phố Hồ Chí Minh là ông Lê Hưng Quốc nhấn mạnh rằng cần phải có thủ tục đi kèm, tức là phải xác nhận được mình là người Việt Nam.

Và để mà xác nhận như vậy thì có phải đang ký với các đại sứ quán Việt Nam ở các nước trên thế giới. Bên hải ngoại có một điều họ băn khoăn là đăng ký như vậy không biết có phải kê khai lý lịch không. Bởi vì đối với những người đã ra đi gần như họ bị dị ứng với cái kiểu gọi là kê khai lý lịch.

Ông Phan Thành: Tôi làm công tác kiều bào nhiều năm và tôi làm chuyện này nhiều lần. Thật ra mà nghĩ cái đó và nói cái đó là không có chịu nghĩ sâu. Làm giấy xác nhận nguồn gốc Việt Nam đơn giản thôi. Nều người nào có giấy khaa sanh hoặc là có passport xác nhận quốc tịch Mỹ nhưng mà sinh đẻ ở Việt Nam là họ cấp giấy rồi. Đơn giản lắm.

Thậm chí có người không có khai sanh thì tụi tôi có hai người làm chứng là anh này người Việt Nam gốc Việt Nam là được thôi. Còn nếu ở nước ngoài là chổ những toà đại sứ bên đó là đơn giản thôi, họ chỉ nhìn vào chứng cớ nào trong giấy tờ hay passport gì đó là họ cấp cho mình.

Nếu có căn cước của Việt Nam cũ thì cũng không có vấn đề gì. Không có kê khai lý lịch gì đâu chị ạ. Cái giấy đó bình thường thôi, tôi đánh giá chuyện này là chuyện thất và không có trở ngại gì cho người Việt Nam ở nước ngoài cả.

Theo tin từ Bộ Ngoại Giao trong nước thì tới lúc này chưa thể khẳng định chi tiết về thủ tục bãi miễn visa cho Việt kiều về nước sẽ được thực hiện trong khuôn khổ nào và trong mức độ nào, ngoài điều kiện đã biết là cần phải xác minh nguồn gốc Việt Nam của mình.

Xác minh nguồn gốc
Để rộng đường dư luận, Thanh Trúc tìm cách liên lạc với Bộ Ngoại Giao ở Hà Nội. Người trao đổi vấn đề với Thanh Trúc là ông Trần Văn Thịnh, Vụ Trưởng Vụ Công Tác Cộng Đồng, một trong những đơn vị trực thuộc Bộ Ngoại Giao, có liên hệ trong tiến trình chuẩn bị bãi miễn visa cho Việt kiều nước ngoài về thăm nhà. Mời quí vị theo dõi buổi nói chuyện này:

Thanh Trúc: Thưa ông, ý nghĩa của sự xác minh mình là người có nguồn gốc Việt Nam nó như thế nào?

Ông Trần Văn Thịnh: Theo tôi được hiểu và hiện nay thì các cơ quan chức năng, chủ yếu là Cục Quản Lý Xuất Nhập Cảnh ấy, họ đang nghiên cứu để làm sao thực hiện cái chỉ thị của chủ tịch nước được tốt nhất.

Thế và việc xác minh những người- ở đây muốn khẳng định là những người mà về Việt Nam là những người nước ngoài có nguồn gốc Việt Nam-Thế thì để xác minh được cái nguồn gốc Việt Nam theo tôi hiểu thì phải dựa trên những giấy tờ và những thủ tục pháp lý để mà chứng minh rằng những người Việt Nam đang ở nước ngoài là trước đây họ từng có quốc tịch Việt Nam, họ đã từng ở Việt Nam.

Thanh Trúc: Thế thì ông có thể giải thích rõ hơn những loại giấy tờ nào, khai sinh hay lý lịch hay là cái gì khác?

Ông Trần Văn Thịnh: Thực ra thì tôi bây giờ tôi cũng chưa thể nói ngay được những cái giấy tờ đó là những giấy tờ gì, vì là các cơ quan chức năng đang nghiên cứu và họ sẽ công bố vào một ngày gần đây. Nhưng mà chúng ta vẫn hiểu rằng những cái giấy tờ mà chúng ta cần nhất để chứng minh mình là người có nguồn gốc Việt Nam thì đó có thể là hộ chiếu là chứng minh thứ là giấy khai sinh vân vân…

Còn có cần thêm những giấy tờ gì khác nữa không thì đó là các cơ quan chức năng sẽ tính để mà làm sao tạo điều kiện cho những người Việt Nam ở nước ngoài có thể có thuận lợi nhất để mà về Việt Nam theo quí chế miễn thị thực.

Thanh Trúc: Thưa ông Trần Văn Thịnh, có một điều này mà Thanh Trúc cũng muốn thưa rõ với ông là đối với nhiều người Việt Nam ở nước ngoài muốn về thăm quê nhà, cái nỗi e ngại – cái này là ấn tượng từ lúc xưa- khi còn ở trong nước họ thường phải kê khai lý lịch, và mỗi lần phải kê khai lý lịch hoặc là người ta gọi ‘lý lịch trích ngang’ khi mà xin đi ra khỏi thành phố hay là xin giấy tờ gì để làm việc gì hoặc là đi xin việc làm gì đó thì họ đều phải kê khai lý lịch và thường thì họ gặp khó dể không ít.

Các viên chức chính quyền địa phương hồi đó thường bắt bẻ đúng hay không đúng bắt đi tới đi lui khai đi khai lại. Cái ấn tượng đó vẫn còn nằm trong đầu óc họ. Cho nên bây giờ họ nghe nói phải xác nhận nguồn gốc của mình là người Việt Nam thì bỗng dưng họ nghĩ không biết người ta có bắt mình kê khai lý lịch, có bắt mình phải trình một cái lý lịch trích ngang hay không.

Trong tư cách Vụ trưởng Vụ Công Tác Cộng Đồng trực thuộc Bộ Ngoại Giao thì ông giải thích thắc mắc này như thế nào?

Ông Trần Văn Thịnh: Tôi không nghĩ rằng là sẽ có thủ tục về kê khai lý lịch. Thế còn việc để mà xác minh nguồn gốc Việt Nam thì nó sẽ có nhiều những cách thức mà các cơ quan chức năng họ sẽ phải đưa ra để làm sao tạo điều kiện thuận lợi cho bà con khi mà kê khai những tờ đơn hoặc là những application forms ấy mà.

Tôi cũng hiểu những cái tâm tư hoặc những cái lo lắng của bà con. Thế nhưng tôi vẫn nghĩ rằng là những cái qui định sắp tới thì rõ ràng là nó sẽ thuận lợi hơn đối với bà con chứ không thể nào mà lại gây một cái khó khăn cho bà con so với trước đây được. Trong tương lai, một khi quyết định của chủ tịch nước đã có thì những cơ quan chức năng phải có trách nhiệm thức thi nghiêm túc.

Tôi nghĩ là những thủ tục đó sẽ được hướng dẫn trong một hai ngày gần đây, trong thời gian sắp tới sẽ có hướng dẫn rất là chi tiết để bà con hiểu cách thức phải làm như thế nào để mà triển khai quyết định của chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã phát biểu với bà con kiều bào tại Mỹ.

Thế thì chị cứ nói với bà con là bà con cứ yên tâm, trong một thời gian gần đây thì sẽ có cái hướng dẫn rất là chi tiết cho bà con, bà con cứ yên tâm rằng một khi đã được triển khai đó thì những thủ tục sẽ phải là tốt hơn so với trước đây.

Thanh Trúc: Giả dụ bây giờ Thanh Trúc từ Hoa Kỳ qua Thái Lan du lịch và từ Thái Lan muốn đi về Việt Nam thì Thanh Trúc cứ lại toà đại sứ Việt Nam ở Bangkok để xin xác nhận Thanh Trúc là người Việt Nam phải không ạ?

Ông Trần Văn Thịnh: Tôi không dám khẳng định với chị là cái cách cái thủ tục như thế nào để cho nó thuận tiện. Nhưng mà tôi biết rằng là các anh ở bên Công An ấy người ta đang nghiên cứu để có cách nào cho nó thuận tiện nhất và các anh sẽ tính đến tất cả mọi trường hợp mà cái việc cấp phát giấy tờ cho thuận lợi đối với mọi người.

Còn có thể trong quá trình triển khai hoặc là lúc đầu thì không loại trừ nó có những cái trục trặc nhất định. Thì vì chuyện đó mới bắt đầu vận hành nhưng mà chắc chắn là chính sách ban hành nó phải tốt hơn so với trước đây chứ không thể nào xấu hơn so với trước được.

Chúng tôi chỉ lo về những vấn đề liên quan đến chính sách thôi chứ còn những vấn đề cụ thể như chị vừa hỏi thì chúng tôi phối hợp cùng với các đồng chí và các anh chị ở bên Cục Quản Lý Xuất Nhập Cảnh. Thế nhưng mà ví dụ như kiến nghị hay chủ trương liên quan tới việc miễn thị thức cho kiều bào thì chúng tôi là một trong những cơ quan mà sẽ báo cáo hoặc kiến nghị để mà xin cái chủ trương đó.

Qúi thính giả vừa nghe mục Đời Sống Người Việt Khắp Nơi mỗi tối thứ Năm hàng tuần. Mong quí vị tạm hài lòng với những tin tức Thanh Trúc thu thập được để cống hiến qúi vị. Xin kính chào tạm biệt và hẹn tái ngộ tối thứ Năm tuần tới.

Thứ Ba, 24 tháng 7, 2007

Xem Quốc hội trá hình nhóm họp!


Ðại biểu Nhân Dân (Hình: http://360.Yahoo.com/VNTuongLai )
Ngày 19/07/2007 Quốc hội bù nhìn cộng sản Việt Nam khóa 12 nhóm họp tại Hà Nội với 493 nghị sĩ gật gù, gia nô của Đảng CS vì:

1/ Thành phần Quốc hội:
Toàn là đảng viên chiếm 90%, số còn lại cũng là loại đảng viên không cần thẻ đảng để trang sức cho chế độ độc đảng không hơn không kém. Đây là chuyện lạ của thế giới văn minh vì QH từ Chủ tịch nước, thủ tướng, tổng bí thư đến các bí thư trung ương, bí thư tỉnh, các chủ tịch tỉnh, hội đồng nhân dân tỉnh, các bộ trưởng… và cả thầy tu quốc doanh, không thiếu một ai trong bộ máy “nhà nước” để kết hợp tài tình thành công thức bất biến:

Quốc Hội = Hành pháp + Tư Pháp + Lập Pháp + Thầy Pháp *

dưới sự độc quyền lãnh đạo của đảng CSVN, thật đúng là “khuôn vàng thước ngọc” của một thể chế độc tài độc đảng.

2/ Cách vào Quốc hội:
Được Đảng lựa chọn qua cái gọi là Mặt Trận Tổ Quốc, ép dân bầu rồi nói xạo là 99% dân đi bầu, nhưng thực tế chỉ khoảng 32% dân đi bầu, ai không tin hỏi lại dân và cả bọn thuộc ban bầu cử của chúng xem, hộ nào cũng cầm 1 nắm thẻ cử tri bầu thế cho xong, trả nợ cho rồi!

Có nơi buổi chiều xem danh sách cử tri và số phiếu chênh lệch hốt đại cho vào đủ số (như ở Đồng nai… và ở đâu cũng vậy) vì thừa biết ai vào QH cũng phải là “tín đồ” thờ: Mác Lê - Hồ - Mao – Staline - Pônpốt - Fidel Castro – Dollar - Euro – vàng - kim cương - bất động sản – ăn chơi - gái đẹp … cả! nên nhân dân Việt nam quá biết không thèm đi bầu, có nơi không quá 20% đi bầu, mà nói xạo hết biết là “Ngày hội toàn dân” mà không thấy ngượng, sự thực nầy ai mà không biết ???

3/ Hành vi tại Quốc hội:
Ngáp, nặn mụn, ngủ gục... vì toàn nghe nghị quyết, nghe báo cáo láo, tô hồng chủ nghĩa xã hội hoang đường… dài lê thê, nghe phổ biến đường lối Ðảng, rồi vẽ một kẻ thù trừu tượng chung chung nào đó như “các thế lực thù địch, phản động từ Mỹ đang thực hiện diễn biến hòa bình…” (thực ra lúc thì : “khúc ruột ngàn dặm” lúc thì "phản động" chẳng hạn) để đoàn kết bên nhau không xa rời Đảng ta, chiến đấu bảo vệ sự giàu sang kiếm được nhờ cai trị độc tài, bất chấp bị nhân dân và lịch sử vạch mặt hỏi tội.

Chỉ cần biết cách nhận phong bì rồi về “nghiên cứu” làm thế nào kiếm tiền nhiều hơn như bàn cách xẻ ngân sách, thông qua những gì Ðảng “làm”, kể cả luật do Ðảng soạn trước để tạo điều kiện có nhiều cơ hội ăn cướp và áp chế nhân dân nhiều hơn… để củng cố và duy trì chế độ độc đảng cho càng ngày càng độc ác, khiếp hãi hơn…. là xong.

Còn chất vấn ư? Trò hề rẻ tiền nhất là ai chất vấn? và có chất vấn thì làm gì được ai khi tất cả quyền lực nằm trong tay Ðảng? Thực tế chất vấn đi về đâu, giải quyết được gì? Trăm năm sau vẫn thế, nếu cái đảng CS gian dối nầy còn tiếm quyền nhân dân.

Chú ý:
Tại Việt nam không có chuyện phe thân Trung Quốc hay phe thân Mỹ : Không, không bao giờ có, bọn bồi bút, cò mồi viết xạo tung hỏa mù làm lạc hướng chú ý của dư luận. Tất cả chỉ “cá mè một lứa” hết, toàn bọn bất lương quỉ quyệt ám hại tương lai dân tộc Việt đau khổ nầy. Tham quyền, tham tiền, nói dối, nói ngang ngược với nhân dân.

Tóm lại:
Nếu nói QH Việt Nam là Bù Nhìn là hơi cao giá vì bù nhìn còn dọa được chim muông bảo vệ mùa màng, còn QH Việt Nam không bảo vệ được ông chủ của mình là nhân dân.

Chứng minh:
Tối 18/07/2007 tại 194 Hoàng văn Thụ được gọi là tòa nhà Quốc hội 2 sau khi đóng cửa không cho cụ già, phụ nữ đi vệ sinh nhiều ngày, đã trấn áp bởi cả ngàn công an, chuyện nầy mới toanh đây, ai cũng nhớ chối không được rồi!.

Hoặc kiến nghị cử tri có bao giờ các đại biểu Quốc hội dám trả lời trực tiếp thẳng vào câu hỏi của dân đâu? Ði lạc đề, lòng vòng, và còn sai công an canh me cử tri đến độ ngạt thở dù cử tri là hầu hết cán bộ địa phương chiếm 80% ghế cử tri.

Thật đau khổ cho đồng bào chúng ta, cái Quốc hội mà nhìn quanh toàn là toàn người trong bộ máy đảng và chính quyền tham nhũng là những người nắm quyền lực, kết băng đảng, phe cánh khắp địa phương, khắp tỉnh thành để hối lộ tham nhũng, trấn lột, gieo tai ương cho nhân dân lại là đại biểu cho họ, thật là một sự lừa dối nhân dân vô tiền khoáng hậu trong lịch sử dân tộc của "thời đại Hồ chí Minh”

Như vậy QH Việt nam là gì đây? Xin đồng bào xác định dùm…

Kỹ sư Ngọc Anh
Sài Gòn ngày 24/07/2007

Thứ Hai, 23 tháng 7, 2007

BƯỚC CHÂN RA KHỎI NỀN CHÍNH TRỊ CÀM RÀM: HĐGMVN đang được và thua những gì?


* Trước trận tuyến người dân thuộc 19 tỉnh thành trên toàn quốc đổ về Saigon và Hà Nội khiếu kiện
Các phương tiện truyền thông trên toàn thế giới, từ truyền thanh, truyền hình, báo chí, mạng lưới, báo điện tử cho tới các điện thư đều lên tiếng xin mọi người, nhất là các nhà lãnh đạo tôn giáo, các đoàn thể, các tổ chức lên tiếng yểm trợ những người dân khốn khổ thấp cổ bé miệng này. Tất cả các phương tiện truyền thông này làm việc cật lực hơn ba tuần lễ yểm trợ công cuộc khiếu kiện này. Nhiều nhà hảo tâm gửi tiền về giúp đỡ các đồng bào khiếu kiện khốn khổ, trong đó các em sinh viên trong THSV Nam Cali quyên góp từ túi tiền nhỏ bé của các em được 5.000 MK. Riêng chúng tôi đã trích ra 1/3 số tiền bán sách Vụ án Lm Nguyễn Văn Lý trong các buổi lễ Ra Mắt tại Cali và Texas gửi về và được Linh mục Phan Văn Lợi ủng hộ cho đồng bào khiếu kiện.

Cảm kích nhất là tin tức mới nhất loan báo phái đoàn Phật giáo Thống Nhất do đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ dẫn đầu đến uỷ lạo động bào khiếu kiện tại Quốc Hội II, Saigon với số tiền 300 triệu đồng VN. Vị Hòa Thượng xuất hiện tại hiện trường được nhiều người sánh ví như vị Bồ Tát hiền thục và nhân hậu, nhưng không kém phần can trường trong lúc ngài đang bị quản chế. Đây là hình ảnh lịch sử và sáng giá nhất của cuộc đấu tranh khiếu kiện của đồng bào miền Tây trong giai đoạn hiện nay. Hình ảnh ngài cầm loa ủy lạo đồng bào khốn khổ là bài giảng cảm kích và hùng hồn nhất của Giáo hội Phật giáo Thống Nhất. Tiếng nói của ngài giờ đây có sức thuyết phục hơn bất cứ tiếng nói nào từ nay trở đi.

Tự nhiên hình ảnh này đẩy đưa mọi người nghĩ ngay tới và so sánh thái độ và lối hành xử của các nhà lãnh đạo Công giáo, đặc biệt là Hồng Y Phạm Minh Mẫn tại Saigon và Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt tại Hà Nội, trước tình cảnh khốn khổ của các người dân khốn khổ từ khắp nơi đều đổ về khiếu kiện. Điều đắng cay và chua xót nhất là ngay Chúa Nhật vừa rồi nhiều linh mục và nhất là TGM Kiệt giảng một bài về bài Tin Mừng “Người Samaritanô nhân hậu” thật xuất sắc, thì không ai nhìn thấy Hồng Y Mẫn hoặc TGM Kiệt ra thăm các nạn nhân khốn nạn và chỉ cần bưng cho vài cụ già chỉ một ly nước.

Ngay đầu tuần này một số tín hữu Công giáo gồm trên một trăm linh mục và giáo dân gửi thư thỉnh nguyện xin quý giám mục của chúng ta quan tâm cứu giúp các nạn nhân khiếu kiện. Như trong bài viết tuần vừa qua, tôi chỉ xin quý ngài hãy bắt chước Mẹ Têrêsa Calcutta, gạt sang một bên mọi tính toán, mọi so đo, mọi sợ sệt và chỉ nhìn ra nơi những nạn nhân đáng thương đó là khuôn mặt Chúa Giêsu Thánh Thể đang hiện diện ở đó để quý ngài can đảm đến yêu thương và phục vụ Ngài. Nhưng rồi tất cả đều vô vọng và im lìm cho tới khi chính quyền đến đàn áp và dẹp tan cuộc biểu tình này. Mọi chuyện quý ngài có muốn làm nữa cũng đều trở thành muộn màng rồi. Và trước mắt toàn dân, quý ngài đã trở thành những kẻ phản chứng Tin Mừng của Chúa Giêsu mà quý ngài từng rao giảng. Những lời rao giảng và truyền đạo của các ngài sẽ trở thành kịch cỡm với nhiều người. Quý ngài rao giảng những gì quý ngài không sống. Trong lúc Chúa Giêsu đứng về phiá những người dân khốn khổ thì các nhà lãnh đạo của chúng ta đang đứng về phía nào? Phải chăng như Bút Trẻ viết:

“Khôn ngoan là Hội Đồng Giam (=Giám)
Mục là chỉ ngó, không tham gia vào.?

Chưa bao giờ người dân Việt Nam đánh mất niềm tin nơi quý ngài như bây giờ, nhất là sau các biến cố Đức mẹ Sầu Bị bị CS đập phá và vụ Linh mục Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng, quý ngài vẫn giữ thái im lặng.

Trước đây quý ngài và những người hậu vệ quý ngài đổ lỗi cho linh mục Nguyễn Văn Lý có “vấn đề,” có “nghịch lý,” “có vợ,” làm chính trị, do đó quý ngài im lặng, nhưng bây giờ đứng trước các đồng bào bị oan ức, bị đè nén, quý ngài vẫn giữ thái độ bàng quang, trong đó có cả các tín đồ của quý ngài. Nếu quý ngài không lên tiếng yểm trợ được vì mắc quai, hoặc có “vần đề” thì ít ra các đồng bào nạn nhân cũng mong chờ nơi quý ngài một lời uỷ lạo hoặc phép lành của Chúa, hoặc một chai nước lạnh, nhưng quý ngài vẫn cố thủ trong “pháo đài” kẻo sợ văng miểng.

Làm sao người dân ngày nay, nhất là các giới cầm bút, các nhà trí thức tại hải ngoại không nghi ngờ quý ngài đã bị vướng vào vòng cương tỏa của đám quốc doanh và lũ ma vương CS? Các tín hữu công chính và thiết tha với tiền đồ Giáo hội làm sao không khỏi đau lòng và nản chí khi thấy hàng giáo phẩm chạy theo lối sống thế tục và cường quyền hơn là chạy theo Chúa và Tin Mừng của Ngài. Giới trẻ đã lung lay niềm tin trước các sức công phá của lối sống vô thần, hưởng thụ, làm sao không dễ dàng xa rời đạo khi thấy Giáo hội Hoa Kỳ đang liên tục bán nhà thờ, bán cơ sở tôn giáo để bồi thường cho các nạn nhân bị một số linh mục lạm dụng tình dục, trong lúc tại VN nhiều giám mục và linh mục cũng sa vào cạm bẫy vật chất, thoái hóa và cầu an, do đó đánh mất đảm lực và sức sống tâm linh của hàng ngũ lãnh đạo Giáo hội.

Với đà này, càng ngày xã hội và đất nước càng đương đầu với nhiều biến động xã hội và chính trị phức tạp và điên đảo, và đương nhiên kéo theo luôn Giáo hội phải nhập cuộc. Nếu các nhà lãnh đạo Giáo hội hiện nay không rút tỉa được những bài học thương đau vừa qua và nhìn ra những viễn tượng mới để tìm cách nhập cuộc và đương đầu, chắc chắn Giáo hội lại mất mát rất nhiều uy thế, cũng như đem lại rất nhiều đổ vỡ cho công việc truyền đạo tại Việt Nam. Một trong những biện pháp quan trọng là quý ngài phải tìm cách mau chân rút chân ra khỏi vòng vây quốc doanh đang chụp lên đầu nhiều nhà lãnh đạo trong Giáo hội. Muốn thế, quý ngài phải trở về sống với tâm đạo, sống với nền tu đức vững chãi, trong đó đời sống cầu nguyện và tận hiệp với Chúa là chính yếu, là nền tảng. Vận mệnh của Giáo hội và Đất nước đang nằm trong tầm tay và ý chí của quý ngài có muốn trở lại như thế không? Lối sống nào cũng đều phải trả giá cả. Quý ngài muốn trả giá như Chúa Giêsu hay như Giuđa? Không có con đường thứ ba dành cho quý ngài là những người đã được Chúa Giêsu và Giáo hội tấn phong và ban cho đủ mọi thứ quyền để chăn dắt đoàn dân của Ngài tiến về miền Đất Hứa.

* Phản đối là điều tốt, nhưng chuyển hoá còn tốt hơn
Phần thứ hai của cuốn sách nổi danh “God’ s Politics” đứng đầu danh sách bán chạy nhất suốt 8 tuần lễ tại Hoa Kỳ của Jim Wallis mang tựa đề: "Bước chân ra khỏi nền chính trị càm ràm” (politics of complaint), bắt đầu với chương sách đề cập về “Phản đối là điều tốt; Chuyển đổi còn thiện hảo hơn.” Nội dung chương sách bàn về việc ông đề nghị một chương trình sáu điểm thay thế cho quyết định đánh chiếm Iraq của chính quyền Tổng thống Bush. Chương trình ông đề nghị đưa ra hơi trễ. Và từ đây ông rút ra được những bài học quan trọng.

Bài học đầu tiên ông ghi nhận được chính là: Nói “không” là điều tốt, nhưng nếu đưa ra được điều chuyển hoá còn tốt hơn thế. Phản kháng chưa đủ, cần thiết phải đưa ra một phương thức hoán đổi thiện hảo hơn. Kế hoạch ông và các nhà lãnh đạo tôn giáo đưa ra muộn màng với thời điểm.

Bài học thứ hai chính là: Thời điểm khó khăn và đen tối nhất đích thị là thời điểm chúng ta phải ôm ấp và nuôi dưỡng các mối giây liên hệ, nhắc nhớ cho chúng ta rằng quà tặng đời sống rất quý trọng và thánh thiện. Từ đây chúng ta mới đánh giá chính xác được thế nào là chiến tranh và hòa bình, công bình và bất công, giầu và nghèo.

Phản kháng là điều tương đối dễ, nhưng đưa ra các chuyển đổi, hoán đổi, biến đổi đòi hỏi nhiều thách thức và công lao hơn phản đối. Chuyển hoá đòi hỏi chúng ta phải làm việc nhiều hơn, sáng tạo hơn và gan liều hơn. Mục tiêu của việc phản kháng hữu hiệu và biến đổi cần phải soi chiếu cho xã hội nhìn thấy nhu cầu phải thay đổi, phải cải tiến. Nói cách khác, phản kháng cần phải đi theo hướng xây dựng để đạt tới kiến tạo thành công hơn là phá hủy. Phản kháng không phải là một loại chính trị càm ràm, nhưng chính yếu phải chứng tỏ được cả hai lãnh vực biến đổi cá nhân và xã hội. Làm thế nào phản kháng thôi thúc và mời gọi mọi người cống hiến sức lực và đời sống của họ cho một điều gì đó cao cả hơn chính họ. Sức mạnh của phản kháng không phải là sự giận dữ, nhưng chính yếu là lời mời gọi. Như vậy những điều phản kháng xây dựng và sáng chiếu này là những gì khiến mọi người cần phải đưa ra bàn thảo để tìm ra giải pháp biến đổi.

Những người phản kháng phải là những người đem ra được những điều hứa hẹn, những triển vọng tốt đẹp hơn. Những gì họ phản đối không phải chỉ là phản bác các điều sai trái, nhưng hơn thế họ phải giúp đỡ tìm ra những thay đổi tốt đẹp hơn. Họ cống hiến cho xã hội một tầm nhìn mới, một viễn ảnh mới cho tương lai. Đó là cách thức của các ngôn sứ đã thể hiện trong Kinh Thánh. Quý ngài khởi đầu bằng những phê phán, những lên án, nhưng lại kết thúc bằng những hy vọng biến đổi. Các ngôn sứ trong Kinh Thánh không bao giờ đơn thuần càm ràm, nhưng quý ngài đưa ra một viễn ảnh về một thế giới mới.

Theo Jim Wallis, yếu tố tâm linh, tu đức trong tất cả mọi sự phải trở thành trọng yếu, thách thức, nhất là đối với các nhà lãnh đạo tôn giáo. Gạt bỏ ra ngoài yếu tố tâm linh này, còn gì là mầu sắc của tôn giáo nữa. Khi đó các nhà là lãnh đạo tôn giáo không còn mang theo trong mình trái tim tâm đạo, trái tim thiên linh, lúc đó chiếc áo tu trì trở thành kịch cỡm, giả hình, gian dối, che đậy, ghê tởm. Nếu không nhìn ra vẻ thánh thiện trong đời sống, trong mỗi con người, và bao trùm mọi cố gắng phải tranh đấu cho công bình và thái hòa, quả thực các nhà lãnh đạo tôn giáo của chúng ta đã và đang đánh mất chính nghĩa và đã bị tha hóa rồi. Quý ngài không còn là những nhà lãnh đạo của Vương quốc Thiên Linh, nhưng là các đồ đệ của vương quốc trần gian. Chúa Giêsu trước khi trao quyền lãnh đạo Giáo hội cho Phêrô, Ngài đã đòi ông phải xác tín ba lần là ông phải đặt tình yêu thiên linh lên trên hết mọi sự.

Chỉ có những ai ôm ấp nền thần học và tu đức nghiêm chỉnh mới có thể đích thực được gọi là nhà lãnh đạo của Chúa Kitô và Giáo hội của Ngài, ngoài ra chỉ là những nhà lãnh đạo được Giáo hội thuê mướn, làm công. Nhiều tu sĩ và các nhà lãnh đạo tôn giáo ngày nay tại Việt Nam chạy theo con đường làm công, thuê mướn, với sự chấp thuận của bọn ma vương CS. Không phải không có một số vị vận động, chạy chọt cả với giáo quyền và chính quyền để được leo lên chức giám mục. Không phải không có phe nhóm để được thăng quan tiến chức. Những ai không được lòng nhóm linh mục quốc doanh, dù có đạo đức và tài năng cũng khó có thể ngoi lên được chức vụ nào “coi được.”

Mỗi chúng ta, nhất là những nhà lãnh đạo phải nhìn ra được những ai bị đời bỏ quên, ruồng rẫy, chà đạp chính là những người đang mang hình ảnh Chúa Kitô và có một giá trị linh thánh để chúng ta đến yêu thương và phục vụ Ngài ở đó, nhất là những ai đang là nạn nhân của những kẻ đàn áp hiện nay. Chúng ta hãy nhớ rằng đây là bổn phận, là trách vụ của tôn giáo và chúng ta phải tuân hành giới luật yêu thương của Ngài. Chúng ta phải vâng lời Ngài. Ngài hiện diện đặc biệt nơi các nạn nhân khốn khổ này khi Ngài công bố: “Những gì anh em làm cho một người rốt bét này, chính là anh em làm cho Ta.”

Trước hoàn cảnh tang thương của các đồng bào khiếu kiện vừa qua, tôi biết nhiều vị giám mục đạo đức và có tư cách muốn đến thăm hỏi và giúp đỡ, nhưng rồi nằm trong vòng kìm kẹp của đám quốc doanh và tay sai của chúng, quý ngài

“cũng liều nhắm mắt đưa chân,
để xem Con Tạo (Thiên Chúa) xoay vần đến đâu!”
(Nguyễn Du)

hơn là vâng lời Thiên Chúa. Vì chức tước, vì địa vị, vì quyền lợi, vì an thân, quý ngài đã đi nghịch đường với các Thánh Tông đồ: “Nghe lời các ông hơn là nghe lời Thiên Chúa, xin hỏi: trước mặt Thiên Chúa, điều ấy có phải lẽ không? (Cv 4:18)

Chúng ta không thể thỏa mãn với những đơn thuần phản đối hoặc phàn nàn trước những việc làm sai trái của các cấp lãnh đạo chúng ta. Hay hơn thế, chúng ta phải làm việc vất vả hơn, sáng tạo hơn, cầu nguyện nhiều hơn để đưa ra những viễn ảnh mới, những công việc có tính chất ngôn sứ khai đường, có kế hoạch phù hợp cho một giai đoạn mới, một thời đại mới của kỷ nguyên 21, chứ không luẩn quẩn với tầm hiểu biết và kiến thức có nhiều phần lỗi thời, lạc hậu của các kỷ nguyên trước đây. Chúng ta phải chứng tỏ chúng ta có khả năng cống hiến những hoán đổi thiện hảo hơn, hữu hiệu hơn. Ngoài những kiến thức, những kỹ thuật của thời mới, điều quan trọng hơn hết là chúng ta phải trở về học hỏi Kinh Thánh, đó là một kho tàng minh triết luôn luôn mới mẻ và phong phú, không bao giờ chúng ta khai quật được hết các lẽ minh triết tại đây. Chính Thánh Thần Chúa sẽ chỉ dẫn cho chúng ta tại kho tàng vĩ đại này. Công đồng Vaticanô II cũng là một kho tàng vĩ đại Thánh Thần Chúa hướng dẫn Giáo hội ban bố cho chính mình và thế giới đường lối tiến lên. Không dựa vào những nguồn lực siêu việt và trổi vượt này, quả thực nền chính trị càm ràm sẽ trở thành vô vọng và tai họa.

Một số nhà lãnh đạo Công giáo, một số cây viết gồm có giáo sĩ và giáo dân chỉ đi theo hướng càm ràm, chữa tội, vuốt mặt và nguyền rủa những ai phản đối mình, hầu như đều không hiểu ra được thiện tâm của những người đối nghịch với mình. Đã có những lần chúng tôi đưa ra đề nghị cho linh mục Trần Công Nghị đề nhờ cái loa Vietcatholic chuyển đến mọi người thiện chí của chúng tôi muốn các nhà lãnh đạo hãy tìm ra những khu đất đứng chung để mọi người đều có thể đến gặp mặt nhau và đối thoại, để tìm ra lối thoát cho những bế tắc càng ngày càng đè nặng lên Giáo hội, nhưng những đề nghị của chúng tôi và của biết bao người thiện chí khác gửi kiến nghị lên các giám mục, tất cả hầu như đều không nhận được câu trả lời.

Đã đến thời điểm các nhà lãnh đạo của chúng ta đã đi theo truyền thống giáo sĩ trị và chụp mũ, cần phải hướng đến những viễn ảnh mới, tầm nhìn mới để đem đến những hoán đổi mới cho Giáo hội và Đất nước. Các nhà lãnh đạo của chúng ta thay vì đi theo đường lối cai trị loại trừ những ai bất đồng quan điểm với mình, xin quý ngài hãy quy tụ được mọi thành phần Dân Chúa, nhất là thành phần giáo dân có nhiều kiến thức và khả năng trong các lãnh vực trần thế hơn quý ngài. Họ là tài nguyên của Giáo hội đã từng bị bỏ hoang và phung phí trong suốt quá trình vừa qua. Xin đừng coi họ như những con người chống đối, phá hoại, nhưng hãy nhìn nơi họ là những con người dám hy sinh quả cảm cho chính nghĩa Giáo hội và Đất nước, chứ không phải là những người cầu vinh, tức những người chỉ làm được công việc bợ đỡ, ton hót, phỉnh gạt và loại trừ những ai có thực tài đức hơn mình và công chính hơn mình.

Xin quý ngài hãy quan tâm nhiều hơn đến một đường lối cai trị nhắm tới hoán đổi, canh tân, đổi mới nhiều hơn, vì kể từ nay Giáo hội càng ngày càng phải đương đầu với muôn ngàn thử thách, khó khăn và chống đối. Chính nền chính trị chuyển hoá này, sẽ mang đến nghị lực và nhiều khả năng có thể hóa giải được nhiều chống đối và giam hãm Giáo hội. Không thay đổi kịp thời, Giáo hội sẽ càng ngày sẽ bị đẩy lui vào thế thụ động, thế bị tấn cống, thế bị co cụm, thế nằm ngoài vòng đấu tranh cho công ích của dân tộc. Lúc đó làm sao quý ngài và các tay chân của quý ngài cứ lẽo đẽo đi theo sau cải chính hết tin này đến tin khác, hết đỡ đòn này đến đòn khác, hết minh oan tội này đến tội khác, hết chụp mũ người này đến người khác.

Tiến về phía trước với tầm nhìn lạc quan, với viễn ảnh tươi mới sẽ đem lại lợi ích và lợi thế cho Giáo hội hơn là vẫn dậm chân tại chỗ để trở thành nạn nhân của các dư luận lên án Giáo hội bợ đỡ chính quyền CS như hiện nay, để đem tai họa đến cho dân đen. Không còn con đường nào thiện hảo và hữu hiệu hơn là trở về con đường các ngôn sứ đã bước đi trong Kinh Thánh. Trước tiên Quý Ngài lên tiếng chỉ trích các bất công xã hội, nhưng sau đó quý Ngài đưa ra một mô hình xã hội mới không những có thể thi hành được, nhưng hơn thế, đó là lời hứa, là giao ước của Thiên Chúa.

Làm thế nào quý ngài trở thành hiện thân của Chúa Giêsu Thánh Thể, không phải chỉ bên bàn thánh trong giáo đường, nhưng là Chúa Giêsu của đường về Emmau khích lệ các môn đệ bạc nhược, đào tẩu; trong quán trọ Emmau bẻ bánh cho các ông ăn; trên bờ bồ Tibêria nướng cá và bánh cho các ông ăn điểm tâm? Hàng giáo phẩm của chúng ta cần thay đổi nhãn quan về Thánh Thể, thay vì chỉ chú hết tâm vào nghi thức truyền phép Thánh Thể trên bàn thờ và thờ phượng Ngài ở đó, quý ngài cần phải mang theo Chúa Giêsu Thánh Thể của đường thập giá, của đồi Calvê, của nẻo đường và quán trọ Emmau, trong phòng Tiệc Ly để ban bình an và Thánh Thần cho các môn đệ…, vào đời sống, vào lối sống, vào mục vụ của mình. Mẹ Têrêsa và dòng Thừa sai Bác Ái đang là những người sống với Chúa Giêsu Thánh Thể thực tiễn và hữu hiệu nhất hiện nay trong Giáo hội. Không thể hiện được lối sống Thánh Thể và mục vụ Thánh Thể như thế, quả thực Giáo hội chúng ta sống theo hình thức, theo lý thuyết, theo thói quen và thật nghèo nàn sức sống Thần Khí. Giáo hội đang thua hơn là được giữa lòng dân tộc Việt Nam hôm nay.

* Kết Luận
Để kết luận cho bài viết này, thay vì trưng dẫn lời của một Ngôn sứ trong Kinh Thánh để minh họa cho những gì tôi vừa trình bầy, tôi xin gửi tới quý bạn đọc một tấm gương của một ngôn sứ thời đại: Mẹ Têrêsa Calcutta, một Phản chứng của thời đại. Mẹ là người sống Tin Mừng của Chúa Giêsu một cách thiết thực nhất và hiệu quả nhất, giữa một Giáo hội, nhiều người rao giảng Tin Mừng suông hơn là sống Tin Mừng và làm chứng tá cho Tin Mừng cứu độ. Sau đây là một phần trong cuốn “Mẹ Têrêsa, Sứ mệnh thiên linh” sắp được ấn hành.

Trong Lời Mở Đầu cuốn Mother Teresa, Essential Writings, Jean Maalouf nhắc lại nguyện ước của Mẹ Têrêsa xin tình nguyện làm cây bút chì nhỏ trong bàn tay Chúa và thực sự Chúa đã sử dụng đời sống của Mẹ để viết ra một cuốn Tin Mừng sống động trong thời đại chúng ta. Và chính khi để ánh sáng của Chúa chiếu sáng trong đời sống và hoạt động của Mẹ, Mẹ đã trở thành ánh sáng cho muôn dân.

Và quả thực giữa thời đại tiên tiến của chúng ta, Mẹ Têrêsa không đi rao giảng Tin Mừng như các nhà truyền giáo, hoặc đứng trên bục rao giảng Tin Mừng như các linh mục hay các mục sư, nhưng bằng đời sống và hoạt động thừa sai bác ái của Mẹ, Mẹ không còn phải là một người đi rao giảng Tin Mừng nữa, nhưng chính Mẹ được Chúa sử dụng trở thành cuốn Tin Mừng sống động cho mọi người, mọi tôn giáo, mọi dân tộc trên thế giới tìm đọc. Con người của thời đại hôm nay tin vào tiếng nói của đời sống hơn là tiếng nói rao giảng suông, tin vào chứng tá của cuộc đời hơn là những lời nói đơn điệu lý thuyết.

Mỗi thời đại Thiên Chúa ban hành một loại Kinh Thánh. Trong thời Cựu Ước, Ngài dùng các tổ phụ, các vua chúa, các tiên tri viết ra lịch sử dân Do Thái là Dân riêng của Ngài và các giáo huấn Ngài dậy dỗ. Vào thời Tân Ước, Ngài sử dụng chính Người Con yêu quý của Ngài và các môn đệ viết lên cuốn Tin Mừng cho thế giới. Và hai ngàn năm sau, vào thời đại tiên tiến của chúng ta, Ngài sử dụng Mẹ Têrêsa viết cuốn Tin Mừng một cách sống động hơn bằng chính đời sống thánh thiện và các hoạt động bác ái của Mẹ. Cuốn Tin Mừng mới này không còn nằm im lìm trong sách báo, trong thư viện, trong nhà thờ, trong những lời rao giảng suông, nhưng trở thành sống động khi đi vào các hẻm hóc của cuộc sống, đi vào các nẻo đường khắp năm châu bằng những bước chân thừa sai bác ái của Mẹ, của các nữ tu Dòng Thừa Sai Bác Ái và của các cộng sự viên thuộc nhiều quốc tịch trên thế giới. Chính những bước chân thừa sai nhỏ bé này đã biến đổi tầm nhìn của thế giới về đạo đức, về nhân phẩm con người, về công bình xã hội và về hoà bình thế giới.

Hoàng Quý