Hiển thị các bài đăng có nhãn Quan Điểm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Quan Điểm. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 17 tháng 7, 2007

Chính thống dân chủ

Trần Thanh Hiệp

Tính chính thống của một chế độ chính trị Việt Nam trong tương lai

Jean Jacques Rousseau, người đã viết ra tác phẩm nổi tiếng trên thế giới, Du Contrat social (Bàn về Khế ước xã hội), có khẳng định trong Tập I chương 3 của sách này đại ý rằng bạo lực không đẻ ra được pháp luật, người ta chỉ bắt buộc phải phục tùng những sức mạnh chính đáng mà thôi. Tức là sức mạnh phải có danh nghĩa chính đáng thì mới có thể được sử dụng để cai trị. Nói cách khác, chính quyền có tính chính thống thì mới được phép dùng sức mạnh để cưỡng hành, nghĩa là bắt dân phải vâng lệnh.

Người ta không thể không tự hỏi vậy tính chính thống là gì? Đồng thời dịp này cũng muốn tìm hiểu xem tính chính thống liên hệ với “chính thống dân chủ” ra sao? Trả lời những nghi vấn nói trên đòi hỏi phải qui chiếu vào những kiến thức liên ngành luật học, xã hội học, chính trị học. Bài viết dưới đây chỉ giới hạn vào việc giới thiệu một cách tóm lược khái niệm chính thống dân chủ và ghi lại một số sự việc liên quan tới khái niệm hãy còn mới này trong văn hóa chính trị hiện đại của nguời Việt Nam. Để tìm đồng thuận trên một danh nghĩa chung thanh toán độc tài xây dựng dân chủ.

I. Đặt vấn đề chính thống dân chủ

Từ thế kỷ trước, dân tộc Việt Nam đã biểu lộ và bắt đầu thực hiện nguyện vọng thay đổi cách phân công xã hội, từ phương thức nông-sĩ bước sang phương thức dân-chủ. Ý nghĩa chính trị và pháp lý của biến chuyển này là việc quản trị đất nước từ nay không còn dành riêng cho đẳng cấp sĩ phu như thủa xưa nữa mà là trách nhiệm chung - trên nguyên tắc - của toàn dân. Nhưng cuộc chuyển hóa lịch sử ấy đã gặp phải hai trở ngại lớn là ngoại xâm và nội chiến.

1. Ba nước đã trực tiếp ảnh hưởng sâu rộng đến cuôc chuyển hóa nói trên là Pháp, Nhật và Mỹ. Và từ hơn một thế kỷ trước ba nước này, vì quyền lợi riêng, đã tiếp nối nhau trong một thời gian khá dài, dưới nhiều hình thức, ngăn cản bước tiến dân chủ hóa dự kiến. Những năm 2000 đầu tiên, trên đà toàn cầu hóa, tình hình thế giới mới đã mở ra cho Việt Nam một vận hội mới. Thế lực ngoại quốc đã không còn trực tiếp can thiệp được vào nội trị của Việt Nam như trước (dù hiểm họa gián tiếp can thiệp thi vẫn còn). Dân chủ là gì nếu không phải là chế độ chính trị trong đó người dân nắm giữ và hành xử chủ quyền quốc gia? Thiết tưởng bây giờ chính là lúc toàn dân phải đứng lên chứng tỏ có bản lĩnh tiếp thu chủ quyền quốc gia, trước đây đã bị các thế lực ngoại quốc chiếm đoạt lúc toàn phần, lúc một phần.

2. Nội chiến đã xảy ra vì một mặt, Đảng Cộng sản mượn danh nghĩa dân tộc và độc lập để bố trí cướp doạt chủ quyền quốc gia là chủ quyền của toàn dân. Mặt khác, các chính đảng quốc gia đã thất bại trong trong việc chống lại đảng CS để giành lại chủ quyền đó cho dân, nên năm 1945 đã để mất cơ hội giành độc lập vào tay đảng CS. Và miền Nam năm 1975 lại bị miền Băc thôn tính. Đảng Cộng sản chiến thắng tự phong chức lãnh đạo, tự cho mình quyền thiết lập trên cả nước một nền chuyên chính quan liêu, thư lại, tham nhũng, tàn bạo và phi đạo lý chưa từng thấy trong quốc sử. Giữa lúc nhân loại đã đoạn tuyệt được với dã man vì đã bước qua được ngưỡng cửa của văn minh thì tập đoàn cộng sản cầm quyền ở Việt Nam vẫn còn cai trị với tác phong thời Trung cổ. Nhân quyền bị tước đoạt, dân quyền bị sang đoạt, có thể nói quyền sống của toàn dân ở Việt Nam nằm trong tay tập doàn cai trị cộng sản tuyệt thiểu số mà tham vọng không che giấu là cầm quyền không thời hạn dưới mọi hình thức, kể cả cha truyền con nối. Rất may là làn sóng toàn cầu hóa đang từng bước giải phóng cho dân chúng đồng thời đang dồn tập đoàn cầm quyền cộng sản vào chân tường. Đây là cơ hội cho các chinh đảng quốc gia cùng các hội đoàn tranh đấu nhân quyền và dân chủ ở hải ngoại cùng với các chính đảng quốc gia và dân chủ ở trong nước mở cuộc phản công chính trị, chuyển hóa độc tài sang dân chủ. Và đây cũng là cơ hội để các chính đảng và tổ chức tranh đấu này gột rửa tâm lý vọng ngoại, ý thức cho chính xác chức năng xã hội của mình, liên kết trên cơ sở chức năng này với dân chúng, hình thành lực lượng dân chủ có khả năng đánh bại độc tài.

3. Kinh nghiệm cho thấy trong quá khứ, người ta thường cho rằng tranh đấu dân chủ hóa Việt Nam là phải ưu tiên tranh đấu cho chế độ đa đảng. Dĩ nhiên không thể có được dân chủ nếu sinh hoạt chính trị của một nước hoàn toàn bị đặt dưới sự chi phối của một đảng độc quyền cai trị. Nhưng, một là, dân chủ không phải chỉ là đa đảng, và hai là, lấy quyền lực đảng làm mục tiêu đánh chiếm hàng đầu là tìm giải pháp ở trên ngọn và như vậy sau cùng đã dọn đường cho đảng tri, không phải cho dân chủ. Điều này hơn nửa thế kỷ cầm quyền của Đảng cộng sản Việt Nam đã chứng minh. Bởi vậy, trong vận hội mới hiện nay, phải thay đổi thứ tự ưu tiên, lấy dân - thay vì đảng - làm mục tiêu chiến lược. Đem dân vào cuộc đối đầu với độc tài là đi đúng hướng thời đại đồng thời thỏa mãn nhu cầu cơ bản của đất nước là thăng tiến người dân lên địa vi chủ thể của luật quốc nội cũng như luật quốc tế về nhân quyền, tạo điều kiện cho người dân đóng vai tác nhân của lịch sử. Lấy dân cũng là để xây dựng lại và củng cố sự thống nhất dân tộc trên nửa thế kỷ đã bị chủ trương đấu tranh giai cấp kịch liệt phá vỡ. Về điểm này, một bộ phận mới của dân tộc, trên ba triệu người, đã ra đời ở hải ngọai - một lãnh thổ mở rộng về mặt văn hóa và xã hội của một nước Việt Nam mới. Nhân xã Việt mới này là một tiềm lực đang góp sức về mọi mặt với chủ lực dân chủ ở trong nước để dương cao ngọn cờ dân chủ, xiết chặt vòng vây độc tài trong một cuộc thử sức thư hùng loại độc tài ra khỏi vũ đài chính trị Việt Nam.

Ba hướng hoạt động nói trên là ba mặt của cuộc vận động dân chủ phải mở ra trong tình huống mới của đất nước để tiếp tục cuộc tranh đấu dân chủ đã khởi đầu từ những thập niên trước nhưng vẫn còn đang dẫm chân tại chỗ. Cho nó bước được một bước tiến mới, cuộc vận động mới này phải bắt đầu lại từ chỗ bắt đầu. Nghĩa là phải đặt lại và đặt đúng vấn đề chính thống dân chủ..

II. Chính thống dân chủ: danh từ và khái niệm

1.Chính thống dân chủ là gi?

Chính thống là một tiếng Hán-Việt cổ và it dùng trong ngôn ngữ chính trị Việt Nam hiện đại. Khi nó đi kèm với tính tự “dân chủ” thì cụm từ “chính thống dân chủ” đã trở thành rất mới vì những ngữ nghĩa mới của nó. Và như thế, ngoài gốc Hán-Việt, chữ chính thống còn thêm gốc phương Tây.

Nghĩa chữ “chính thống” hiểu theo gốc Hán-Việt và theo phép chiết tự thì chữ chính (正) thuộc bộ chỉ (止) , hợp với chữ nhất (一) mà thành chữ chính (正) (止+一). Về ngữ nghĩa, chữ chính (正) thuộc lọai chữ chỉ sự. Chữ nhất (一) ở trên đầu chữ chính (正) biểu thị mục tiêu hay phương hướng. Phù hiệu bên dưới là cái chân (chữ túc (足),biến thể thành chữ chỉ (止) biểu thị ý nghĩa là cứ đi thẳng để đạt được mục đích hay phương vị, không thiên, không trệch. Chữ thống (統) nằm trong bộ mịch (糸), hợp với chữ sung (充) mà thành chữ thống (統) (糸 + 充) . Thống là lọai chữ hình thanh, mượn hình ảnh những sợi tơ trong bó tơ, nghĩa của chữ mịch (糸), rồi mượn âm của chữ sung (充) mà đọc thành thống (統). Chữ thống hàm ý dây tơ họp thành bó tơ, sau nghĩa mở rộng thêm có nghĩa là thứ gì họp thành một mối, đầu mối của mọi việc (như trong các từ kép thống nhất, hệ thống, tổng thống, thống lĩnh v.v…).

Theo những nghĩa tầm nguyên của hai chữ chính và thống ở trên thì từ kép chính thống không thể diễn đạt điều gì khác hơn là hiện tượng cách các triều đại vua chúa ngày xưa truyền cho nhau (vương triều tương thừa), không có nội dung của một khái niệm với những thuộc tính có tên gọi là tính chính thống hay chính thống. Hơn nữa, ngày xưa ở Trung Quốc hay ở Việt Nam không có cụm từ “chính thống dân chủ” bởi lẽ rất giản dị là tại hai nước này chế độ dân chủ chưa ra đời. Trong ngôn ngữ chính trị hiện đại, cụm từ chính thống dân chủ đã được dùng để dịch mấy thuật ngữ chính trị học, luật học, xã hội học phương Tây.

Dưới góc nhìn phương Tây này thì những chữ tiếng Pháp légitimité, tiếng Đức legitimitat, tiếng Anh legitimacy, tiếng Tây Ban Nha legitimidat, tiếng Ý legitimita được dịch ra tiếng Việt khi là tính chính thống khi là tính chính đáng. Ở đây xin giới hạn vào hai chữ Légitimité của Pháp và chữ Legitimacy của Anh. Tự điển Tàu dịch chữ tiếng Anh Legitimacy là chính thống tính, sang tiếng Hán-Việt thành tính chính thống và dịch chữ tiếng Pháp légitimité là tính hợp pháp, tính chính thống. Từ điển Việt Nam dịch chữ légitimité là tính chính đáng và dành chính thống cho chữ orthodoxe. Cũng vẫn theo tự điển Việt Nam thì chữ tiếng Anh legitimacy có nghĩa là tính hợp pháp, tính chính đáng. Không rõ vì lý do nào mà tự điển của ta khi dịch những chữ légitimité, legitimacy lại đặc biệt khác tự điển của Tàu như vậy (cần chú ý rằng chữ đáng - môt âm khác của chữ đương - cũng là chữ Hán). Nhưng điểm đáng nói là một mặt, chữ chính đáng không đủ rộng để phản ánh được nội dung của hai chữ légitimité và legitimacy và mặt khác, khái niệm phương Tây về legitimacy và légitimité phân biệt tính hợp pháp (légalité) với tính chính thống (légitimité) trong khi tự điển của ta không phân biệt như thế. Do đó tưởng nên dùng tính chính thống thay vì tính chính đáng vì chính thống thì có tiêu chuẩn rõ rệt trong khi chính đáng không có.

Để dễ phân biệt được sự liên hệ cũng như sự khác biệt giữa hai chữ chính thống và chính đáng người ta có thể đặt ra một loạt câu hỏi và tìm cho chúng những câu trả lời thích đáng. Chế độ chính thống nghĩa là gi? Chế độ chính thống nghĩa là một chế độ chính đáng. Như thế nào là một chế độ chính đáng? Là một chế độ có tính chính thống. Một chính quyền phải có những điều kiện nào để được coi là có tinh chính thống? Có hai loại điều kiện: pháp lý và chính trị. Điều kiện pháp lý là phải hợp pháp tức là phù hợp với pháp luật. Nhưng không phải là bất cứ loại pháp luật nào mà phải là loại pháp luật xuất phát từ ý chí chung của tòan dân (volonté générale) Nếu không như thế thì chính quyền nào cũng đều có tính chính thống, kể cả chính quyền độc tài. Ngoài ra, lại còn phải thỏa mãn những điều kiện chính trị theo đó chinh quyền ấy được dân tự nguyện tuân lệnh, không phải dùng bạo lực khủng bố để ép buộc dân phải theo. Một chính quyền không hội đủ hai loại điều kiện đó thì không được kể như có tính chính thống.

2. Hai điều kiện trên đây là để xác định về tính chính thống nói chung. Nếu một chế độ nào mà có được tính hợp pháp đồng thời cũng còn được dân chúng thuận lòng vâng lời thi chế độ ấy có thể coi (hay tạm coi) là chính thống. Nhưng khi nói chính thống dân chủ thì các tiêu chuẩn để đánh giá chế độ về tính chính thống tất phải phức tạp hơn do sự đòi hỏi của dân chủ. Bởi vậy, hai mặt hợp pháp, lòng tuân phục tự nguyện của dân không thôi chưa đủ. Chế độ ấy muốn được kể là một chế độ dân chủ có tính chính thống thì phải thỏa mãn được hai yêu cầu “hợp pháp” và “dân chủ” theo nghĩa chủ quyền quốc gia “thuộc về” và “được bảo đảm.đích thực thuộc về” toàn dân như là một “khối”, một “thực thể” có “ý chí’ gọi là “ý chí chung” (volonté générale) để tự nó - hay qua trung gian những người do chinh nó lựa chọn - hành động. Nếu không được vậy thì không thể coi là chế độ ấy có tính chính thống. Câu hỏi cần đặt ra hiện nay cho Viêt Nam là chế độ xã hội chủ nghĩa (cộng sản) đương hành có tính chính thống của một chế độ dân chủ để có danh nghĩa mà cầm quyền không?

III. Quá trình biến chất từ chính thống biến thành phi chính thống

1. Chính thống dân chủ ở Việt Nam đã bị mất hai lần.

Lần thứ nhất vào năm 1946. Tháng 8 năm 1945, Việt Minh (bộ phận công khai của Đảng Cộng sản VN) tổ chức cướp chính quyền, lật đổ chính phủ Trần Trọng Kim của chế độ quân chủ. Vua Bải Đại đã tự ý thoái vị. Các đảng phái quốc gia đã không mở ra cuộc tranh chấp võ trang với Việt Minh, chỉ ra mặt công khai đối lập chính trị. Phe cộng sản tim mọi cách để che dấu tối đa thực chất cộng sản của mình, thậm chí không ngần ngại tuyên bố giải tán Đẳng cộng sản. Ngoài ra lại gây ấn tượng rõ rệt, thông qua Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 là đi theo con đường dân chủ phương Tây thành lập Cộng hòa dân chủ. Dưới áp lực của chính quyền Tưởng Giới Thạch đồng thời trước mối đe dọa người Pháp trở lại tái chiếm Đông Dương, các chính đảng của cả hai phe quốc cộng đã thỏa thuận hợp tác trong hai khuôn khổ chinh phủ (Liên Hiệp) và quốc hội 1946 với 70 ghế dành cho đại biểu của Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội và Việt Nam Quốc Dân Đảng theo thủ tục thuận nhận (cooptation, co-op(ta)tion).

Về phía dân chúng không có sự ủng hộ được biểu lộ rõ rệt nhưng cũng không có sự bày tỏ chống đối. Nói cách khác, dân chúng chấp nhận vâng lệnh chính phủ đương quyền lúc đó. Và chính phủ này, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, với bản Hiến pháp 1946 là một chính quyền hợp pháp. Khách quan mà xét, dưới ánh sáng luật học phương Tây, chinh quyền Liên Hiệp 1946 có tính chính thống tạm coi là chính đáng để cầm quyền vào thời điểm đến gần cuối năm 1946. Vẫn biết rằng - như lịch sử những năm kế tiếp đã chứng tỏ - Cộng sản Việt Nam không thật lòng thiết lập dân chủ mà chỉ có bước lùi chiến thuật với ẩn ý bố trí trong tương lai tiến lên độc tài toàn trị. Nhưng muốn hay không muốn, cũng không thể không nhìn nhận rằng trên thực tế quả thật đã có hiện tượng chính thống hiểu theo nghĩa có hai tiêu chuẩn hợp pháp và tự nguyện vâng lệnh của dân. Cần nói thêm rằng tính chính thống này đã chỉ tồn tại một thời gian ngắn và phe cộng sản đã mượn danh nghĩa kháng chiến giành độc lập để từng bước bóp chết bào thai dân chủ trước khi nó đủ điều kiện xuất hiện dưới dạng định chế dân chủ. Vì thế nền chính thống 1946 chỉ là một nền chính thống thực tế (de facto) và nó đã mất khi Đảng Cộng sản mượn danh nghĩa kháng chiến để bắt đầu tiến trình 34 năm từng bước xóa bỏ hẳn dân chủ và chính thức thiết lập chuyên chính vô sản năm 1980.

Lần thứ hai chính thống dân chủ lại bi mất ở Việt Nam là vào giai đọan đầu thập niên 1960. Sau khi Hiệp Định Genève 1954 được ký kết, nước Việt Nam được chia đôi và thuộc vào loại ngôn ngữ quốc tế gọi là một nước có hai quốc gia thực tế, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, độc tài cộng sản, ở miền Bắc và Việt Nam Cộng Hòa, dân chủ tự do, ở miền Nam. Miền Nam vào thời điểm này có thể nói là điểm hẹn của các xu thế dân chủ. Hơn một triệu người đã rời bỏ miền Bắc di cư vào Nam tìm tự do. Tại miền Nam, môt lần nữa chế độ quân chủ, tuy đang bắt đầu chuyển dần sang lập hiến, lại bị hủy bỏ để được thay thế bằng chế độ cộng hòa dân chủ. Nhân dân miền Nam trong một cuộc trưng cầu dân ý đã gần như đồng thanh lựa chọn thể chế dân chủ. Nước Mỹ, đệ nhất cường quốc dân chủ trên thế giới, một trong những nước đã đánh thắng độc tài phát xít, quân phiệt lại công khai yểm trợ việc dân chủ hóa Việt Nam.

Có thể nói chính quyền Ngô Đình Diệm, ra đời năm 1956, có đầy đủ tính chính thống của một nước dân chủ. Tiếc thay vì tham vọng cá nhân và có thể vì một vài lý do khác nữa, đầu thập niên 1960 chính quyền Ngô Đình Diệm đã đổi hướng sang độc tài cá nhân và đánh mất đi tính chính thống của những năm cuối thập niên 1950. Nền Đệ nhị Cộng hòa sau đó thoát thai từ một cuộc Cách mạng để tiếp tục cầm quyền đã không có được những thành tích của một cuộc cách mạng thành công. Mặt khác, vì nhu cầu chiến tranh, vì phá hoại gia tăng của cộng sản xâm nhập tư miền Bắc, và nhất là vì cuộc bao vây thành thị của nông thôn do cộng sản tiến hành, sinh hoạt chính trị dân chủ đầy đủ đã không có ở miền Nam, chính quyền quân nhân rút lại chỉ còn là bộ máy quản trị một ngân sách ngoại viện để theo đuổi chiến tranh.

Việt Nam, mặc dầu vua Bảo Đại thoái vị và dân chúng, chính đảng hai lẩn tạm thời đồng thuận xây dựng dân chủ, đã chỉ rơi vào tình trạng không có chính quyền có tính chính thống dân chủ. Đảng cộng sản đã ngang nhiên tự đưa mình lên địa vị chủ nhân ông đất nước dưới ngọn cờ độc tài toàn trị. 31 năm đã trôi qua kể từ khi tiếng súng ngưng nổ trên cả nước mà đảng độc tài này vẫn còn tại chức. Nhờ ở nơi nó từ đầu (1945), cố tình đặt sai chính thống dân chủ rồi lập mưu sang đoạt dân chủ để tiếp tục cầm quyền toàn trị. Trong khi đó, phe chống đối đã không xây dựng và phát huy được chính thống dân chủ, nghĩa là cũng đi lầm hướng dân chủ.

2. Chính thống dân chủ ở Việt Nam đã bị đặt sai theo hai cách.

Một đằng Hà Nội một mực chủ trì rằng chính quyền cộng sản có tính chính thống đương nhiên, khỏi cần phải biện minh. Vì mấy lý do sau đây. Thứ nhất, Đảng cộng sản đã đánh thắng mấy đế quốc để giành độc lập cho đất nước. Thứ nhì, chính quyền cộng sản hiện nay là bước quá độ trong tiến trình đi lên xã hội chủ nghĩa do chủ nghĩa Mác-Lê-nin - chân lý tuyệt đối của thời đại, xu thế tiến bộ tất yếu của loài người - dự liệu và Đảng cộng sản Việt Nam đang thực hiện. Thứ ba, tuyệt đại đa số dân chúng đã chấp nhận quyền cai trị của Đảng cộng sản. Thứ tư, Đảng này đã cai trị bằng luật pháp để tạo dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Lập luận này thật ra không có cơ sở để đứng vững. Trước hết, cuộc chiến tranh thu hồi độc lập là công lao của toàn dân, Đảng cộng sản đã giành lấy cho riêng mình ngọn cờ Độc lập để đòi cầm quyền không thời hạn. Ở nước Anh, sau cuộc đệ nhị thế chiến, không ai có thể phủ nhận công lao vĩ đại của Thủ tướng Winston Churchill, vị cứu tinh của dân chúng Anh, thế mà khi ra tranh cử ông và đảng của ông vẫn thất cử. Đâu có phải hễ chiến thắng là đương nhiên được phép cầm quyền. Ở nước Mỹ cũng vậy, cưu Tổng thống George Herbert Walker Bush, người anh hùng chiến thắng trong trận đánh Iraq để giải phóng Koweit, năm 1992 ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ hai đã bị Bill Clinton đánh bại. Về cách lập luận mượn chủ nghĩa Mác Lê-nin để biện minh cho tính chính thông thì ý thức hệ này đã không còn những ánh hào quang Cách mạng Tháng Mười của đầu thế kỷ trước, nhất là cuối thế kỷ này nó lại phá sản khi cả hệ thống chính quyền cộng sản ở Liên Xô cũ và Đông Âu sụp đổ. Bước sang địa hạt pháp lý, tất cả những chính quyền cộng sản nối tiếp nhau cai trị đất nước từ 1945 đến nay đều dựa vào bầu cử gian lận. Và để đương nhiên cầm quyền, Đảng cộng sản đã dùng bạo lực khủng bố kìm kẹp dân chúng, áp đặt chế độ độc tài toàn trị. Nếu muốn nói rằng chế độ ấy có tính chính thống thì đó không phải là chính thống dân chủ mà là chính thống cộng sản độc tài.

Không phải chỉ riêng những người cộng sản mới đặt sai vấn đề chính thống dân chủ. Những người thuộc hàng ngũ dân chủ - ở đây chỉ bàn riêng về người Việt ở hải ngọai - cũng cần phải xét lại quan điểm của mình về vấn đề này. Trong những năm trước đây, khi cuộc chiến tranh lạnh chưa hoàn toàn chấm dứt, đương nhiên những người tranh đấu cho dân chủ phải giữ vững lập trường chống cộng. Nhưng bây giờ, chiến tranh lạnh đã nhường bước cho toàn cầu hóa thì “chống” phải đi đôi với “xây” và “xây”, trên nguyên tắc, có thế quyết định hơn “chống”. Nói cách khác, trong hiện tình, chủ trương chống độc tài cộng sản để thay thế bằng các thứ dân chủ hạn chế - dân chủ quân nhân trị hay độc tài không cộng sản - không còn là giải pháp thích hợp nữa. Chỉ có con đường dân chủ thực sự, dân chủ tiến bộ mới có hy vọng chiến thắng độc tài cộng sản để đưa đất nước ra khỏi thảm trạng nghèo túng, chậm tiến, toàn trị mất nhân phẩm và ngày càng tụt hậu.

3. Đã đặt sai thì phải đặt lại cho đúng.

Những bài học “chính thống” và “không chính thống” trong quá khứ ở Việt Nam đã mang lại cho người tranh đấu dân chủ hiện nay những kinh nghiệm vận động mới. Muốn có tính chính thống dân chủ trước hết phải chấm dứt được nạn dân chủ giả mạo, tức là nạn độc tài đội lốt dân chủ. Khác với những cuộc vận động trước, cuộc vận động chinh thống dân chủ hậu toàn trị phải nhằm đạt được bốn mục tiêu:
Một, chính thống dân chủ đòi hỏi dân chủ thực sự, ở đây và ngay tức khắc, không thể đình hoãn. Hai, dân chủ bây giờ là dân chủ gắn liền với “dân” chứ không phải với “đảng”, dân vừa là đối tượng của dân chủ vừa là tác nhân tạo ra dân chủ. Ba, có được chính thống rồi còn phải tiếp tục chính thống hóa thường xuyên thì mới duy trì được những tính chính thống đã có. Chính thống hóa có nghĩa là cách cai trị phải là sự thể hiện dân chủ. Bốn, vì toàn dân không thể trực tiếp đứng ra cai tri cho nên phải cử đại diện, do đó quyền tư do lựa chọn phải được tuyệt đối tôn trọng thông qua những cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu, tổ chức trong khuôn khổ tự do tranh cử. Quyền tự do tranh cử là quyền dân chủ cơ bản và để thực thi quyền này cần phải có một loạt những quyền tự do phụ trợ khác như tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội, lập đảng, tự do đi lại v.v…nói tóm lại những nhân quyền, dân quyền đã được luật quốc tế về nhân quyền công nhận, liệt kê và bảo đảm.

Tính chính thống của một chế độ không những là tư tưởng trên bình diện khái niệm trừu tượng mà còn phải là định chế được thiết lập trong thực tiễn để đích thực có dân chủ.

Thứ Hai, 16 tháng 7, 2007

Bao giờ Hà Nội biết xin lỗi?

Nguyễn Văn Trần

Người Pháp có tiếng là người “xin lỗi” nhiều nhất và dễ dàng nhất. Một cách tự nhiên như họ thở mà không cần ý thức. Thậm chí, khi họ vì vô ý đi xô vào cột đèn, cũng vội vàng xin lỗi “ông bà cột đèn” rồi mới đi nữa. Vì vậy, có khi tiếng “xin lỗi” bị lạm dụng một cách thái quá nên đã làm mất đi ý nghĩa nghiêm chỉnh của nó là biểu lộ một thái độ, một cung cách lịch sự.

“đảng không bao giờ sai lầm”

“Xin lỗi” không phải để chuộc lỗi, làm cho lỗi lầm vi phạm sẽ mất đi, mà “xin lỗi” là để phân biệt giữa điều sai trái, lỗi lầm và sự đúng đắn, lẽ phải. Khi biết tỏ ra tôn trọng Thiên đàng thì phải lấy Địa ngục làm tiêu chuẩn qui chiếu. “Xin lỗi” chỉ để xác định giá trị của lẽ phải. Đó là cách ứng xử trong giao tiếp của những người văn minh.

Nhưng ngày nay, vẫn còn một vài nước mà nhà cầm quyền không biết “xin lỗi”. Phải chăng ở đó không có nền “văn minh xin lỗỉ”? Hay vì con người vẫn còn sống trong một thời đại chưa có gì lấy làm chắc chắn? Một giai đoạn mà tương lai chưa định hình, viễn tưởng còn mờ mịt, chân trời hãy còn sương mù dày đặc? Nên phải trái, đạo đức và tội ác chưa được phân ngôi?

Thời đại “xin lỗi”

Thế giới ngày nay đang sống trong nền văn minh “xin lỗỉ”. Không biết nói lời “xin lỗi” đồng nghĩa với thiếu văn minh. Một dân tộc thiếu văn minh thì chỗ đứng của dân tộc ấy là ở bên lề của cộng đồng thế giới.

Ở Tây phương, khi một khủng hoảng xã hội, hoặc một vấn đề tai tiếng như lạm quyền, tham nhũng, vi phạm đạo đức xã hội xảy ra, thì lập tức những người trong bộ máy cầm quyền lên tiếng “xin lỗi”, “hối hận”, “lấy làm tiếc” và rất nhiều trường hợp tự xin từ chức. Những tiếng xin lỗi công khai chánh thức như vậy làm nảy sanh những hi vọng cho mọi người. Nạn nhân của những vi phạm, sai trái thường đòi hỏi không chỉ công lý phải được tôn trọng, mà họ còn đòi hỏi người làm lỗi phải biết sám hối nữa. Và các nhà báo liên hệ cũng đính chính và xin lỗi về những thông tin sai lạc của mình đã loan tải.

Điều này cũng hãy còn mới lạ đối với chính giới Tây phương. Thật thế. Trước kia, khi những điều không hay xảy ra, những nhân vật chính giới thường có thói quen giấu diếm. Như lẽ ra họ phải nói thật điều họ nghĩ, họ phải đánh giá đúng sự việc mà dư luận qui cho họ trách nhiệm, thì họ lại tìm cách đính chính: “Chuyện đó đâu có”. Về sau, khi thấy không có thể đính chính được nữa, thì họ tìm cách làm giảm tầm quan trọng của sự việc: “Phải, chuyện đó có xảy ra, nhưng nào phải nghiêm trọng như mọi người tưởng”. Về sau nữa, khi tầm quan trọng đã quá hiển nhiên, thì họ phải thừa nhận: “Đúng việc đó đã xảy ra và nghiêm trọng thật. Nhưng chuyện đã qua rồi. Tại sao giờ đây lại còn khơi lại làm gì nữa?”.

Cách ứng xử theo phản ứng trên đây hãy còn khá phổ biến. Nhưng ở những nước dân chủ Tây phương,
những người cầm quyền đều tôn trọng và đề cao sự trong sáng. Song song, báo chí tự do và dư luận xã hội không để cho họ yên nếu họ cố tình hành xử không đúng mức, trốn tránh trách nhiệm.

Trước áp lực thế giới, vào cuối thập niên 90, chánh phủ Úc, người da trắng, mới chịu công khai « không chối cải » tội diệt chủng của họ đã gây ra đối với thổ dân nguyên là chủ nhơn thật sự của quốc đảo này trước khi người da trắng đến. Nhưng chánh phủ Úc vẫn tìm cách khước từ nhắc lại sự việc đen tối ấy vì cho rằng chỉ đè nặng thêm quá khứ.

Giáo hoàng Jhon Paul II, trong năm thánh 2000, đã xin lỗi người Ả Rập Hồi giáo trong những vụ chiến tranh xảy ra giữa hai tôn giáo. Lập tức, giáo hoàng Benedict XVI, lúc bấy giờ còn là Hồng y, lên tiếng phản ứng cho rằng “Giáo hội Vatican không bao giờ sai lầm”. Không có vấn đề xin lỗi! (Sau này, ở ngôi vị Giáo Hoàng, ông đã phải công khai lên tiếng “lấy làm tiếc” về những lời do ông phát biểu đụng chạm đến Hồi giáo).

Trong gần đây, ông Kwasniewski, khi là tổng thống Ba-lan (1995-2005) đã lên tiếng xin lỗi thay cho đồng bào của ông đã can dự trong một số vụ sát hại người Do thái trong thế chiến thứ 2.

Thật ra, những xin lỗi công khai, chánh thức không phải là cách đáp ứng phổ quát đối với những vụ “vi phạm chánh trị”. Người ta cho rằng “xin lỗi công khai, chính thức” chỉ là đặc thù văn-hóa chánh-trị Hoa Kỳ nhiều hơn.

Ông Tony Blair, Thủ tướng nước Anh, tỏ ra nhiệt thành với văn hóa nầy, một phần vì ông là người có tiếng là ngoan đạo, và mặt khác, ông muốn là người tiêu biểu cho đạo đức trong chính trị nước Anh ngày nay. Ông Blair là chính khách cùng thế hệ với Bill Clinton, Al Gore, G.Bush, và nhiều người khác nữa được đào tạo do cuộc cách mạng giáo dục của những năm 1960 ở Tây phương.

Đối với những nhà chánh trị nầy, điều quan trọng là sự biểu lộ những cảm xúc nhân ái trước những đau đớn của kẻ khác do sự sai trái, lỗi lầm của chánh quyền của họ gây ra. Ông Bush khi nhìn thấy những bức ảnh chụp người Iraq bị lính Mỹ tra tấn, đối xử thô bạo, đã cảm thấy đau đớn. Và đã thốt lên tiếng “lấy làm tiếc”!

Ở Pháp, vào cuối năm trước đây, chính phủ đã công khai nhìn nhận sự hư hỏng của nền tư pháp trong vụ án Outreau. Ngày 01/12/2006, Tòa phá án Paris tuyên bố trắng án cho 6 bị cáo cuối cùng, trong số 13 trên 17 bị cáo được trắng án. Tất cả đều bị tạm giam giữ kéo dài, có người đến hơn 3 năm. Có người đã chết trong tù. Liền một giờ sau, Tổng trưởng tư pháp tuyên bố: “hứa tìm những lỗi lầm và thiếu sót nghiệp vụ”.

Thi hành lệnh của tổng thống, ông long trọng xin lỗi những người bị án oan và gia đình do sự thiếu nghiêm túc của cơ quan tư pháp, vừa công bố sự cảm súc của chánh phủ trước những gia đình tan nát vì sự sai trái lớn lao nầy .

Tiếp theo, ông De Villepin, Thủ tướng chánh phủ, sẽ tiếp kiến nạn nhân và gia đình để một lần nữa chánh phủ long trọng xin lỗi.

Nhận lỗi và sửa sai không chỉ bằng những lời công khai xin lỗi, chánh thức, những cuộc tiếp kiến long trọng, mà chính phủ bồi thường những thiệt hại về vật chất cho gia đình nạn nhân: 120.000 euros cho mỗi nạn nhân, thêm 4.000 euros cho mỗi tháng bị giam.

Dù có sửa sai về mặt danh dự và thiệt hại về quyền lợi vật chất cho nạn nhân, vụ án Outreau vẫn biểu hiện một vết đen to lớn cho ngành tư pháp của một nước có truyền thống lâu đời về dân chủ và nhơn quyền như nước Pháp.


Cai trị độc tài và sự dễ dạy của dân chúng

Người cộng sản Hà Nội vẫn thường nói lấy được rằng “đảng không bao giờ sai lầm”, chỉ có cán bộ thừa hành sai lầm mà thôi!

Theo biện chứng, chính trị là nhằm dạt mục tiêu. Mà mục tiêu thì phụ thuộc vào quyền lợi của đảng theo một thời điểm nhất định. Chấp hành sự lãnh đạo của đảng để đạt mục tiêu, đó là đạo-đức cách mạng. Như vậy đảng không bao giờ có sai lầm nên không có vấn đề “xin lỗi”.

Staline cũng như Hồ Chí Minh giải thích rõ về những điều mà chúng ta quen gọi đó là sai trái: “Muốn uốn một cái que cong thành ngay, phải bẻ cong cái que qua phía bên kia thái quá đi một chút rồi buông ra thì cái que sẽ ngay thẳng”. “Thái quá” là cần thiết để có cái que ngay. (Vì sự cần thiết này mà trong hơn 70 năm cầm quyền, cộng sản đã sát hại hơn 100 triệu nhân dân dưới chế độ của họ). Vì chỉ nhằm mục tiêu mà người cộng sản không thấy sự đổ nát, chết chóc, do “thái quá” gây ra là sai trái, hư hỏng nên không có vấn đề xin lỗi. Từ đó, phải nói là cộng sản không có văn hóa. Cho nên văn minh xin lỗi phải vắng bóng trong các chế độ cộng sản!

Đảng cộng sản và nhà nước Hà Nội không biết nói lời xin lỗi về những tội lỗi đối với nhân dân Việt Nam do họ gây ra, nhưng về phía nhân dân, cũng chưa xuất hiện một phong trào quần chúng mạnh mẽ đứng lên đòi hỏi công lý.

Người ta cho rằng người Việt Nam, cả những dân tộc khác ở Á châu nói chung, có truyền thống dễ dạy, dễ bảo, đến độ vui vẻ chấp nhận sự an phận. Người phương Tây cho đó là kết quả của nền giáo dục theo Khổng giáo. Sự ngoan ngoản , lễ phép, trong gia đình đối với ông bà, cha mẹ, anh chị, họ hàng dẫn đến sự kính trọng tuân phục răm rắp người cầm quyền, hoặc thái độ ứng xử thường tìm cách thích nghi với mọi biến chuyển xã hội. (Nhưng ông Khổng dạy “vâng lời” thì liền đó, ổng dạy thêm “Vua phải ra vua, tôi phải ra tôi, cha phải ra cha, con phải ra con = Quân quân, thần thần, …).

Ở Tàu, vụ đàn áp đẩm máu ở Thiên An Môn vào mùa xuân năm 1989, ở Nam Hàn, vụ đàn áp ở Kwangju năm 1980, rồi cả hai vụ cũng được mọi người bỏ qua và quên đi.

Hai vụ thảm sát này đều xảy ra dưới hai chế độ cùng độc tài, tuy có khác về cơ bản, được xử lý cũng không giống nhau.

Nhà cầm quyền Bắc Kinh không đưa ra lời xin lỗi nhân dân về vụ Thiên An Môn. Trái lại, ở Nam Hàn, sự thật ở Kwangju chỉ mới được chính quyền nhìn nhận từ khi chế độ ở Hán Thành được dân chủ hóa năm 1982. Các tướng làm đảo chánh, Chun Tohwan và Roh Tae woo, đã ban hành thiết quân lực vào lúc vụ thảm sát xảy ra, sau đó họ lần lượt đều trở thành tổng thống, đã bị đưa ra tòa án xét xử vào năm 1986 với những bản án rất nặng, về tội tham nhũng, hối lộ, và về trách nhiệm trong vụ thảm sát Kwangju.

Người Nam Hàn nói nhân dân Nam Hàn không quên tội ác do nhà cầm quyền gây ra, nhưng họ phải biết nhẫn nại vì quyền lợi của đất nước mà thôi.

Ở Đài Loan, khi Tưởng giới thạch chạy ra đảo, lập chính quyền cai trị, thì người Đài Loan nổi lên chống lại sự đô hộ. Một cuộc thảm sát dân bản xứ đã làm thiệt mạng đến 30.000 người. Tội ác nầy được giữ im lặng đến năm 1992, chánh quyền Lý Tăng Hụi mới mở lại hồ sơ đen nầy để phục hồi tính chính thống cho chế độ.

Năm 1977, Đặng Tiểu Bình để ra gần một năm để bạch hóa vụ thảm sát sau triều đại Mao Trạch Đông và lên án vụ đàn áp ấy là đẫm máu. Nhưng đây, thực chất, chỉ là một thủ đoạn chánh trị để nâng cao uy tín cầm quyền của Đặng mà thôi.

Đặng Tiểu Bình đã thanh thỏa trách nhiệm của chế độ trong ba thập niên đã làm cho nước Tàu hủy hoại hàng nhiều chục triệu sinh mạng bởi những cuộc hành quyết, bạo hành nhà nước, nạn đói và bạo loạn có tổ chức do trung ương Đảng chỉ đạo trực tiếp.

Những vụ tàn sát to lớn ở Trung Quốc đã không được nhắc đến, không được đưa ra ánh sáng nếu nói đó là do tinh thần thuần phục chính quyền theo giáo dục Khổng giáo, thì vụ Tây tạng bị thôn tính năm 1950, bị đàn áp đẫm máu khi họ nổi lên chống lại trong năm 1959 và làm cho Đức Dalai Lama phải lưu vong qua Ấn Độ, lại cũng không được dân Tàu lương thiện và thế giới lúc bấy giờ lên tiếng bênh vực lẽ phải?

Học trò nhỏ của đảng cộng sản Tàu - đảng cộng sản Hà Nội, tỏ ra rất thuộc bài nên cho đến ngày nay. Hà Nội chưa hề biết mở lời xin lỗi về những tội ác do đảng gây ra đối với nhân dân Việt Nam. Khác với thực dân Pháp ngày trước, giặc Pháp là ngoại bang gây nên tội ác với nhân dân Việt Nam, c2n đảng cộng sản Việt Nam tàn sát chính đồng bào của mình.

Từ vụ cải cách ruộng đất ở miền bắc năm 1953, vụ cải tạo công thương nghiệp, vụ Nhân văn-Giai phẩm, vụ xét lại chống đảng, Hà Nội đã giết hại hàng triệu nhân mạng một cách oan uổng, gia đình tan nát, tài sản, sự nghiệp tiêu tan… Vụ thảm sát Mậu thân ở Huế 1968, hàng ngàn người bị giết hại. Sau 30/04/75, bằng chính sách đưa tất cả những người liên quan đến chế độ Sài Gòn, dù chỉ là những nhân viên hành chính, dân sự, đi học tập cải tạo, kinh tế mới, rồi đánh tư sản mại bản, bán bãi thu vàng, đảng cộng sản Hà nội tiếp tục giết hại hàng triệu sinh mạng nhân dân vô tội của miền Nam chỉ nhằm thực hiện chuyên chính vô sản.

Ngày nay, sau 32 năm cai trị cả nước, Hà Nội vẫn tiếp tục đàn áp các tôn giáo, những người có chính kiến khác, cướp giựt ruộng đất, trấn lột tài sản, nhà cửa của nhân dân, rút ruột công quỹ cho vào túi riêng…

Bất mãn cùng cực, dân chúng hàng nhiều trăm người tập hợp lại ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng (Hà Nội) để kêu oan. Ngày nay, hàng ngàn người từ các tỉnh kéo về Sài Gòn, trước trụ sở Quốc Hội 2, để khiếu nại những oan khiên và ở luôn tại đó để chờ đợi giải quyết, bị công an đến giải tán thô bạo.

Trên khắp cả nước, từ Hà Nội đến Đồng Tháp, Bến Tre, Cà Mâu, ... ở đâu cũng nghe những tiếng kêu oan về nhà đất, ruộng vườn, hoặc bị cướp đoạt ngang ngược, hoặc bị tịch thu, trưng thu mà khoản bồi thường quá thấp so với giá chánh thức. Thậm chí, chùa chiền thuộc hệ thống nhà nước cũng bị tịch thu để chiếm đất. Tu sĩ bị đuổi ra khỏi chùa.

Trước những cảnh đàn áp, trù dập nhân dân như vậy, đảng cộng sản vẫn không có một lời xin lỗi nhân dân vì đảng vẫn cho rằng “đảng không bao giờ sai trái”?

Bao giờ Hà nội biết xin lỗi?

Ở Trung Quốc và Việt Nam, vì cùng một thể chế độc tài đảng trị, nên điều hiển nhiên là giữa nhà cầm quyền và nhân dân, có một khoảng cách rộng lớn. Trong khoảng cách đó, nhân dân trở thành kẻ thù của nhà cầm quyền. Khoảng cách này hoàn toàn không do tính đặc thù văn hóa Á châu tạo ra, mà do bản chất chế độ độc tài toàn trị tạo ra. Những người trẻ tuổi của Trung Quốc và Việt nam ngày nay, nhờ có mặt ở các nước dân chủ Tây phương, đã bắt đầu nhìn thấy đặc tính mối quan hệ thật sự, tự nhiên, giữa chính quyền và dân chúng phải như thế nào để đất nước có được sự hợp tác hài hòa giữa toàn dân và nhà nước, do đó - mới thật sự là đại biểu chủ quyền quốc gia.

Đối với thế hệ lớn lên trong môi trường giáo dục và văn hóa biết cải thiện thân phận con người, biết tôn trọng nhân phẩm con người, thì khi ta thốt lên lời “xin lỗi”, trước nhất, là để cho người xin lỗi cảm thấy chính mình được dễ chịu, được nhẹ nhõm, được thanh thản tâm hồn. Nạn nhân đồng thời, cũng được cảm nhận một sự dễ chịu tương tợ.

Xin lỗi là giúp người biết xin lỗi lần lược đạt được ba mục tiêu, trên ba tầng khác nhau: xin lỗi là để tỏ ra mình là người lương thiện, biết làm điều lương thiện, và tự cảm thấy tâm hồn an lạc.

Trong giáo dục, người ta dạy trẻ con xin lỗi bằng cách người dạy thường dùng tiếng xin lỗi với trẻ con để nhằm hai mục tiêu : thừa nhận sự có lỗi và giãi tỏa lỗi lầm ở người làm lỗi.

Thế tại sao ở Việt nam, người dân vẫn chưa nghe được tiếng xin lỗi của đảng cộng sản và nhà nước? Phải chăng vì đó là những người lúc nhỏ đã không đi học, lớn lên làm cộng sản cướp chính quyền và cầm quyền nên vẫn chưa học được tiếng xin lỗi như những trẻ con ở các nước văn minh phương Tây?

Cho nên, có lẽ ở Việt nam, nhà cầm quyền sẽ biết xin lỗi chỉ khi nào chế độ Hà Nội hiện tại được chuyển hóa dân chủ như trường hợp Hàn quốc ngày nay mà thôi! Mà muốn chuyển hóa dân chủ thì Hà Nội phải sớm tách mình ra khỏi tình trạng lệ thuộc Tung Quốc và long trọng xin lỗi trước toàn dân về những tội ác đã làm .

Một chính quyền biết nói tiếng xin lỗi với nhân dân mới đúng là chính quyền của dân và vì dân!

Thứ Sáu, 13 tháng 7, 2007

“Dối Trá Trắng Trợn” ở Việt Nam

Mike BengePhan Tường Vi lược dịch

Bài xã luận của “Chủ tịch” (1) nước Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Minh Triết – “Những gía trị và ích lợi chung giữa Việt Nam và Hoa Kỳ” (Báo Washington Times, Trang A-17, số ngày 25 tháng 6) – sặc mùi tuyên truyền nhớp nhúa cho thấy một sự xơ cứng thiếu sáng tạo trong suy nghĩ: có thể nói nó hoàn toàn là một bản dịch bê-nguyên-xi-từng-chữ trong trang quảng cáo của ông Triết đã đăng trước đó trên báo Washington Post (2) trang A-19 đi ngày 21 tháng 6, là bài “Lá thư Chủ tịch Việt Nam Nguyễn Minh Triết.”

Paul Joseph GoebbelsNguồn: library.thinkquest.org

Thomas Jefferson chắc cũng trăn qua trở lại dưới mồ khi biết Hồ Chí Minh đã từng dùng những lời bất tử của ông trong Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” cho lời mở đầu của bản Tuyên ngôn Độc lập của người Cộng Sản Việt Nam. Đây cũng chính là chế độ Cộng Sản Việt Nam có trách nhiệm với việc thảm sát hơn 1 triệu người Việt Nam (*)

Mặc dầu những lời bất tử của ông Jefferson được dùng trong Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam, nhưng ở đó lời bất tử trên chỉ còn là những sáo ngữ rỗng tuếch. Việt Nam không chấp nhận bất kỳ thách đố nào đối với sự cai trị duy nhất của đảng cộng sản. Những sự giết hại vô pháp luật vẫn tiếp tục xảy ra (*), và trong đợt trấn áp “tệ nhất trong 20 năm qua” mới đây, chế độ đã bắt giữ và thảy vô tù hơn 20 người đấu tranh cho tự do tôn giáo, cho dân chủ và nhân quyền, trong lúc tiếp tục siết chặt giới truyền thông và tăng cường kiểm soát ngặt nghèo mạng lưới Internet.

Lãnh đạo tôn giáo và tín đồ của Phật giáo, Thiên Chúa giáo và tín đồ của các giáo phái khác đã bị sách nhiễu và bắt giữ thường xuyên. Hơn 300 tù nhân chính trị người cao nguyên theo đạo Tin lành vẫn đang còn bị giam giữ.

Đối với Jefferson, là tổng thống đồng nghĩa là được người dân bầu chọn qua một cuộc bầu cử công bằng và tự do, không phải do Đảng Cộng Sản Việt Nam, chỉ chiếm 4 phần trăm dân số, chỉ định làm Chủ tịch nước (Tổng thống) như ông Triết. Một dân biểu Hoa Kỳ đã nói rằng: “Vì ông Triết không được bầu qua một cuộc tranh cử tự do, ông không nên được gọi là ông Chủ tịch... Đúng hơn ông có thể được so sánh với một bố gìa ... của một chế độ đẫm máu và đàn áp.”

Trong bài của mình, ông Triết viết, “Quan hệ song phương được xây dựng trên những quan tâm và ích lợi chung của hai nước: mậu dịch, văn hóa, khoa học và kỹ thuật, giáo dục, hoà bình và ổn định trong vùng, cuộc chiến chống khủng bố.” Tuy nhiên, sự khủng bố của chế độ Cộng Sản Việt Nam đối với ngay người dân của chính họ chẳng nằm trong “ích lợi chung” của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ tí nào, và chế độ cộng sản này cũng không hết sức để ngăn chận tệ nạn buôn bán phụ nữ và trẻ con đi bán dâm.

Ở buổi gặp gỡ tại Tòa Bạch Cung hôm 22 tháng 6, Tổng thống Bush nói với ông Triết, “Để cho những mối quan hệ phát triển sâu đậm hơn, điều quan trọng là Việt Nam cần có cam kết tôn trọng nhân quyền, tự do và dân chủ. ” Ông Triết mắng lại ông Bush sau đó trong một cuộc phỏng vấn của hãng truyền thông AP khi ông nói rằng đất nước của ông không cần phải cải thiện hồ sơ nhân quyền. “Vấn đề không ở chỗ là cải thiện hay không cải thiện... Việt Nam có khung pháp lý riêng, và những người nào vi phạm luật đều bị xử.” Những người được xem là phạm luật Việt Nam theo ông Triết, là lãnh đạo tôn giáo và tín đồ của nhiều tôn giáo, những người hoạt động kêu gọi dân chủ và nhân quyền, luật sư bảo vệ người lao động, và người thiểu số.

Thay vì đi theo những nguyên tắc dân chủ của trường phái Jefferson, ông Triết bám vào cái nguyên tắc căn bản “Dối trá trắng trợn” của Joseph Goebbels (3), rằng người ta sẽ tin một lời dối trá trắng trợn to lớn mau hơn lời dối gian nhỏ bé; và nếu nó được lập đi lập lại hoài thì sớm muộn gì người ta cũng tin.

Người sáng tạo ra chế độ (cộng sản) Việt Nam không là Thượng đế như Jefferson viết, nhưng đó là Hồ Chí Minh. Còn khuya mới trở nên một người yêu chuộng và đấu tranh cho những gía trị dân chủ, nhân quyền như ông Jefferson, vì ông Triết và cái tập đoàn đàn áp người dân của ông ta không làm những gì họ rao giảng trong bản Tuyên ngôn Độc lập của họ.

Thay vì “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng”, chế độ của ông Triết gần gũi hơn với những câu chuyện ngụ ngôn trào phúng về chủ nghĩa Cộng Sản như được miêu tả trong tác phẩm “Trại Gia Súc” của George Orwell (4), nơi mà một số thành viên bình đẳng hơn những đồng loại khác.

Nguồn: 'Big Lie' lives in Vietnam, Mike Benge, Washington Times Forum, July 1, 2007.

DCVOnline: Mike Benge hiện là cố vấn của Tổ chức Nhân Quyền Người Miền Núi (Montagnard Human Rights Organization). Tác giả là tù nhân dân sự (nhân viên của USAID làm việc ở Ban Mê Thuột) bị cộng sản Việt Nam bắt giam từ 28/01/1968 đến 05/03/1973.

(*): Tác giả không nêu rõ nguồn tham khảo về “việc thảm sát hơn 1 triệu người Việt Nam” và “Những sự giết hại vô pháp luật vẫn tiếp tục xảy ra”.


--------------------------------------------

(1) Tác gỉa đặt chữ “President” trong ngoặc kép, ý muốn chơi chữ vì cả Bush lẫn Triết đều được gọi là President hay vì Triết là “President” của Đảng cộng sản VN bầu chứ không là President được dân bầu?
(2) Washington Times và Washington Post là hai tờ báo có trụ sở nằm ở Washington DC. Washington Times là một phần của công ty News World Communications, Inc. Trong lúc báo Washington Post là một phần của công ty Washington Post Company.
(3) Bác sĩ Paul Joseph Goebbels, người cầm đầu bộ máy tuyên truyền của Đức Quốc Xã dưới thời Hitler.
(4) George Orwell, nhà văn Anh, sinh ở Ấn Độ năm 1903 và qua đời ở Anh năm 1950. “Trại Gia Súc” là một trong những tác phẩm ngụ ngôn của ông. Truyện nói về một bầy gia súc ở một nông trại miền quê nổi dậy làm cuộc cách mạng kiểu Bolshevik, lật đổ ông chủ trại và đuổi ông ra khỏi nông trại. Bầy gia súc này bắt đầu xây dựng xã hội của mình dựa trên lý tưởng Cộng Sản, mà bước đầu tiên là mọi con vật trong trại đều được bình đẳng... Truyện ví von xã hội Cộng Sản ở Nga dưới sự cai trị độc tài của Stalin chẳng khác chi một ... trại gia súc và cái gọi là thế giới đại đồng Cộng Sản chỉ là một sản phẩm của ảo tưởng, duy ý chí. Và cũng chính trong thế giới đại đồng đó, vẫn có những tham vọng cá nhân đòi làm lãnh tụ, rồi cũng đưa đến nạn bè phái, thanh trừng lẫn nhau dành quyền lực... Truyện này đã được dựng thành phim năm 1954 và 1999 (phim hoạt họa). Theo tạp chí TIME, “Trại Gia Súc” là một trong 100 tác phẩm hay nhất của thế giới kể từ 1923 đến nay.

Thứ Ba, 10 tháng 7, 2007

Thời điểm của một xét lại bắt buộc

Nguyễn Gia Kiểng

Có nhiều ý trong bài đáng để suy nghĩ, đặc biệt với những người làm chính trị hoặc quan tâm đến tình hình chính trị của Việt Nam hiện nay.

Tuy nhiên, tác giả cũng đưa ra một số quan điểm riêng, rất nên cọ xát, tranh luận. Ví dụ, tác giả viết:

“ Trong lịch sử thế giới hầu hết những cuộc cách mạng đánh bại những chế độ toàn trị bạo ngược đều khởi đầu từ ngoài nước. Cuộc cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc năm 1911 đã xảy ra như thế. Cuộc cách mạng cộng sản Nga năm 1917 cũng không khác. Đảng cộng sản Việt Nam cũng thế. Những trường hợp ngược lại chỉ là ngoại lệ chứ không phải thông lệ”.

Khi trao đổi kinh nghiệm hoạt động của Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan, ông Miroslaw Chojecki, cựu thành viên Ủy ban Bảo vệ Công nhân (tiền thân của Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan), chủ tịch Hiệp hội Tự do Ngôn luận, trong bài tham luận tại “Hội Nghị Warsaw 2006, 28/10/2006 về các quyền của công nhân (xem DCVOnline) có viết:

“Chúng tôi luôn ý thức rằng vai trò của cộng đồng hải ngoại chỉ mang tính phục vụ. Do đó, cộng đồng hải ngoại không thể áp đặt công thức, cơ cấu hoạt động trong nước, không nên đưa ra sáng kiến bắt phong trào trong nước phải làm gì. Những người trong nước trực tiếp đối đầu và mạo hiểm với bạo quyền chứ không phải những người ở hải ngoại, họ sẽ biết làm cách nào có lợi nhất. Cộng đồng ở hải ngoại không thể giải quyết dân chủ từ phía ngoài đất nước và chỉ có thể hỗ trợ và tìm cách củng cố phát triển các hoạt động của phong trào trong nước".

Nếu Công đoàn Đoàn Kết Ba Lan với Lech Walesa là lực lượng tiên phong làm sụp đổ chế đổ cộng sản thì, Phong trào Hiến Chương 77 của Tiệp Khắc, với ngọn cờ đầu Vaclav Havel, cũng là hạt nhân chủ chốt hoạt động tại Tiệp Khắc cũ, dẫn đến cuộc cách mạng Nhung, xoá bỏ chế độ cộng sản.

Vậy quan điểm của tác giả Nguyễn Gia Kiểng đúng hay sai trong hoàn cảnh thực tế Việt Nam hiện nay? Và, phải chăng cuộc yểm trợ tích cực và có hiệu quả nhất định của cộng đồng hải ngoại là một cuộc lên đồng tập thể như tác giả nhận định? Vân vân...

DCVOnline nhường lại ý kiến cho đông đảo bạn đọc trên diễn đàn tự do với hy vọng nếu chúng ta không tìm ra một đồng thuận cho phong trào dân chủ Việt Nam đang bị đàn áp và thiếu hẳn một phương thức hoạt động có tổ chức hiện nay thì cũng tạo được những trao đổi có lợi ích chung cho cuộc vận động dân chủ e rằng còn lâu dài trên đất nước.

Đợt đàn áp chính trị bắt đầu từ tháng 2 với những phiên tòa thô bạo bị cả thế giới lên án đáng lẽ phải là một sức bật cho đối lập Việt Nam. Trên thực tế, khí thế đấu tranh trong nước đã xẹp xuống, người này bỏ cuộc, người kia đào thoát, trong khi hải ngoại chỉ biểu lộ được một sự phẫn nộ bất lực. Phấn khởi nhường chỗ cho thất vọng. Dưới phần nổi không có phần chìm, đằng sau tiếng vang không có thực lực.

*

Sự yếu kém của đối lập dân chủ Việt Nam thực ra đã có thể nhìn thấy từ trước. Cuối năm 2005 nhiều tổ chức và nhân sĩ đã nô nức tưởng rằng một cơ hội lớn đã đến khi ông Hoàng Minh Chính trong tình trạng sức khỏe hiểm nghèo được đảng Nhân Dân Hành Động đưa sang Mỹ chữa bệnh. Nhưng dự án thống nhất các lực lượng dân chủ chung quanh ông Hoàng Minh Chính đã tự nó tiêu tan dù không bị đàn áp. Sự háo hức đặt hy vọng vào một chuyện chẳng có gì chắc chắn như vậy tố giác một tâm trạng tuyệt vọng sẵn sàng bám víu vào bất cứ gì có hình dạng của một cái phao.

Sau đó là Khối 8406, đảng Thăng Tiến Việt Nam, và nhiều tổ chức khác ra đời một cách hấp tấp rồi tàn lụi nhanh chóng. Ở những mức độ khác nhau, tất cả đều đã được hưởng ứng. Khối 8406 có tầm vóc hơn cả và cũng được hưởng ứng hơn cả, nhưng người ta đã chờ đợi ở nó những gì mà nó không thể đem lại. Đáng lẽ nó phải dừng lại ở mức độ một bản tuyên ngôn dân chủ, như thế cũng là quí báu lắm rồi, nhưng người ta bắt nó phải làm một việc mà nó không thể làm: trở thành một tổ chức và hơn thế nữa một tổ chức mẹ của nhiều tổ chức khác. Người ta cố tình không phân biệt một bản tuyên ngôn với một tổ chức, những người chỉ ký tên ủng hộ một bản tuyên ngôn và những người dấn thân trong một tổ chức. Nguyễn Văn Lý là một nhà tu, hai người bạn đắc lực nhất của ông, Nguyễn Hữu Giải và Phan Văn Lợi, cũng là những nhà tu, họ đã làm tất cả những gì có thể làm, không thể đòi hỏi họ hơn được. Khi chọn cuộc sống tu hành họ đã chọn giữ một khoảng cách nào đó với sinh hoạt chính trị. Vả lại họ chỉ được một sự yểm trợ rất giới hạn trong một giáo hội tự nó đã là một tôn giáo thiểu số tại Việt Nam. Khối 8406 đã phát triển nhanh chóng trong giới giáo dân gần gũi với ông Lý trong vài tháng đầu rồi khựng lại, nhưng Nguyễn Văn Lý tiếp tục bị thúc đẩy phải làm những việc mà ông không thể làm: Đảng Thăng Tiến, Liên Minh Dân Chủ và Nhân Quyền, rồi Liên Đảng Lạc Hồng, cũng với cùng một số người ít ỏi, mà đa số mới chỉ mới bắt đầu hoạt động.

Nguyễn Văn Lý, và Nguyễn Văn Đài ở Hà Nội, đã là những nạn nhân của cách hoạt động của đối lập tại hải ngoại: không chuẩn bị lực lượng rồi đến khi thấy tình thế có vẻ thuận lợi thì cố gắng nắm lấy cơ hội một cách vội vã và vận dụng quá sức anh em trong nước trong một cuộc thi đua xô bồ xem ai làm trước, ai lên tiếng trước, ai thông báo đầu tiên những "tin khẩn", ai gây được tiếng vang nhiều nhất. Trong không khí nhốn nháo này, những cố gắng nghiêm chỉnh khó gây được sự chú ý. Rồi tất cả khựng lại khi chính quyền cộng sản ra tay đàn áp. Internet dĩ nhiên là một vũ khí quí báu để chống lại chế độ độc tài nhưng cũng có mặt bất lợi của nó mà ta phải cảnh giác. Mặt bất lợi đó là cho phép một nhóm nhỏ, thậm chí một cá nhân, liên lạc và gửi thông tin đến rất nhiều người, tạo ra ảo tưởng của một tổ chức lớn đối với dư luận. Sự kiện này đã là một trong những nguyên nhân chính khiến phong trào dân chủ Việt Nam không khai thác được khoảng thời gian thuận kéo dài hơn hai năm.

*

Đã chống lại một chính quyền bạo ngược thì phải biết trước là sẽ bị đàn áp và phải có phương án để khai thác chính sự đàn áp đó. Một phương án như thế đòi hỏi phải có tổ chức và phải tiên liệu được các diễn biến. Vì không có gì cả cho nên người ta đã cố tin là tình thế đã thay đổi, đảng cộng sản sẽ không dám đàn áp thẳng tay vì sợ phản ứng của thế giới, và phong trào sẽ càng ngày càng lớn mạnh.

Thực tế đã chứng tỏ giả thuyết này sai. Đảng cộng sản đã đàn áp và mọi chính quyền, trừ Hoa Kỳ, đều đã không có phản ứng. Chính Hoa Kỳ cũng đã chỉ phản ứng một cách rất chừng mực, dù đây là lần đầu tiên sự thô bạo của những phiên tòa được phơi bày ra trước công luận. Báo chí và các cơ quan truyền thông cũng chỉ dành cho đợt đàn áp này một sự chú ý rất tương đối. Thế giới đang có những quan tâm khác. Trong ý đồ đen tối của họ, ban lãnh đạo cộng sản đã tỏ ra hiểu biết hơn nhiều người chống đối họ.

*

Đối lập dân chủ Việt Nam đã được một thời gian tương đối dễ dãi từ đầu hè năm 2004 đến đầu xuân 2007. Thời gian này khá dài vì đảng cộng sản phải chuẩn bị cho đại hội 10, một đại hội quan trọng vì, ngoài những tranh giành quyền lực thông thường trước mọi đại hội đảng, những đả kích đối với Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Tổng Cục 2 đã đặt tới cao điểm. Sau đó còn phải phân chia quyền lực trong đảng và nhà nước, rồi tổ chức hội nghị APEC và gia nhập WTO.

Nhưng còn một lý do khác. Đó là có một lúc họ đã có kế hoạch chiếm đoạt để khống chế và vô hiệu hóa phong trào dân chủ. Lợi dụng bệnh tình nguy ngập của ông Hoàng Minh Chính, một người dân chủ kiên cường và có uy tín nhưng đã già yếu, họ đã để ông đi Mỹ chữa bệnh với sự bảo trợ của đảng Nhân Dân Hành Động, và định dựa vào uy tín của ông để qui tụ các tổ chức và nhân sĩ đối lập trong một Phong Trào Dân Chủ Việt Nam Thống Nhất mà họ kiểm soát trong hậu trường. Đây là một kế hoạch có chuẩn bị. Trước đó, họ kích thích những mâu thuẫn sẵn có giữa các cá nhân để làm tan nát hàng ngũ dân chủ trong nước vốn đã rất lỏng lẻo. Cần nói ngay là ông Hoàng Minh Chính chỉ bị lợi dụng thôi, cá nhân ông là một người dân chủ đáng kính.

Kế hoạch này đã có thể là một cơ may cho tiến trình dân chủ hoá. Nếu nó thành công và khiến chính quyền cộng sản đủ tự tin để chấp nhận một mức độ đa nguyên chính trị nào đó thì một giai đoạn mới sẽ mở ra và đảng cộng sản sẽ không kiểm soát được. Nó chỉ nguy hiểm nếu không ai biết rằng nó là một âm mưu.

Nhưng kế hoạch này đã thất bại vì những người trực tiếp thực hiện nó đã quá vụng về. Khi sự thất bại đã quá rõ ràng thì đảng cộng sản chỉ còn chọn lựa giữa nới lỏng dân chủ thực sự hoặc đàn áp. Không có gì ngạc nhiên khi họ đàn áp.

*

Tình hình hiện nay có thể tóm lược như thế nào ?

Những tranh chấp phe phái trong nội bộ đảng cộng sản kể như đã chấm dứt. Phe Lê Đức Anh - Đỗ Mười đã thắng. Những người cầm đầu đảng và nhà nước hiện nay đều thân với hai ông này. Những người chống lại hai ông Mười, Anh chỉ còn rất ít và đều già yếu. Vấn đề Tổng Cục 2 cũng không còn đặt ra nữa, cơ quan này ngày nay cũng thuộc quyền kiểm soát của ông Nguyễn Tấn Dũng, như Tổng Cục Tình Báo. Dĩ nhiên là trong nội bộ của cái gọi là phe Đỗ Mười - Lê Đức Anh, hay đảng MA, vẫn còn những tranh chấp quyền lợi và quyền lực cá nhân, nhưng sẽ không còn những chống đối có phối hợp và cũng không nên chờ đợi những biến cố sôi nổi như vụ Nguyễn Nam Khánh nữa. Cuộc đấu từ nay sẽ diễn ra giữa một đảng cộng sản khá thống nhất và một phe dân chủ khá phân tán.

Tình trạng ổn vững nội bộ của đảng cộng sản chưa chắc đã là xấu cho tiến trình dân chủ, nó còn có thể là tốt. Có chấm dứt được nạn phe phái trong đảng, ban lãnh đạo cộng sản mới có thể lấy những quyết định cần thiết, kể cả những quyết định nới lỏng về chính trị. Đừng nên quên rằng chính sách đổi mới, tức mở cửa về kinh tế thị trường, đã có được vì lúc đó, năm 1986, phe ông Lê Đức Thọ kiểm soát được đảng và có toàn quyền quyết định.

Về mặt quốc tế, cảm tình và lương tâm của thế giới đứng về phía những người dân chủ Việt Nam, nhưng quyền lợi thực tiễn của các quốc gia là thỏa hiệp với chính quyền cộng sản. Chính quyền Việt Nam hiện nay có quan hệ với mọi quốc gia trên thế giới và không bị nước nào coi là thù địch. Dư luận thế giới, các tổ chức quốc tế và các chính quyền dân chủ sẽ bênh vực chúng ta trong chừng mực mà chúng ta bị bách hại khi hành động một cách hợp pháp hay phù hợp với những giá trị phổ cập của loài người. Còn thành công hay thất bại hoàn toàn là việc của chúng ta. Không thể, và thực ra cũng không nên, đòi họ chống lại chính quyền cộng sản Việt Nam.

Như vậy phải loại bỏ kịch bản lật đổ. Chúng ta không có lực lượng và phương tiện để lật đổ và cũng không ai giúp chúng ta lật đổ chính quyền cộng sản. Vả lại chúng ta cũng sẽ không thay thế được tất cả guồng máy nhà nước. Một chính quyền dân chủ trong tương lai vẫn phải duy trì toàn bộ quân đội, công an, bộ máy hành chính hiện có, chỉ khác ở chỗ vạch ra những mục tiêu mới, đem lại một tinh thần mới, những giá trị mới, một cách tổ chức và làm việc mới. Cuộc đấu tranh cho dân chủ vì vậy không phải là một cuộc xung đột thù địch một mất một còn mà phải là một cuộc đối đầu hòa bình - ít nhất là hòa bình đơn phương từ phe dân chủ - giữa dự án dân chủ và dự án cộng sản. Một cuộc đấu tranh như vậy đòi hỏi phe dân chủ một đội ngũ đông đảo và gắn bó, với đầy đủ khả năng và chính sách trên mọi địa hạt kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, ngoại giao, môi trường, v.v. Khó, nhưng là điều kiện bắt buộc, chưa có thì phải cố gắng từng bước tạo ra chứ không thể tránh né. Chính vì muốn tránh né khó khăn và tìm cách đi đường tắt mà chúng ta đã mất hơn ba thập niên và bỏ lỡ nhiều cơ hội. Cuộc đấu tranh này cũng đòi hỏi chúng ta một tinh thần mới để nhìn một cán bộ công an cộng sản, thậm chí một giám thị nhà tù, không phải như một kẻ thù phải tiêu diệt mà như một người anh em phải tranh thủ cho dự án dân chủ.

*

Tiềm năng của phe dân chủ rất dồi dào. Những người sẵn sàng dấn thân cho dân chủ ngày càng đông và sẽ còn được tiếp viện bởi một khối thanh niên to lớn đang thấy tương lai mình bị bế tắc, đặc biệt là những thanh niên đã tốt nghiệp cao đẳng và đại học nhưng không tìm được một công việc xứng đáng. Chính quyền cộng sản Việt Nam bắt chước mô hình Trung Quốc và cũng gặp cùng một vấn đề với Trung Quốc nhưng ở một mức độ còn trầm trọng hơn: nạn thất nghiệp nơi những thanh niên có trình độ cao đẳng và đại học. Đó là một thùng thuốc nổ đối với chế độ.

Đấu tranh bất bạo động là điều có thể được. Ở một mức độ nào đó nhận định rằng chính quyền cộng sản không thể đàn áp thẳng tay có phần đúng. Xã hội Việt Nam đã có sức mạnh độc lập của nó về đời sống, về sinh hoạt kinh tế cũng như về ý thức, lý luận và thông tin. Đảng cộng sản không còn khống chế được xã hội như họ muốn nữa. Nguyễn Văn Lý đã chỉ bị xử tù 8 năm và sẽ không ngồi tù 8 năm; hai mươi năm trước, một người như ông có thể sẽ bị xử bắn. Nguyễn Văn Đài sẽ không ở tù 5 năm, Lê Thị Công Nhân cũng sẽ không ở tù 4 năm. Phạm Quế Dương, Phạm Hồng Sơn, Lê Chí Quang, Nguyễn Khắc Toàn đã được trả tự do mặc dù vẫn tiếp tục đấu tranh cho dân chủ. Nguyễn Vũ Bình cũng được trả tự do trước hạn tù 7 năm dù đó là người đảng cộng sản lo ngại nhất. Đảng cộng sản sẽ nhận thấy và thanh niên Việt Nam cũng sẽ nhìn ra rằng những bản án tù vài năm chỉ kích thích chứ không trấn áp được những nguyện vọng dân chủ.

*

Cuộc vận động dân chủ có mọi khả năng để thành công với điều kiện là những người dân chủ chấp nhận một xét lại bắt buộc để đoạn tuyệt với lối tranh đấu cũ, ít nhất trên ba điểm.

Trước hết phải tin một cách thật chắc chắn rằng chúng ta là giải pháp cho đất nước chứ không phải chỉ là tiếng nói của lương tâm. Niềm tin này không khó. Trên cả ba vấn đề mà mọi người, kể cả ban lãnh đạo cộng sản, đều đồng ý là trầm trọng, nguy ngập và phải khắc phục nhanh chóng - tham nhũng, tụt hậu khoa học kỹ thuật, chênh lệch giàu nghèo - đảng cộng sản đều không phải là giải đáp mà còn là vật cản.

Trong lịch sử thế giới chưa hề có tiền lệ một chính quyền tham nhũng có thể tự cải tiến để hết tham nhũng, thậm chí bớt tham nhũng. Có thể chứng minh bằng lý luận rằng đây là điều không thể có. Giải pháp duy nhất đối với một chính quyền tham nhũng chỉ giản dị là phải thay thế nó bằng một chính quyền khác. Tụt hậu khoa học kỹ thuật chủ yếu là thua kém về ý kiến và sáng kiến, những yếu tố chỉ có thể nẩy sinh và phát triển nơi những con người tự do, trong những xã hội dân chủ. Cũng không thể trông đợi những người được ưu đãi để giải quyết chênh lệch giàu nghèo. Họ là những người thụ hưởng những đặc quyền đặc lợi và chỉ tìm cách tăng cường chứ không xóa bỏ chúng. Nếu tham nhũng, tut hậu và bất công là những vấn đề sống còn của đất nước thì hệ luận tự nhiên là chính quyền cộng sản phải bị thay thế.

Một xét lại khác là phải khẩn cấp từ bỏ ngôn ngữ giả dối là quốc nội là chủ lực, hải ngoại chỉ có vai trò yểm trợ. Lập luận này rất sai trong giai đoạn này. Từ lúc nào và ở đâu trong một cuộc tranh đấu công khai người ta có thể độc đáo đến nỗi chọn đặt bộ chỉ huy ở địa điểm hoàn toàn do đối phương kiểm soát? Từ lúc nào và ở đâu người ta có thể đặt vào địa vị lãnh đạo những người mà địch có thể bắt giam hoặc thủ tiêu bất cứ lúc nào ? Phải thẳng thắn : cuộc đấu tranh cho dân chủ sẽ gồm hai giai đoạn: trong giai đoạn đầu, khi mà chính quyền cộng sản còn đàn áp trắng trợn và thô bạo, cơ quan đầu não và vai trò lãnh đạo phải đặt ở hải ngoại. Chỉ trong giai đoạn sau, khi cuộc vận động dân chủ đã đủ mạnh để buộc đảng cộng sản phải chấp nhận sự hiện diện công khai của đối lập, cơ quan lãnh đạo mới có thể chuyển về trong nước để hải ngoại lùi về vai trò yểm trợ.

Trong tình trạng hiện nay, người trong nước có thể là biểu tượng và vẫn có thể góp ý về những định hướng lớn nhưng không thể đảm nhiệm vai trò điều hành. Điều này mọi người dân chủ nghiêm chỉnh đều hiểu. Sở dĩ lập luận “quốc nội chủ lực, hải ngoại yểm trợ, quốc nội là điểm, hải ngoại là diện” vẫn còn được nhắc lại là vì có những người và những nhóm nhỏ ở hải ngoại không có lực lượng nào cả nhưng vẫn muốn có tầm quan trọng nên phải mơn trớn những người dân chủ trong nước để tranh thủ cảm tình và ngược lại cũng có những người trong nước thấy thỏa mãn khi được đề cao. Những người này gây rối loạn thay vì đóng góp.

Trong lịch sử thế giới hầu hết những cuộc cách mạng đánh bại những chế độ toàn trị bạo ngược đều khởi đầu từ ngoài nước. Cuộc cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc năm 1911 đã xảy ra như thế. Cuộc cách mạng cộng sản Nga năm 1917 cũng không khác. Đảng cộng sản Việt Nam cũng thế. Những trường hợp ngược lại chỉ là ngoại lệ chứ không phải thông lệ.

Nhưng tại sao hải ngoại lại không thể, và do đó không dám, đảm nhiệm vai trò của mình? Đó là vì không có thực lực. Nhưng tại sao lại vẫn chưa có thực lực sau nhiều chục năm? Đó là vì một di sản lịch sử. Cộng đồng người Việt hải ngoại tại Hoa Kỳ và các nước phương Tây đến từ miền Nam, sau khi chế độ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ. Chế độ Việt Nam Cộng Hòa tuy không bạo ngược như chế độ cộng sản nhưng cũng không phải là một chế độ tốt, nó là một chế độ không có ý chí và cũng chưa bao giờ có được một nhân sự chính trị đúng nghĩa. Sự sụp đổ hổ nhục và toàn diện của nó không để lại gì. Khối người thoát ra được nước ngoài là một khối ngưới rã hàng, đầy căm thù và tuyệt vọng; trong thâm tâm đại đa số đã chọn hẳn một quê hương mới. Trong hoàn cảnh đó đấu tranh chỉ là để biểu lộ và trút bớt sự căm thù đang sục sôi trong lòng chứ không phải để giành thắng lợi. Cuộc đấu tranh vì vậy không khác gì một cuộc lên đồng, những người được ủng hộ nhất là những người tỏ ra táo bạo nhất, lên đồng hay nhất, gây được ảo tưởng mạnh nhất. Những cố gắng nghiêm chỉnh dĩ nhiên phải dựa trên nhận định khách quan về một tình trạng khó khăn, cho nên chỉ làm phiền lòng và gây bực tức trong cuộc lên đồng tập thể này. Một số người còn hy vọng "quang phục quê hương" thì lại đặt hy vọng vào một chuyển biến quốc tế nào đó, thí dụ như một cuộc thế chiến kết thúc bằng thắng lợi của thế giới tự do, và kết luận rằng điều duy nhất có thể làm là gây được tiếng vang và sự chú ý để khi thời cơ đến mình sẽ là người của tình thế. Dần dần cách làm chính trị này trở thành một tập quán cản trở sự hình thành của một tổ chức dân chủ nghiêm chỉnh và có trói tay cộng đồng người Việt hải ngoại trong thế bất lực kéo dài.

*

Nhưng thời gian đã làm công việc của nó. Những cuộc lên đồng đã trở thành nhạt nhẽo, những hy vọng vào "thế giới tự do" cũng đã tiêu tan; đất nước cũng đã thay đổi trong một thế giới đã thay đổi lớn. Quốc nội đã chuyển mình, nhiều người dân chủ đã đứng lên ngay tại thủ đô Hà Nội. Về mặt kinh tế cộng đồng người Việt hải ngoại có trọng lượng (chua được sử dụng) của một siêu cường viện trợ không bối hoàn cho Việt Nam gần bốn tỷ USD mỗi năm. Hy vọng thực sự đã xuất hiện. Chúng ta có thể đấu tranh cho dân chủ với niềm tin ở thắng lợi, và tự hỏi một cách nghiêm chỉnh "làm thế nào để thắng" ?

Ngay khi câu hỏi này được thực sự đặt ra chúng ta sẽ thấy rằng không thể giành được thắng lợi cho dân chủ nếu không có một tổ chức dân chủ mạnh, và xây dựng một tổ chức như thế đòi hỏi rất nhiều trí tuệ và cố gắng kiên trì trong nhiều năm. Sự thực hiển nhiên nhưng đã bị quên lãng này sẽ dẫn chúng ta đến xét lại cơ bản nhất và sẽ thay đổi hẳn cái nhìn cũng như cách ứng xử của mỗi người và các tổ chức dân chủ. Cách làm chính trị không cần tổ chức chỉ nhắm gây tiếng vang sẽ trở thành nhạt nhẽo vô duyên, sẽ chỉ được nhìn như những hoạt động loay hoay, đồng bóng. Mỗi người sẽ tự xét mình để biết mình có thể đóng góp những gì ở vai trò nào trong một tổ chức có kỷ luật. Những người thực sự muốn dấn thân tranh đấu dân chủ hóa đất nước sẽ chọn tham gia những tổ chức dân chủ đã có thời gian để chứng tỏ bản lĩnh và sự lương thiện, hay nếu không thấy tổ chức nào xứng đáng và tìm những người cùng chí hướng để tạo dựng với nhau một tổ chức mới thì cũng sẽ rút ra kết luận đúng đắn sau một thời gian. Các tổ chức dân chủ cũng sẽ ý thức rằng phải kết hợp với nhau, vì nếu tình trạng phân tán và rời rạc này cứ tiếp tục thì mọi người sẽ thua, mọi cố gắng sẽ chỉ là công dã tràng trong khi thắng lợi ở trong tầm tay. Những người thuộc khối quần chúng dân chủ, nghĩa là những người không tham gia các hoạt động chính trị nhưng ủng hộ cuộc vận động dân chủ cũng sẽ chỉ dành sự ủng hộ của mình cho những tổ chức đáng tin cậy.

Có rất nhiều điều cần được thảo luận và kết luận, nhưng mọi thảo luận đều chỉ có ý nghĩa khi tâm lý đã được khai thông, nghĩa là nếu chúng ta thay đổi được cách suy nghĩ và hành động cũ.