Thứ Hai, 27 tháng 8, 2007

Liệu có thể kỳ vọng gì vào tân Đại sứ Mỹ Michael Michalak ?

Liệu có thể kỳ vọng gì vào tân Đại sứ Mỹ Michael Michalak ?
(trả lời phỏng vấn RFA ngày 24/8/2007)
Ts. Nguyễn Thanh Giang

“… Ông Michalak còn tuyên bố rõ rệt hơn ông Marine. Các vấn đề về tự do ngôn luận, tự do chính trị, ông ấy đặt tầm ngang hoặc có khi vượt trội hơn những vấn đề về kinh tế. Các vấn đề nhân quyền, ông Michalak biểu lộ sự quan tâm vượt trội hơn so với ông Marine.

Đại sứ Hoa Kỳ Michael Michalak đã bắt đầu nhiệm sở tại Hà Nội đúng một tuần. Một vị tân đại sứ cùng với một bộ máy mới, liệu chúng ta có thể kỳ vọng những tiến triển mới mẻ trong mối quan hệ Việt-Mỹ về mọi mặt, kể cả trong lĩnh vực dân chủ-nhân quyền, là điều mà Washington đang ra sức quảng bá, hay không?

Đó là mối quan tâm hàng đầu của những người yêu chuộng và tranh đấu dân chủ tại Việt Nam, và cũng là một trong những câu hỏi mà chúng tôi đặt ra với tiến sĩ vật lý-địa cầu Nguyễn Thanh Giang, nhà bất đồng chính kiến được công luận trong và ngoài nước biết đến với nhiều bài viết công khai, mạnh mẽ cổ suý dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam.
Hy vọng khá nhiều

Trà Mi: Trước tiên, ông cho biết sự đón nhận của giới hoạt động dân chủ quốc nội đối với vị tân đại sứ Hoa Kỳ:

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang: Nói chung, những ai quan tâm đến tình hình chính trị ở Việt Nam mà nghe tin ông tân đại sứ Michael Michalak sang Việt Nam đều tỏ ra hy vọng khá nhiều ở vị đại sứ mới.

Anh em hoạt động dân chủ trong nước hy vọng nhiều ở ông Michalak không chỉ ở cá nhân bản thân của ông ấy, mà còn hy vọng trong điều kiện, môi trường hoạt động của ông trong những ngày tới sẽ có nhiều thuận lợi, nhiều yếu tố thúc đẩy để ông có thể làm việc tích cực hơn, tốt đẹp hơn, quan tâm đầy đủ hơn, giải quyết được nhiều hơn các vấn đề dân chủ-nhân quyền ở Việt Nam.

Trà Mi: Ông vừa nhắc tới “môi trường mới, thuận lợi mới”, ông có thể nói rõ chi tiết hơn về những điểm này?

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang: Gần đây có sự quan tâm rất mới của chính quyền Bush đối với vấn đề dân chủ-nhân quyền nói chung và tại Việt Nam nói riêng, biểu hiện qua những lời tuyên bố của ông ấy trước tượng đài chống Phát-xít ở Tiệp Khắc, qua buổi tiếp đón của ông với đại biểu các tổ chức chính trị của người Việt tại Hoa Kỳ. Thêm vào đó là thái độ rất cương quyết của Hạ Viện Mỹ chuẩn bị thông qua “Đạo luật nhân quyền Việt Nam” với những hứa hẹn sẽ có sự tăng cường viện trợ cho các hoạt động dân chủ ở Việt Nam.

Tôi nghĩ, trong một môi trường mới như vậy, cộng với quan điểm và những lời tuyên bố rõ rệt của chính ông Michalak, hy vọng các vấn đề đấu tranh cho tự do chính trị, tự do tôn giáo tại Việt Nam trong nhiệm kỳ của ông Michalak sẽ diễn tiến tốt đẹp hơn nữa.

Trà Mi: Là người có quan tâm, tìm hiểu về tình hình đất nước, về thời cuộc, cũng như quan hệ Việt-Mỹ, qua những gì ông đọc được, nghe được về vị tân đại sứ Hoa Kỳ, ông có nhận xét như thế nào về ông Michael Michalak?

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang: Với những tin tức là trước khi ông sang Việt Nam, ông đã có một loạt các động tác chuẩn bị tích cực, trong đó có cuộc họp mặt của ông và một số quan chức Hoa Kỳ tại nhà bác sĩ Nguyễn Quốc Quân để ông tìm hiểu tình hình Việt Nam thông qua ý kiến của người Việt ở nước ngoài.

Ông tìm hiểu nhận thức của họ và những yêu cầu của họ đối với ông khi ông sang làm đại sứ tại Việt Nam. Riêng những việc đó đã khiến người ta thấy rằng ông đại sứ Michalak là một người sâu sắc, cụ thể, và có sự quan tâm thực sự đến tình hình xã hội, tình hình đấu tranh cho dân chủ-nhân quyền ở Việt Nam.

Những đặc điểm đáng lưu ý

Trà Mi: Nếu so sánh giữa tân đại sứ Michael Michalak với cựu đại sứ Michael Marine, theo nhận xét riêng của ông, có những đặc điểm gì đáng lưu ý?

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang: Trước đây, ông Michael Marine, trong nhiệm kỳ của mình, ông đã đóng góp rất nhiều cho sự xích lại gần nhau giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Và ông cũng là người rất sâu sát với tình hình Việt Nam. Ông cho biết trong 64 tỉnh thành, ông đã đến được hơn 2/3 số tỉnh thành tại Việt Nam. Ông ấy đi khắp nơi, lên cả Tây Nguyên. Như vậy, người ta thấy sự làm việc của các quan chức Hoa Kỳ, của những đại sứ tại Việt Nam đã thực sự sâu sát, để mỗi ngày nắm được tình hình cụ thể hơn.

Nay, ông Michael Michalak, trước khi lên đường sang Việt Nam, đã có cuộc hội họp mà trước đây ông Marine chưa làm, tức là thăm dò ý kiến những người Việt ở nước ngoài, các hội đoàn, các chức sắc tôn giáo của người Việt ở Hoa Kỳ cho nên người ta còn kỳ vọng rằng ông Michalak sẽ có tinh thần cầu thị hơn, có mối quan tâm sâu sắc hơn, và có tinh thần trách nhiệm hơn nữa đối với sự phát triển kinh tế của xã hội Việt Nam nói chung, và sự phát triển các quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, và nhân quyền tại Việt Nam, nói riêng.

Trà Mi: Dĩ nhiên mỗi khi có một bộ máy làm việc mới, mọi người đều kỳ vọng những tiến triển mới mẻ hơn, tích cực hơn, lạc quan hơn. Thế nhưng chắc chúng ta vẫn chưa quên là dưới nhiệm kỳ của cựu đại sứ Michael Marine, mỗi khi ông bày tỏ quan ngại đến tình hình nhân quyền của Việt Nam thì liền bị Hà Nội phê phán là can thiệp vào chuyện nội bộ.

Trong khi đó cũng có nhiều người lại chỉ trích rằng ông Marine đã không có những hoạt động, biểu hiện gì cụ thể giúp cải thiện tình hình nhân quyền Việt Nam. Với cương vị một người đại sứ, đứng trước nhiều luồng dư luận và áp lực khác nhau, như vậy liệu đại sứ Michalak có điều kiện nào thuận lợi hơn để đem lại một sự đột phá như mọi người kỳ vọng hay không, hay là ông ta cũng sẽ gặp những khó khăn, trở ngại tương tự? Quan điểm cá nhân của ông về điểm này ra sao?

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang: Mong ước của xã hội, của quảng đại nói chung, bao giờ cũng rất lớn, mà khả năng đáp ứng cụ thể, dù có lớn mấy, cũng không thể thoả mãn được mong ước của quảng đại. Tôi nghĩ trong hoàn cảnh đầy rẫy những khó khăn mà ông Michael Marine đã làm được những điều như vậy thì cũng đã rất khá. Nay, tôi kỳ vọng vì thấy ông Michalak có những biểu hiện mới tích cực hơn.

Ông Michalak còn tuyên bố rõ rệt hơn ông Marine. Các vấn đề về tự do ngôn luận, tự do chính trị, ông ấy đặt tầm ngang hoặc có khi vượt trội hơn những vấn đề về kinh tế. Các vấn đề nhân quyền, ông Michalak biểu lộ sự quan tâm vượt trội hơn so với ông Marine. Ngay trong lĩnh vực giáo dục, ông đã có tuyên bố là sẽ cố gắng tăng gấp đôi, gấp ba số học bổng dành cho nghiên cứu sinh Việt Nam sang Hoa Kỳ.

Như vậy, chắc là có một tín hiệu nào đấy cho phép ông Michalak có thể hoạt động hữu hiệu hơn ông Marine. Cho nên, chúng tôi rất mong và tin rằng ông Michalak sẽ làm được những việc tốt đẹp, gặt hái những thắng lợi lớn hơn ông Marine.

Quan hệ Trung Quốc – Việt Nam

Trà Mi: Ông Michalak được biết đến như một chuyên gia về vấn đề Trung Quốc. Liệu chúng ta có thể hy vọng những kinh nghiệm đó có thể giúp ích gì chăng khi ông làm đại sứ ở Việt Nam?

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang: Tôi có ghi nhận một điều. Trong buổi hội họp của ông Michalak với những người Việt Nam ở Hoa Kỳ trước khi bay sang Hà Nội nhận nhiệm vụ, có một câu hỏi đặt ra với ông rằng giữa Việt Nam và Trung Quốc, Hoa Kỳ chọn nước nào làm bạn? Ông Michalak cười lớn và đáp rằng ông chọn cả hai, vì ông cho rằng cả hai đều rất quan trọng cho Hoa Kỳ. Đây không phải là một vấn đề ngoại giao hay vấn đề chính trị một cách chung chung, mà có lẽ đây là nhận thức thật sự của ông Michalak.

Ai cũng biết rằng trước mắt, Hoa Kỳ rất bận rộn, và thậm chí là còn hơi bối rối, đối với một số tình hình như vấn đề khủng bố. Tuy nhiên, tôi cho rằng đấy dù sao cũng chỉ là mối quan tâm chiến thuật. Còn mối quan tâm chiến lược phải là quan tâm đến đối tác cạnh tranh với Hoa Kỳ, tức là Trung Quốc. Cần làm thế nào kiềm giữ Trung Quốc chỉ ở vị trí đối tác cạnh tranh, chứ không thể là đối thủ ngang mặt và nguy hiểm cho Hoa Kỳ được.

Những người chính khách có tầm nhìn xa phải thấy đó mới là mối quan tâm lớn trường cửu. Và trong mối quan tâm đến Trung Quốc, để giải quyết được vấn đề Trung Quốc, thì vị trí địa chính trị của Việt Nam đóng góp một phần rất quan trọng. Hoa Kỳ có thể sử dụng làm đối sách để giải quyết các vấn đề trong mối tương quan đối sách của Hoa Kỳ với Trung Quốc.

Những nguyện vọng

Trà Mi: Nếu có cơ hội đại diện cho những người đấu tranh, bảo vệ, ủng hộ dân chủ tại Việt Nam đề đạt nguyện vọng và những đề nghị cụ thể nhất đối với tân đại sứ Michael Michalak, thì ông sẽ nói gì?

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang: Tôi mong rằng tân đại sứ Michalak hãy không chỉ là suy nghĩ và phát biểu bằng lời nói, mà trong hành động cụ thể phải làm sao quan tâm, giải quyết được những vấn đề đấu tranh cho Việt Nam có tự do chính trị, mà hàng đầu của tự do chính trị là tự do ngôn luận và những vấn đề sau đó là tự do tôn giáo.

Những cái đó phải được xem là chìa khoá, là chốt mà giải quyết vấn đề Việt Nam có phát triển được một cách lành mạnh không, có trở thành được một đồng minh chiến lược của người bạn thân thiết, lâu dài, vững chắc của Hoa Kỳ không. Vấn đề không chỉ là quan tâm giúp Việt Nam về giáo dục, công nghệ, kinh tế, mà vấn đề có tính chất chi phối, quyết định lại là giải quyết tình hình dân chủ, nhân quyền Việt Nam.

Bởi lẽ trong thời gian vừa qua, trong sự nghiệp đổi mới, nhà cầm quyền Việt Nam đã giải quyết được tương đối khá một số vấn đề về phát triển kinh tế, nhưng bây giờ, sự phát triển kinh tế đó cũng không vững chắc và có nhiều nguy cơ bùng nổ vì các hiểm hoạ như tham nhũng, ức hiếp người dân dẫn đến biểu tình ngày càng đông người; từ đấy các nguy cơ bùng nổ của xã hội có cơ hội phát triển.

Cho nên, nếu không quan tâm đầy đủ đến vấn đề dân chủ-nhân quyền Việt Nam thì sẽ có nguy cơ không xa về sự bùng nổ xã hội, và nó sẽ tàn phá sự phát triển của kinh tế. Trong chừng mực đó, Việt Nam không thể là một người bạn bền vững và không thể thành một người bạn chiến lược của Hoa Kỳ trong vùng Đông Nam Á này.

Trà Mi: Chúng tôi xin chân thành cảm ơn thời gian ông đã dành cho cuộc phỏng vấn này.

Trà Mi thực hiện
Nguồn: RFA, ngày 24 tháng 8 năm 2007

Bao giờ “đối lập dân chủ” có “tổ chức”?

“…VN sẽ có dân chủ. Đây là tiến trình phát triển của xã hội, là bánh xe của lịch sử luôn tiến về phía trước mà không ai có thể ngăn cản được. Vấn đề là thời gian và ý thức dân chủ của mỗi người trong chúng ta…”

Bài viết “Thời điểm của một xét lại bắt buộc” của ông Nguyễn Gia Kiểng đã ra đời rất đúng lúc. Đã 32 năm trôi qua, phong trào dân chủ cần “xét lại” bản thân để tiến lên hay vẫn cứ tình trạng như cũ? Như cũ ở đây không phải là “phong trào dân chủ” dậm chân tại chỗ, nó vẫn tiến, nhưng rất chậm và rất tiệm tiến. Bài viết của ông Nguyễn Gia Kiểng như là một cuộc “đại phẫu” một vết thương đã tồn tại suốt 32 năm qua, đó là những yếu kém của phong trào dân chủ. Cuộc đại phẫu này đã làm nhiều người, nhiều tổ chức rất “đau”, nhưng không vì thế mà chúng ta tránh né nó. Hãy mạnh dạn và sáng suốt để phân tích những “yếu điểm” đó, một lần cho mãi mãi sau này. Vết thương dù có đau nhưng rồi sẽ lành, còn hơn cứ để nó âm ỉ trong cơ thể.

Đặc điểm lớn nhất của phong trào dân chủ trong suốt thời gian qua đó là chạy theo các “biến cố”. Tất nhiên khai thác các biến cố có lợi cho dân chủ là việc cần làm, thế nhưng quan trọng nhất là việc xây dựng một “tổ chức” đối lập dân chủ hùng mạnh đã không được chú trọng và nhận được sự quan tâm cần thiết. Xây dựng một “dự án” cho tương lai và “xây dựng” một tổ chức chính trị có tầm cỡ là việc làm rất cần nhiều thời gian và sự bền bỉ của rất nhiều người có tâm với đất nước. Đây là công việc cần có thời gian, sự bền bỉ và một tấm lòng trung kiên. Thế nhưng rất tiếc không phải ai cũng chia sẻ và có đủ sáng suốt, sự kiên nhẫn để theo đuổi mục đích này.

Phong trào đấu tranh cho một nước VN dân chủ là một cuộc cách mạng thật sự vì nó thay đổi hoàn toàn triết lý cai trị (của nhà cầm quyền) lẫn phong cách hành xử (của người dân), vì vậy, cho dù nó diễn ra hòa bình, bất bạo động thì nó vẫn mang đầy đủ trong mình mọi tính chất của một cuộc “cách mạng”, và đây sẽ là một cuộc “cách mạng” lớn nhất, vĩ đại nhất, và đương nhiên sẽ là khó khăn nhất. Nếu thành công thì đất nước và dân tộc VN sẽ bước sang một trang sử mới, đó là VN sẽ sánh vai với các cường quốc năm châu. Nếu thất bại thì VN sẽ mãi mãi tụt hậu và mãi mãi nằm trong danh sách các nước thuộc “thế giới thứ Ba”.

Chúng ta phải nhận thức một điều, dù “xã hội dân chủ” là đích đến của nhân loại nhưng không phải dân tộc nào cũng đạt đến được. Rất nhiều nước vẫn còn sống trong cảnh độc tài và kém phát triển. Nguyên nhân chính nằm ở những khiếm khuyết trong “văn hóa tổ chức xã hội” của nhà cầm quyền và chính dân tộc đó. VN cũng không là ngoại lệ, hết phong kiến, đến thực dân rồi đến cộng sản, dân tộc VN phải gánh chịu một di sản hết sức nặng nề của quá khứ. Suốt chiều dài lịch sử, cuộc sống và sinh hoạt của người dân VN luôn bị áp đặt bởi ý muốn của nhà cầm quyền, người dân VN chưa bao giờ được tự do lựa chọn cho mình người lãnh đạo và quản lý đất nước.

Cuộc cách mạng dân chủ thành công sẽ thay đổi “thói quen” đã từ hằng nghìn năm của dân tộc VN, thay vì áp đặt ý chí của nhà cầm quyền lên toàn bộ sinh hoạt xã hội và cuộc sống của người dân, một chế độ dân chủ trong tương lai, thay vì áp đặt, sẽ đưa ra các giải pháp và mô hình quản lý xã hội theo hướng văn minh và hội nhập các tiêu chuẩn của thế giới. Chế độ dân chủ sẽ phải trình bày, phân tích và thuyết phục người dân chấp nhận mô hình đó. Khi đa số người dân hiểu và đồng tình với các giải pháp đó thì sẽ tạo ra được một sự đồng thuận rất lớn trong toàn xã hội và chỉ khi đó người dân mới thật sự làm chủ cuộc đời mình, làm chủ đất nước mình.

Nói như vậy để chúng ta thấy rằng dân chủ rất cần cho xã hội VN. VN phải có dân chủ! Nhưng làm thế nào để VN có được dân chủ thì lại không hề đơn giản! Chúng ta vẫn thường nghe nói rằng phải “đối thoại” với cộng sản, vì mẫu số chung là một nước VN phồn thịnh và phát triển. Thế nhưng giả sử rằng chính quyền cộng sản VN muốn “đối thoại” với lực lượng dân chủ đối lập thì ai, tổ chức nào có đủ điều kiện và sức mạnh để nói chuyện với họ? Một sự thực mà ai cũng thấy là phong trào dân chủ chưa có một tổ chức nào (trong hay ngoài nước) đủ mạnh và đủ lớn để trở thành một “đối lập” thực sự cạnh tranh với cộng sản! Và một khi đối lập dân chủ chưa có sự thống nhất và chưa có đủ sức mạnh thì mọi cuộc “đối thoại” sẽ đi vào bế tắc, bởi một lẽ rất đơn giản là “chân lý luôn thuộc về kẻ mạnh” và kẻ mạnh thì luôn áp đặt kẻ yếu.
Muốn “đối thoại” sòng phẳng và có kết quả với cộng sản thì đối lập dân chủ ít nhất phải gần “ngang cơ” với họ. Ít nhất chúng ta phải có một tổ chức hùng mạnh, thống nhất và có khả năng hiệu triệu được quần chúng. Ai và tổ chức nào sẽ làm được điều đó? Đâu là giải pháp cho VN dân chủ? Theo tôi, có một tổ chức có thể làm được điều đó và tất nhiên phải được nhiều người ủng hộ hơn nữa đó là Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên (THDCĐN).

Muốn xây dựng một ngôi nhà, một công trình hay một thành phố thì điều đầu tiên phải làm đó là vẽ bản thiết kế và bản thiết kế đó phải được mọi người đồng tình, hưởng ứng. Một tổ chức chính trị muốn mình là giải pháp thay thế trong tương lai thì cũng phải đưa ra được một “tư tưởng”, một “lộ trình” để thuyết phục người dân. THDCĐN là tổ chức chính trị duy nhất làm được điều đó, tư tưởng chủ đạo của THDCĐN là “Bất bạo động, hòa giải dân tộc và đa nguyên về chính trị”. Lộ trình dân chủ của THDCĐN được trình bày với quốc dân đồng bào qua Dự án chính trị dân chủ đa nguyên Thành Công Thế Kỷ 21. Sau khi đã chuẩn bị xong phần “thiết kế”, THDCĐN đã bắt tay vào việc rất hệ trọng, rất cần nhiều thời gian và công sức đó là “Xây dựng tổ chức”. Đây là việc không thể không làm trong bất kỳ một cuộc cách mạng nào. Bất cứ một tổ chức chính trị nào không chú trọng công việc này thì không sớm thì muộn cũng phải gánh chịu sự thất bại thảm hại. Làm cách mạng khác với chơi “xổ số”, không thể trông chờ vào may rủi được. Làm cách mạng cũng không thể theo lối “nhân sĩ”, một cá nhân tài giỏi đến đâu mà không có tổ chức thì cũng không bao giờ làm được trò trống gì, “mãnh hổ nan địch quần hổ” là như vậy.

Nhân đây cũng xin phép được nhắc lại một thất bại của tiền nhân làm cách mạng theo kiểu “nhân sĩ”. Đó là trường hợp của cụ Trần Trọng Kim. Cụ là một học giả, một sử gia và là một nhà ái quốc đáng kính. Do lịch sử đưa đẩy bởi các biến cố quốc tế mà cụ đã được vời đứng ra thành lập chính phủ, dù cụ rất cố gắng và liêm khiết nhưng các vị bộ trưởng trong chính phủ của cụ (dù rất giỏi nhưng) không có sự đoàn kết và nhất trí (vì không cùng một tổ chức) nên không tìm được tiếng nói chung. Chính phủ của cụ đã nhanh chóng sụp đổ và nhường chiến thắng cho cộng sản (lúc đó gọi là Việt Minh). Trong hồi ký của mình cụ đã cho chúng ta thấy mối nguy hại của Việt minh nhưng cụ phải thua vì cụ không có tổ chức trong khi đó Việt minh là một tổ chức có sự đoàn kết và hành động rất dứt khoát.

Nói như vậy để chúng ta thấy được rằng việc xây dựng tổ chức có một ý nghĩa lớn lao và quan trọng như thế nào! Nhân cuộc tranh luận xung quanh bài viết “Thời điểm của một xét lại bắt buộc”, tôi đã dành nhiều thời gian đọc lại các bài viết gần đây của ông Nguyễn Gia Kiểng (ví dụ: “Quyết tâm và sáng suốt-Điểm đoạn tuyệt đã tới”, “2007: Làm gì để thắng?”, “Tâm niệm trước một hiệp đấu mới”, “Đoạn tuyệt với tinh thần Phan Bội Châu”, và “Chọn lựa giữa vận động quần chúng và chính trị xa lông”...) Tôi (kinh ngạc) nhận ra rằng ông là một người có viễn kiến, một nhà cách mạng, một nhà tư tưởng hàng đầu của VN. Nếu phong trào dân chủ làm theo những gì ông đề nghị thì có lẽ diện mạo của phong trào dân chủ ngày này đã hoàn toàn khác.

Tất nhiên đọc đến đây sẽ có người không đồng tình với tôi, điều đó không có gì là ngạc nhiên vì cuộc sống vốn là đa nguyên. Và cũng nhân đây tôi xin đề cập đến một cái nhìn, một sự xét lại rất thiết thực và cơ bản, đó là mỗi người trong chúng ta là ai? Phong trào dân chủ bao hàm một phạm vi rất lớn, gồm những người thực sự dấn thân cho dân chủ (những người có tham vọng là giải pháp cho tương lai, muốn và có khả năng thay thế đảng cộng sản, hay gọi một cách dễ hiểu là “những cầu thủ chuyên nghiệp”) và phong trào dân chủ cũng bao gồm cả những người có cảm tình, ủng hộ cho dân chủ, họ hiểu và cổ vũ cho dân chủ nhưng không tham gia hoạt động chính trị (những người này chỉ được nhìn nhận như là “quần chúng” hoặc “cổ động viên” mà thôi). Khi có sự nhìn nhận như vậy thì mỗi người sẽ ý thức được việc làm và lời nói của mình hơn. Bài viết “Thời điểm của một xét lại bắt buộc” được hiểu như là một “bài viết chuyên ngành” dành riêng cho các “cầu thủ chuyên nghiệp” chứ không dành cho “cổ động viên”. Đành rằng không thể thiếu được các “cổ động viên” trong các trận đấu, nhưng dù “cổ động viên” có nhiệt tình và hưng phấn đến đâu cũng không thể đưa bóng vào lưới được. Làm nên chiến thắng là do các cầu thủ, chứ không phải là cổ động viên. Và một người chơi bóng rất giỏi nhưng không tham gia đội bóng nào thì cũng nhìn nhận họ như là “cổ động viên”. Ông Nguyễn Gia Kiểng cho rằng một “tiến sĩ về chính trị học” nhưng không có tham vọng và không tham gia vào một tổ chứ nào thì cũng chỉ là “quần chúng”, tôi đồng ý với quan điểm này.

Như vậy nếu một người thực sự dấn thân cho phong trào dân chủ thì người đó phải tham gia vào một tổ chức chính trị đứng đắn, đoàn kết và có quyết tâm cao. Tất nhiên khi tham gia vào một tổ chức chính trị, hay bất cứ một tổ chức nào (hay đơn giản nhất là lấy vợ thì bạn sẽ phải hy sinh một số thói quen thường ngày), phải chấp nhận sự chỉ trích của tổ chức (hay sự phàn nàn, kêu ca của các bà vợ), tất nhiên là nhiều lúc sẽ rất khó chịu, nhưng nếu bạn chấp nhận và vượt qua được thì bạn sẽ “nên người”.

Đến đây sẽ có người thắc mắc, tại sao ông Nguyễn Gia Kiểng và THDCĐN chưa thành công? Tôi nghĩ rằng phải có thời gian, không thể đốt cháy giai đoạn được. Một phong trào, một cuộc cách mạng, một tổ chức cần có đủ thời gian để phôi thay và mọc mầm rồi mới đến kỳ thu hoạch. Ông Nguyễn Gia Kiểng ví nó như người làm ruộng, phải cày cấy, chăm bón rồi mới có ngày gặt hái. Một lý do nữa khiến THDCĐN không phát triển mạnh mẽ (như chúng ta muốn) đó là do sự thờ ơ của chúng ta, của người dân VN nói chung và cộng đồng người Việt hải ngoại nói riêng. Chúng ta dễ dàng xúc động vì những khó khăn về cuộc sống hiện tại của những nhà dân chủ trong nước đang bị chính quyền xách nhiễu hơn là đóng góp công sức và tâm trí cho một tổ chức chính trị lành mạnh. Tâm lý chạy theo các biến cố vẫn rất mạnh trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Đó là những đặc tính chung của văn hóa người Việt, có thay đổi được thói quen và tập tục này chúng ta mới mong ngày VN có dân chủ. Dân chủ cũng cần phải học, vấn đề là học ở đâu? Bắt đầu từ khi nào? Chúng ta đã thực sự quen với cách thức sinh hoạt dân chủ chưa? Đó là những câu hỏi rất ưu tư và đầy trách nhiệm mà ông Trần Bảo Lộc (Lâm Đồng) vừa đưa ra trong bài viết mới nhất của mình. Một lý do nữa mà tôi đã nói ở trên đó là THDCĐN là một tổ chức chính trị dân chủ, nên không muốn áp đặt ý chí của mình lên mọi người mà thay vào đó là sự thuyết phục mọi người cùng tham gia vào việc quản lý xã hội, thực sự làm chủ cuộc đời và vận mệnh của mình, của tổ quốc mình...Vì vậy THDCĐN cần có sự hậu thuẫn và ủng hộ của toàn thể đồng bào VN trong cũng như ngoài nước.

Một cuộc “tiểu phẫu” cũng gây ra đau đớn huống gì một cuộc “đại phẫu” như bài “Thời điểm của một xét lại bắt buộc”, sẽ có những mất mát, sẽ có những “hy sinh” nhưng thiết nghĩ đó là một sự đào thải bắt buộc. Thời gian sẽ chữa lành mọi vết thương và thời gian sẽ cho chúng ta ngẫm nghĩ mọi điều đúng sai, phải quấy trong cuộc đời. Sau cuộc đại phẫu này hy vọng THDCĐN và phong trào dân chủ sẽ có một cơ thể cường tráng để cạnh tranh lành mạnh với đảng cộng sản. Chúng ta sẽ thay đổi một thói quen của 4000 năm lịch sử đó là thay vì chịu đựng, là tiếng nói của lương tâm chúng ta sẽ là chủ nhân của đất nước, sẽ là giải pháp của tương lai.

Có thể 5, 10, 15 hay...50 năm nữa VN mới có dân chủ, cái đó tùy thuộc vào sự dấn thân của mọi người dân VN, đặc biệt là tầng lớp trí thức VN. Có một điều mà tôi tin chắc rằng VN sẽ có dân chủ. Đây là tiến trình phát triển của xã hội, là bánh xe của lịch sử luôn tiến về phía trước mà không ai có thể ngăn cản được. Vấn đề là thời gian và ý thức dân chủ của mỗi người trong chúng ta.

Muốn có ngày đó thì ngay bây giờ “đối lập dân chủ” phải chú trọng việc “xây dựng tổ chức”, một tổ chức chính trị lành mạnh, hùng mạnh và đoàn kết. Một câu nói nổi tiếng của một người cách mạng chuyên nghiệp là Lênin mà ông Nguyễn Gia Kiểng đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần đó là “trong phong trào cách mạng có ba vấn đề: Tổ chức, tổ chức và tổ chức”. Xin gửi câu nói này đến tất cả mọi người đang ngày đêm trằn trọc và ưu tư cho vận mệnh của đất nước.

Việt Hoàng

Từ Đông Âu tới Việt Nam

“… Cuộc đấu tranh giành lại Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền cho Việt Nam tuy chưa thành công nhưng tình hình cũng đã có những thay đổi đáng kể so với 32 năm về trước …”

Vào nửa đêm ngày mùng 3 tháng Mười năm 1990, Đông Đức và Tây Đức tái thống nhất sau 45 năm bị chia cắt thành hai quốc gia riêng biệt. Nhiều nghìn người Đức đã tụ tập trên các đường phố của thủ đô Berlin tham gia các lễ hội chào mừng sự kiện này. Trên ảnh là quang cảnh trước toà nhà Reichstag (nghị viện Đức) ở Berlin. Trước đó, ngày mùng 9 tháng Mười Một năm 1989, Bức Tường Berlin – biểu tượng vật lý của Chiến Tranh Lạnh – đã được chính quyền Đông Đức cho phép dỡ bỏ; và từ tháng Bẩy năm 1990, hai miền Đông và Tây đã hợp nhất các hệ thống tài chính. Nước Đức đã tái thống nhất hoàn toàn trong trật tự và hoà bình, với sự cáo chung của chế độ toàn trị cộng sản ở Đông Đức. Phải chăng “diễn biến hoà bình” này đã đi ngược lại ý nguyện của nhân dân Đức?
Biến cố Đông Âu (1989) đã xảy ra cách đây 18 năm. Tài liệu sách vở ngoại ngữ nhất là tiếng Anh viết về biến cố lớn lao này rất nhiều. Tài liệu tiếng Việt phần lớn được trình bày qua báo chí hải ngoại. Tài liệu in thành sách vở nếu người viết không lầm thì rất ít, chỉ đếm trên đầu ngón tay. Chúng tôi ghi nhận:

Năm 1990, tác giả Đằng Sơn đã thu thập tài liệu và hình ảnh viết cuốn Biến Cố Đông Âu do Ngàn Lau xuất bản.

Mười sáu năm sau (2006), ông Lý Thái Hùng, Tổng Bí Thư Đảng Việt Tân cho ấn hành cuốn Đông Âu Tại Việt Nam.
Biến Cố Đông Âu của Đằng Sơn được ấn hành ngay khi biến cố Đông Âu và Liên Xô đã (1989) và đang (1990) xẩy ra một cách sôi động. Sách dày 120 trang, được viết rất cô đọng, ngắn gọn cùng với những hình ảnh thật sống động về các cuộc xuống đường biểu tình của dân chúng chống lại nhà cầm quyền Cộng sản độc tài tại các nước Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi, Lỗ Ma Ni, Bảo Gia Lợi, Đông Đức, Nga Xô; cảnh bức tường ô nhục Bá Linh bị phá sập; tượng đồng Lênin bị hạ bệ đang treo lơ lửng trên xe cần cẩu, vân vân. Lối viết của Đằng Sơn tuy ngắn gọn, nhưng khá súc tích, lập luận mạnh bạo, đanh thép, hấp dẫn ngưới đọc. Người viết xin ghi lại đây những dòng giới thiệu tác phẩm ở bìa sau:
"Chỉ trong vòng 30 phút bạn sẽ nắm vững hết mọi biến chuyển liên quan đến phong trào dân chủ Đông Âu khiến thành trì cộng sản sụp đổ năm 1989:
- Cuộc "đảo chánh" ôn hòa ở Ba Lan
- Cuộc cách mạng "nhung" ở Tiệp Khắc
- Sự sụp đổ của Bức Tường Ô Nhục Bá Linh
- Cuộc nổi dậy đẫm máu ở Lỗ Ma Ni
- Những thay đổi ở Hung Gia Lợi, Bảo Gia Lợi, Albania
- Cuộc đời của các nhân vật lịch sử: Anh hùng áo vải Lech Walesa (Ba Lan), nhà trí thức can đảm Vaclav Havel (Tiệp Khắc), nhà độc tài mù quan1g Nicolae Ceausescu (Lỗ Ma Ni)...

Từ đó bạn có thể tự kết luận về những điểm dị đồng giữa Đông Âu và Việt Nam.

Tràn ngập hình ảnh, đầy đủ dữ kiện, trình bày giản dị và dễ hiểu, Biến Cố Đông Âu là một tài liệu quý giá không thể thiếu trong tủ sách gia đình."
Đông Âu Tại Việt Nam của Lý Thái Hùng được ấn hành 16 năm sau (2006). Vì có thời gian lâu dài để nghiên cứu, thâu thập, tổng hợp, đúc kết nên tác phẩm của ông Lý Thái Hùng có bề dày đồ sộ hơn với trên 600 trang. Hình thức: Sách được in rất công phu, bìa cứng có bao, trình bày trang nhã, đẹp mắt. Nội dung gồm hai phần: Phần (1) Đông Âu, trình bày đầy đủ chi tiết biến cố tại Đông Âu trong 8 chương (trên 330 trang) với bảy nước: Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi, Lỗ Ma Ni, Bảo Gia Lợi, Đông Đức, và Nam Tư. Phần (2) Việt Nam trước cơn bão dân chủ tại Đông Âu trong 2 chương (khoảng 220 trang). Phần còn lại là hình ảnh và các lời giới thiệu, lời bạt, nhận định của một số nhân vật cộng đồng.

Nói chung về phần tài liệu thì tác phẩm Đông Âu Tại Việt Nam của ông Lý Thái Hùng rất là phong phú. Nếu quý độc giả không có thì giờ đọc sách ngoại ngữ (tiếng Anh, tiếng Pháp) thì cuốn Đông Âu Tại Việt Nam là tài liệu giúp quý độc giả tiết kiệm được rất nhiều thì giờ. Điểm đặc biệt là phần trình bày tài liệu về Việt Nam khá chi tiết. Nhờ công lao thu thập sắp xếp, trình bày ngắn gọn, tác phẩm Đông Âu tại Việt Nam vẽ lại trước mắt độc giả cuộc tranh đấu kiên trì dũng cảm với muôn vàn khó khăn của nhân dân Việt Nam trong suốt 32 năm qua kể từ ngày Miền Nam rơi vào tay Cộng Sản (30-04-1975) cho đến nay. Thật ra, trong phần này tác giả chưa nắm vững hay chưa có đủ tài liệu về công cuộc đấu tranh tại Việt Nam trong 10 năm đầu (1975-1985) vì tác giả du học trước 1975. Vả lại trong giai đoạn đó, việc thông tin liên lạc giữa trong và ngoài nước còn muôn vàn khó khăn, vẫn chưa có quan hệ ngoại giao Mỹ - Việt Cộng, cuộc cách mạng thông tin điện tử chưa nở rộ ra như sau này nên các tin tức còn bị bưng bít hoặt ít lọt ra được bên ngoài. Từ 1985 cho tới nay thì nhờ kỹ thuật thông tin điện tử, nhất là sau khi biến cố Đông Âu xẩy ra (1989) nên tác giả có nhiều điều kiện thuận lợi thu thập tài liệu đầy đủ, đúc kết và trình bày lại trên các trang sách.

Đọc cái tựa của tác phẩm Đông Âu Tại Việt Nam, có lẽ phần lớn chúng ta có thể mường tượng ra được nội dung tác giả muốn trình bày những điều gì, nhất là chủ trương đấu tranh cho Việt Nam của chính tác giả hay của Đảng Việt Tân mà tác giả là Tổng Bí Thư. Chính cách trình bày của tác giả cho người ta cái cảm tưởng rằng tác giả muốn chuyện xẩy ra tại Đông Âu cũng sẽ xẩy ra tại Việt Nam. Nói cách khác, Việt Nam cũng sẽ có những biến chuyển chính trị như Đông Âu, nghĩa là dân chúng sẽ vùng lên đánh đổ chế độ Cộng sản để xây dựng một nước Việt Nam tự do, dân chủ, và nhân quyền như dân chúng Đông Âu đã làm. Nhưng muốn là một chuyện và thực tế có xẩy ra như mình mong muốn hay không lại là chuyện khác vì nó tùy thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan, khách quan và nhất là sách lược đấu tranh.

Biến cố Đông Âu có ảnh hưởng gì đến Việt Nam hay không?

Câu trả lời tất nhiên là có:

- Năm 1981, lúc người viết còn ở Việt Nam thì được tin Trường Chinh vội vã bay vào Sài Gòn họp các linh mục Công Giáo thuộc Tổng Giáo Khu Sàigòn ở số 6 Cuờng Để (Đại Chủng Viện Thánh Giuse) hăm dọa: "Nhất định Việt Nam không thể là Ba Lan thứ hai". Lúc ấy, tại hải cảng Gdank Ba Lan, các công nhân bắt đầu cuộc đấu tranh gây chấn động dư luận thế giới. Rõ ràng là tập đoàn Cộng Sản Hà Nội rất sợ một biến cố tương tự như Ba Lan sẽ xẩy ra tại Việt Nam, mà Trường Chinh và cả tập đoàn đều nghĩ rằng Khối Công Giáo Việt Nam có thể phát động tại Sài Gòn, Miền Nam Việt Nam.

- Tám năm sau (1989) biến cố Đông Âu mới thật sự bùng nổ tại 7 nước (Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi, Đông Đức, Bảo Gia Lợi, Lỗ Ma Ni, Nam Tư), rồi lan sang cả Liên Xô khiến Đế Quốc Cộng Sản sụp đổ cách thê thảm (1991). Nói là "bùng nổ" vì thật sự nó đã âm ỉ và tích lũy từ hàng chục năm về trước. Mới đầu là cái mầm, sau lớn dần và bùng lên dữ dội. Nguyên nhân chính là chế độ độc tài toàn trị Cộng sản chẳng những tước đoạt quyền tự do của người dân mà còn làm cho cuộc sống của họ mỗi ngày thêm chật vật, đói khổ khiến họ phải vùng lên tranh đấu chống lại chính sách bóc lột, chống nạn tăng giá thực phẩm của nhà cầm quyền.

- Những biến động âm ỉ rồi bộc phát mạnh mẽ đó nói lên điều gì? Thưa rằng, đó chính là sự phá sản của chủ nghĩa Mác-Lê. Như Lênin từng viết: "Không có lý luận cách mạng thì không có Đảng cách mạng. Không có Đảng cách mạng thì không có cách mạng." Toàn bộ sách lược của Cộng sản nằm gọn trong hai câu đó. Lênin đã thực hiện sách lược đó tại Nga. Các Đảng Cộng sản khác trên thế giới đều rập khuôn theo mẫu sách lược này của Nga Xô mà hành động. Nhưng vì chính sách cai trị tàn ác của nhà nước Cộng Sản khiến dân chúng trở thành đói nghèo khổ cực. Mà "đói thi đầu gối phải bò", nên trong thế cùng họ phải vùng lên đấu tranh đòi cơm áo, tự do và hoà bình, những mục tiêu cao đẹp mà Đảng Cộng sản từng hứa hẹn mà chẳng bao giờ thực hiện. Sự kiện đó chứng minh rằng lập luận của Lênin trật đường rầy cách thê thảm. Lý luận Cách Mạng của Mác Lê là lý luận lừa bịp, láo khoét. Đảng Cách Mạng của Mác-Lê là thứ Đảng cướp, là Mafia trá hình. Cách mạng của Mác-Lê là đói nghèo lạc hậu, là biến nhân dân đang có cơm no, áo ấm thành "vô sản chuyên chính: khố rách áo ôm" để làm công cụ cho giai cấp mới: Giai cấp Tư Bản Đỏ! Nói rõ hơn, (1) Lý luận cách mạng (tư tưởng) sai lầm. (2) Đảng Cách Mạng là thứ (tổ chức) phản động, thoái hóa. (3) Cách Mạng Vô Sản (hành động) đưa nhân loại vào vòng đói nghèo, lạc hậu, đàn áp, bất công.
Người dân Ba Lan vẫy quốc kỳ Ba Lan và cờ Liên minh châu Âu (EU) chào mừng kết quả cuộc trưng cầu dân nguyện tháng Sáu năm 2003, trong đó nhân dân Ba Lan ủng hộ việc nước này gia nhập EU. Mười bốn năm trước đó, năm 1989, công đoàn độc lập Solidarność do Lech Wałęsa lãnh đạo đã giành được chính quyền trong hoà bình sau những cuộc bầu cử nghị viện tự do và trật tự. Phải chăng “diễn biến hoà bình” đã đi ngược lại lợi ích của nhân dân Ba Lan?
Ảnh: Encarta Encyclopedia, Corbis/AFP

- Đông Âu sát nách Liên Xô mà còn như thế, huống chi Việt Nam sau mấy chục năm chiến tranh, tình trạng đói nghèo còn tệ hại hơn. Khi chưa chiếm được Miền Nam thì chỉ có một nửa nước đói khổ. Đến khi miền Nam rơi vào tay của chúng để chúng "hồ hởi" tuyên bố "tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội" thì cả nước thành đói nghèo mạt rệp. Cho nên năm 1985, trước tình hình khó khăn, sau khi được bầu lên thay tập đoàn Lê Duẩn đã về chầu Diêm Vương, tập đoàn Nguyễn Văn Linh - Võ Văn Kiệt đã vội vàng đề ra chính sách cởi mở, đổi mới nhằm cứu nguy cho Đảng. Cởi mở, đổi mới có nghĩa là chấp nhận cái sai, cái thất bại của chủ nghĩa Cộng Sản để "lùi lại" vào con đường tư bản. Lâu nay, luận điệu tuyên truyền của Cộng Sản là lịch sử loài người sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội không có gì thay đổi được và một khi Cộng sản thống trị nước nào thì tại nước không có thế lực nào khác lật ngược lại được. Vậy mà bây giờ chẳng những chủ nghĩa Cộng sản thất bại mà sức mạnh của nhân dân khao khát Tự Do đã đánh bật Cộng Sản ngay từ gốc rễ tại Đông Âu và ngay từ cái nôi của nó là Liên Sô. Hành động gọi là "Đổi Mới" của phe nhóm Nguyễn Văn Linh & Võ Văn Kiệt (do Gorbachev bật đèn xanh từ Liên Xô) gián tiếp thừa nhận sự thất bại và sai lầm của chủ nghĩa Cộng sản. Nhưng lỡ ngồi trên lưng cọp rồi nên tập đoàn Cộng Sản Hà Nội đâm ra sợ hãi. Tiếp tục đi theo con đường bạo lực sắt máu của Mác Lê thì chỉ có nước đói. Mà trở lại với tư bản thì còn mặt mũi nào.

- Giữa lúc tình hình Đông Âu nổi lên thì về phía dân chúng Việt Nam đã có phản ứng tích cực công khai với Tuyên bố 9 Điểm của Hòa Thượng Thích Huyền Quang vào năm 1991. Rồi từ đó, nhiều nhân vật, nhiều tổ chức xuất hiện đòi hỏi nhà cầm quyền Cộng sản Hà Nội phải cái tổ, phải đối mới toàn diện, phải thực thi tự do dân chủ. Trước đó (1991), phải nói thật rằng, chỉ riêng Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền là dám công khai đương đầu vói CSVN. Còn ngoài ra, phải chờ đến biến cố Đông Âu (sau 1989) thì các nhân vật và tổ chức khác mới dám công khai tuyên bố hay bày tỏ quan điểm của mình. Như vậy, hiển nhiên là biến cố Đông Âu đã tác động mạnh mẽ đến tình hình thế giới, cách riêng tại Việt Nam và Trung Quốc. Nhờ đó, Hòa Thượng Thích Thích Huyền Quang, Tăng Thống GHPGVNTN mới dám đưa ra 9 điểm. Nhờ đó mà sinh viên Trung Quốc mới tạo ra biến cố Thiên An Môn. Nhờ đó, nhiều Đảng viên Cộng Sản VN thức thời đã công khai bày tỏ quan điểm hoặc gửi kiến nghị tới Trung Ương Đảng đề yêu cầu cải tổ.

Nhưng cho đến nay, khi biến cố Đông Âu đã xẩy ra 18 năm (1989-2007) mà Việt Nam vẫn chưa có một biến động nào đủ tầm cỡ khả dĩ làm thay đổi tình hình như sự mong muốn của Dân tộc là vì sao? Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn ù lì bám víu vào chủ nghĩa Mác Lê, vẫn càng cổ hô to khẩu hiệu "Việt Nam vẫn tiến lên chủ nghĩa xã hội, vẫn chuyên chính vô sản, vẫn dân chủ tập trung, vẫn kinh tế thị trường theo đinh hưỡng xã hộ chủ nghĩa". Thật ra thì nền tảng đã thay đổi rồi chớ không phải "vững chắc" như luận điệu chúng rêu rao. Thay đổi cái gì? Thưa rằng hơn lúc nào hết, tập đoàn Cộng Sản Việt Nam dư biết "Sách Lược của Mác Lê" qua câu nói nổi tiếng của Lênin không còn hiêụ nghiệm nữa. Nhai lại cái câu đó mãi mà dân cứ đói thì chỉ có nước chết yểu. Cho nên, chúng phải bày ra cái gọi là "Tư Tưởng Hồ Chí Minh" để lấp vào cái khoảng trống đầy nguy hiểm này!

Làm sao tới Việt Nam?

Trong tháng 6/2007 vừa qua, hơn một ngàn nông dân Việt Nam từ các vùng xa xôi kéo nhau lên Sài gòn tụ tập tại Văn Phòng Quốc Hội 2 của Việt Cộng ở Miền Nam yêu cầu giải quyết những oan ức của họ vì bị đàn áp bóc lột đất đai, nhà cửa, ruộng vườn. Cuộc biểu tình ôn hòa kéo dài hơn ba tuần lễ. Dù cho nhiều đoàn thể ở hải ngoaị lên tiếng hỗ trợ, nhưng rồi Cộng Sản Việt Nam vẫn dẹp tan. Vì sao?

Người viết nhờ lại năm 1987 khi xẩy ra vụ Cộng Sản Viêt Nam đàn áp Dòng Đồng Công ở Thủ Đức thì hàng ngàn dân chúng từ các vùng Tam Hà, Thủ Đức, Hố Nai, Gia Kiệm, Tam Hiệp đã đến bảo vệ Nhà Dòng. Họ nằm la liệt ra ngoài đường, những lối dẫn vào Nhà Dòng. Cộng sản đã huy động lực lượng bộ đội đến bao quanh, chụp hình, cho nhiều công an giả dạng dân chúng đến yểm trợ nhưng chính là để nhòm ngó, theo dõi lấy tin tức, tìm hiểu, chỉ điểm ai là những nggười chủ động lãnh đạo phong trào, vân vân. Sau cùng chúng ra tay "đánh tỉa, chia cắt, khủng bố, bắt giam..." khiến phong trào bị xẹp. Lúc đó, báo chí truyền thông hải ngoại chưa nở rộ như bây giờ, vấn đề ngoại giao và tuyên truyền quốc tế cũng chưa được sử dụng tích cực như bây giờ, biến cố Đông Âu vẫn chưa bùng nổ như hai năm sau (1989). Người quan sát tự hỏi: "Nếu vụ Đồng Công (1987) xẩy ra cùng với biến cố Đông Âu (1989) và được lãnh đạo hẳn hoi thì tình hình Việt Nam lúc ấy sẽ ra sao?". Đặt giả thuyết thôi chớ sự việc đã trôi qua rồi. Hai mươi năm sau (2007) vụ Dân Oan biểu tình lại xẩy ra ở Sài Gòn, số lượng người dân bị bóc lột đi khiếu khiện (khoảng 1700) không bằng số lượng giáo dân tham gia vụ Đồng Công năm 1987 (ở mức độ 3000). Nhưng nhờ mạng lưới truyền thông trên khắp thế giới cũng như kỹ thuật thông tin liên lạc trong và ngoài nước tương đối dễ dàng và tiến bộ hơn đã làm cho vụ này nổi tiếng hơn. Nhưng kết cục thì cũng không hơn gì vụ Đồng Công.

Chuyện đã qua, chúng ta cần rút tỉa kinh nghiệm cho cuộc tranh đấu đang còn được âm ỉ nuôi dưỡng.

Trước hết, tại Đông Âu, dân chúng 7 nước vùng lên, nhưng mức độ và hình thức cũng có những dị biệt. Ba Lan kiên trì tranh đấu. Tiệp Khắc nhẹ nhàng êm ái được gọi là "cách mạng nhung". Lỗ Ma Ni quyết liệt, đẫm máu, đã đánh đổ chế độ và xử tử vợ chồng Ceausescu! Đông Đức dồn dập, bức tường ô nhục sụp đổ, Hung Gia Lợi tự động bỏ Cộng Sản, Bảo Gia Lợi Cộng sản lúng túng, vân vân. Nhưng các nước cũng có những nét tương tự: bắt đầu là cái mầm bất mãn vì cuộc sống khó khăn, kinh tế thất bại do chế độ Cộng sản độc tài mang lại. Rồi dân chúng nổi lên, được lãnh đạo bởi một nhóm công nhân hoặc trí thức kiên trì tranh đấu. Sự xuất hiện của những thành phần Cộng sản ly khai do sự thức tỉnh một cách khôn ngoan đứng đắn hoặc những thành phần vì "chủ nghĩa thời cơ" đã tự động tách ra đứng về phía dân chúng. Sau cùng là các diễn tiến dồn dập xẩy ra khiến chế độ không còn điểm tựa phải bị lật nhào.

Tại Việt Nam, dân chúng và nhất là nông dân bất mãn đã vùng lên đấu tranh. Phần lớn họ ở nông thôn nên việc biểu tình còn nhiều khó khăn khi tụ tập trong khi công nhân ở thành thị thì chưa đáp ứng thuận lợi. Thành phần trí thức có đầu óc còn ít ỏi, rời rạc, chưa đủ tầm vóc thu hút được quần chúng trong nước. Một vài nhân vật được hải ngoại thổi phồng lên như những nhân vật đối kháng nhưng thực lực chưa có gì vì ngay dân chúng trong nước cũng ít biết đến các nhân vật này. Đảng viên Cộng Sản ly khai đã xuất hiện lẻ tẻ nhưng chưa đủ thực lực để đối đầu với phe bảo thủ. Có dấu hiệu cho thấy nhiều đảng viên muốn Đảng Cộng Sản phải thay đổi nhưng không dám bày tỏ quan diểm và lập trường của mình vì e sợ lãnh số phận như Trần Xuân Bách để rồi bị đuổi ra khỏi Đảng và mất hết quyền lợi. Thật ra thì chính tập đoàn Cộng Sản Hà Nội khi chứng kiến sự sụp của Đông Âu và Liên Xô cũng biết rằng chủ nghĩa Cộng Sản cũng đã lỗi thời rồi. Hiện nay trên văn bản, chúng còn duy trì học thuyết Mác Lê cộng thêm cái gọi là "Tư Tưởng Hồ Chí Minh" chỉ là chiêu bài nhằm bám víu lấy quyền hành và địa vị mà thôi. Chính chủ trương trong cảnh chợ chiều của chủ nghĩa Cộng Sản và của tập đoàn Cộng sản Hà Nội đã phát sinh ra tệ nạn tham nhũng, bất công. Được làm vua thua làm giàu! Nhưng ngày nào mà chúng còn ngự trị thì ngày đó nhân dân Việt Nam còn đói nghèo lạc hậu. Cho nên, muốn đưa dân nước thoát ra khỏi tình trạng khốn khổ này thì phải sớm giải thể chế độ Cộng sản.

Giải thể chế độ Cộng Sản bằng cách nào?

Trong Đông Âu tại Việt Nam nơi các trang 528-529, ông Lý Thái Hùng có trình bày quan niệm đấu tranh toàn diện. Nhiều nhân vật hoạt động cũng đã trình bày về đường lối đấu tranh giành lại Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền cho Việt Nam trên báo chí cũng như trên các Diễn Đàn. Trong phạm vi hạn hẹp của bài này, người viết xin đóng góp một vài ý kiến thô thiển như sau:

Trước hết, khi chúng ta nói đến "giải thể chế độ Cộng sản" thì thực sự cũng là nói đến đấu tranh. Mà đấu tranh cho dù dưới hình thức nào, ôn hòa, bạo động, cục bộ hay toàn diện, vân vân thì cũng phải xét đến ít nhất hai yếu tố quyết định sự thành, bại. Thứ nhất là "Tương quan lực lượng". Thứ hai là sách lược đấu tranh. (Chưa kể đến những yếu tố khác như: Thiên Thời, Địa Lợi, Nhân Hòa). Cũng giống như hai võ sĩ thượng đài, muốn thắng đối phương, võ sĩ phải có sức mạnh (1) và điêu luyện võ thuật (2). Trong phạm vi đấu tranh thì khi nói đến sức mạnh tức là nói đến tương quan lực lượng giữa Ta và Địch về nhiều phương diện. Thứ đến Sách Lược đấu tranh tức là nói đến chiến lược, chiến thuật. Đi sâu hơn là nói đến các Nguyên Lý để thắng. Các Nguyên Lý Chiến Tranh mà Tôn Tử và các Chiến pháp gia sau này nghiên cứu và viết ra như những khuôn vàng thước ngọc cũng chỉ quy vào 10 Nguyên Lý Cơ Bản có thể linh động áp dụng trong mọi lĩnh vực đấu tranh. Không nắm vững Nguyên Lý Đấu Tranh và không áp dụng đúng đắn tất nhiên sẽ rước lấy thất bại.

Về tương quan lực lượng giữa TA (tức Đại Khối Dân Tộc) và ĐỊCH (Cộng Sản) thì TA có THẾ mà LỰC thì bị phân tán. Ngược lại ĐỊCH có LỰC mà đang mất THẾ. Vậy ưu tiên số một của TA là làm sao xây dựng và bảo toàn được THỰC LỰC đồng thời duy trì cái THẾ.

Về Sách Lược Đấu Tranh phải nghiên cứu lại 10 Nguyên Lý và áp dụng cho đúng đắn. Việc xây dựng Thực Lực và Đấu Tranh luôn gắn liền với nhau. Trong đấu tranh không thể "đánh võ rừng" mà nhất cử nhất động phải có bài bản hẳn hoi. Thật ra ngay trong võ thuật, đánh võ tự do cũng có quy luật, bài bản của nó. Huống chi trong đấu tranh chính trị thì sách lược, chiến lược, chiến thuật còn tinh vi hơn nữa. Dư luận lấy làm ngạc nhiên có những tổ chức, những nhân vât đấu tranh gọi là chống Cộng mà đánh đấm loạn xà ngầu, chẳng có bài bản gì cả:

a) Địch thì không đánh mà lại cứ nhắm vào cái lưng của mình mà đánh (vi phạm nguyên lý toàn tồn);

b) Không phân biệt được Bạn, Thù; không biết Địch mà cũng chẳng biết Ta tức là vi phạm nguyên lý tiên tri. Chính trị khác với toán học. Toán học nhất là Đại Số thì: Cộng (+) với Cộng (+) = Cộng (+); Trừ (-) với Trừ (-) = Cộng (+); Cộng (+) với Trừ (-) = Trừ (-); và Trừ (-) với Cộng (+) = Trừ (-). Trong chính trị nếu ta gọi Cộng là Bạn và Trừ là Thù thì nó không hẳn như Toán học Đại số. Trong chính trị, Bạn (+) của Bạn Ta (+) chưa chắc đã là Bạn Ta (+). Kẻ Thù (-) của Kẻ Thù (-) ta chưa chắc đã là Bạn Ta (+). Vân vân và vân vân. Nói cụ thể hơn Pháp (+) thân với Anh (+) nhưng có lần vẫn Thù (-) Mỹ. Trung Cộng (-) lạnh nhạt với Nga Xô (-) nhưng vẫn chưa phải là Bạn (+) của Mỹ. Việt Cộng (-) không ưa gì Trung Cộng (-) nhưng chưa chắc đã là đồng minh (+) của Mỹ. Trong chính tri thì Quyền Lợi là số một. Chủ nghĩa dân tộc luôn lấn lướt các thứ chủ nghĩa khác Hãy nghe Đồng Minh tuyên bố: "Không có Kẻ Thù vĩnh viễn. Chỉ có Quyền Lợi vĩnh viễn."

c) Về phương diện khoa học tổ chức thì câu nói của Lênin "Không có lý luận cách mạng thì không có Đảng cách mạng. Không có Đảng cách mạng thi không có cách mạng" là câu nói rất hay. Biết khai triển câu nói này thì lợi vô cùng. Vậy mà về phía Quốc Gia chống Cộng chúng ta thì hình như nhiều đoàn thể nổi tiếng chẳng mấy quan tâm đến câu nói này mà chỉ nhắm xem bao giờ đồng minh bật đèn xanh. Như vậy là vi phạm nguyên lý cầu kỷ. Cho nên, chúng ta cần nhìn lại chính tình Việt Nam trong suốt 50 năm qua để rút ra bài học kinh nghiệm đầy xương máu.

d) Có những tổ chức chính trị mới ra đời mà Cương Lĩnh, Tuyên Ngôn và thành phần Ban Lãnh Đạo với đầy đủ lý lịch, địa chỉ được phơi bày đầy đủ trên các Diễn Đàn Internet. Vậy các tổ chức này là Bạn Thật hay Bạn Giả? Có những nhân vật được tiếng là chống Cộng triệt để với tuyên ngôn được tung ra vung vít vậy mà Việt Cộng cứ để yên thì nhân vật này là ai, đóng vai trò gì? Việt Cộng có dụng ý gì khi cứ để như vậy, không đụng chạm gì đến? Nếu chúng ta cứ nhắm mắt tin vào các đoàn thể đó, các nhân vật đó thì hậu quả sẽ ra sao?

e) Vân vân và vân vân.

Kết luận

Cuộc đấu tranh giành lại Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền cho Việt Nam tuy chưa thành công nhưng tình hình cũng đã có những thay đổi đáng kể so với 32 năm về trước. Biến Cố Đông Âu cũng như sự sụp đổ của Liên Xô đã tác động mạnh mẽ đến tình hình tại Việt Nam. Tất nhiên là đã có những mầm mống ngấm ngầm ly khai trong nội bộ của Đảng Cộng sản. Rõ ràng nhất là người dân không còn sợ Cộng sản như xưa nữa. Và tập đoàn Cộng sản Hà Nội đã phải có những thay đổi nhằm thích nghi với tình hình mới. Thế cờ đã lật. Chế độ Cộng sản nhất định sẽ bị triệt tiêu trên lãnh thổ Việt Nam. Sự triệt tiêu đó sớm nay muộn là do nỗ lực đấu tranh của toàn dân Việt trong cũng như ngoài nước, trong đó nhu cầu lãnh đạo vẫn là nhu cầu cần thiết trong lúc này. Một bộ phận phối hợp để nghiên cứu tình hình và sách lược đấu tranh nên được các đoàn thế và các nhân vật đấu tranh hình thành càng sớm càng tốt.

Suy cho cùng thì đúng như lời Đức HY Phanxico Xavier Nguyễn Văn Thuận viết "Thời đại mới, nhu cầu mới, phương pháp mới." (trong Đường Hy Vọng số 296). Sau những nỗ lực mà chưa kết quả như lòng mong muốn, chúng ta cần thay đổi phương pháp đấu tranh. Nói rõ hơn là cần thay đổi tư duy để hành động cho hữu hiệu. Thay đổi tư duy để nhận định tinh hình cho đúng, nhất là thấy rõ mục tiêu đáp ứng được nguyện vọng của toàn dân hay ít ra của đại đa số quần chúng. Tự do dân chủ, nhân quyền hay cơm áo? Tham nhũng và bất công? Cần thực tiễn, đừng quá xa vời và trừu tượng. Một cuộc đấu tranh đáp ứng được nguyện vọng của toàn dân thì đương nhiên sẽ tạo ra sức hội tụ. Hợp quần gây sức mạnh. Có sức mạnh, có sách lược hữu hiệu thì cuộc đấu tranh tất sẽ thành công. Đông Âu rồi sẽ tới Việt Nam.

San Jose, 23/08/2007
Phạm Quang Trình

Phải phản đối mạnh Nguyễn Tấn Dũng!

“… Sự nghiệp của ông là một bất công lớn đối với chính các đảng viên cộng sản khác, một chuỗi dài những gian dối và tội ác, và chính bàn tay ông ta cũng đẫm máu …”

Có một điều rất nghịch lý cần được nói ra để tránh một sai lầm tai hại: cộng đồng người Việt tại Mỹ đã biểu tình mạnh mẽ phản đối Nguyễn Minh Triết khi ông này sang Mỹ cuối tháng 6 vừa qua nhưng lại có vẻ chưa chuẩn bị gì để biểu tình phản đối Nguyễn Tấn Dũng dù ông này cũng sắp tới Mỹ. Phải nói rõ: giữa hai ông Triết và Dũng người đáng và cần biểu tình phản đối mạnh mẽ là Nguyễn Tấn Dũng chứ không phải Nguyễn Minh Triết.

Chính Nguyễn Tấn Dũng mới là người nhiều quyền lực nhất hiện nay, vượt xa cả Nông Đức Mạnh lẫn Nguyễn Minh Triết.

Chính Nguyễn Tấn Dũng chứ không phải Nguyễn Minh Triết là người quyết định đợt đàn áp thô bạo những người dân chủ bắt đầu từ Tết Đinh Hợi, tác giả của những vụ xử án lỗ mãng trong đó can phạm không có luật sư, không được tự bào chữa và còn bị bịt miệng.

Chính Nguyễn Tấn Dũng là người cầm đầu khuynh hướng Đỗ Mười – Lê Đức Anh dựa vào Trung Quốc, nhắm mắt để Trung Quốc lấn chiếm đất và biển với ý đồ duy nhất là kéo dài chế độ độc tài đảng trị.

Nguyễn Tấn Dũng là một con người vô học, thủ cựu, gian ác, nguy hiểm.

Đã hơn một năm từ ngày ông Nguyễn Tấn Dũng trở thành thủ tướng, đồng thời cũng là nhân vật quyền lực nhất trong Đảng Cộng SảnViệt Nam, nhờ được sự đỡ đầu của hai ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh, mà dư luận gọi là "đảng MA" bằng cách ghép tên hai ông này nhưng đồng thời cũng để nói lên hai bản chất của sự liên kết giữa hai nhân vật này: cầm quyền trong bóng tối và hành động bất chính. Bộ máy tuyên truyền của đảng cộng sản tô vẽ Nguyễn Tấn Dũng như một người trẻ, có kiến thức hiện đại, tiến bộ, cởi mở, bộc trực, dám nói, dám làm. Chiến dịch tuyên truyền này phần nào đã thành công. Có khá nhiều người đã có cảm tình với Nguyễn Tấn Dũng và cảm tình này vẫn còn dai dẳng dù ông Dũng không thực hiện được một lời hứa nào và còn làm ngược lại những gì người ta có thể chờ đợi: dung dưỡng và bao che tham nhũng, đàn áp những người dân chủ một cách thô bạo, sang chầu trực thường xuyên quan thày Bắc Kinh, im lặng hèn nhát khi hải quân Trung Quốc bắn chết ngư dân Việt Nam tại Trường Sa, làm ngơ khi các công ty Trung Quốc ở Quảng Tây lập chi nhánh trên lãnh thổ Việt Nam một cách tự nhiên mà không cần xin phép.

Nguyễn Tấn Dũng là ai?

Theo tiểu sử chính thức của ông thì ông là con của tướng Nguyễn Tấn Minh nhưng cả nước biết ông mồ côi cha rất sớm và trở thành con nuôi của ông Lê Đức Anh. Ông sinh ngày 17/11/1949 tại thị xã Cà Mau và đúng ngày sinh nhật thứ 12, tức ngày 17/11/1961, gia nhập quân đội cộng sản, làm giao liên, cứu thương, y tá, rồi bộ binh và công an. Chi tiết này đáng chú ý: theo công pháp quốc tế việc tuyển dụng thiếu nhi vào quân đội là một tội ác, cuộc đời Nguyễn Tấn Dũng đã bắt đầu một cách bệnh hoạn, rất trái ngược với giáo dục mà một người lãnh đạo quốc gia hiện đại phải có.

Tiểu sử chính thức của ông đã rất mơ hồ trong giai đoạn 1961 – 1981. Chỉ thấy nói ông được thăng lên cấp bậc thiếu tá bộ binh vào tháng 9/1981, lúc 32 tuổi. Không thấy nói vào ngày 30/4/1975 ông có cấp bậc nào và giữ chức vụ gì. Các nguồn tin đáng tin cậy cho biết lúc đó ông chỉ là một hạ sĩ quan công an. Sự nghiệp của ông chỉ bắt đầu thăng tiến tốc hành khi cha nuôi của ông, tức ông Lê Đức Anh, lọt mắt xanh của Lê Đức Thọ và được thăng chức vùn vụt từ đại tá năm 1974 lên đại tướng năm 1979.

Tiểu sử chính thức của Nguyễn Tấn Dũng càng mơ hồ, và phải nói thẳng là dối trá, trong giai đoạn 1981 – 1994. Chỉ thấy nói ông được đi học trường đảng Nguyễn Ái Quốc, nhưng lúc nào và trong bao lâu? Lại thấy ghi là ông đậu cử nhân luật, nhưng học ở đâu và bao giờ? Sự thực là Nguyễn Tấn Dũng chỉ được gửi đi học trường đảng Nguyễn Ái Quốc cho có lệ, như một thủ tục bắt buộc của các cán bộ trẻ muốn được vào trung ương đảng chứ Nguyễn Tấn Dũng chẳng học hành gì cả. Thực tế ông là một mẫu người cán bộ không có học vấn như những lãnh tụ cộng sản trước ông. Về điểm này Nguyễn Tấn Dũng rất khác với Nguyễn Minh Triết, một người có học vấn thực sự.

Trong giai đoạn 1981 – 1993 này Nguyễn Tấn Dũng lên chức ào ạt nhờ Lê Đức Anh đã trở thành cánh tay mặt của Lê Đức Thọ. Ông lên tới cấp bậc trung tướng và trở thành thứ trưởng thứ nhất bộ công an. Điều dối trá của tiểu sử chính thức là nó đã mô tả Nguyễn Tấn Dũng như một cán bộ làm công tác đảng và công tác hành chính. Thực sự thì trong giai đoạn 1981 – 1987 Nguyễn Tấn Dũng là trưởng công an huyện Hà Tiên và được giao một công tác cực kỳ quan trọng: làm kinh tài cho đảng bằng cách tổ chức buôn lậu tại của biển Hà Tiên. Những ai từng ở Rạch Giá trong giai đoạn này đều đã thấy mỗi đêm cửa biển Hà Tiên rực sáng vì hàng ngàn thuyền buôn lậu Thái Lan đến đậu ngoài khơi với đủ thứ hàng chờ các thuyền con từ đất liền ra "ăn hàng". Trong thời gian này Nguyễn Tấn Dũng cũng đã lập một thành tích lớn và được phong "anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân" nhờ gài bẫy bắt được Trần Văn Bá, cũng về cửa biển Hà Tiên buôn lậu lấy tài chính cho tổ chức kháng chiến Lê Quốc Túy.

Cần lưu ý là trước đó, trong các năm 1976 – 1977 Nguyễn Tấn Dũng, dưới lệnh của Võ Văn Kiệt và Võ Viết Thanh cùng đã tham gia vào một tội ác đẫm máu khác: thành lập tổ chức kháng chiến giả mang tên là «Đảng Việt Nam Phuc Quốc» để gài bẫy bắt những thanh niên miền Nam chống chế độ cộng sản. Hàng ngàn thanh niên đã sa lưới, và dù họ chỉ là những thanh niên ngây thơ bị mắc lừa nhiều người đã bị xử bắn.

Cũng cần lưu ý là tham nhũng đã lên rất cao trong giai đọan 2001 – 2006, nhiệm kỳ 9 của Ban Cháp hành trung ương ĐCSVN. Trong giai đoạn này Nguyễn Tấn Dũng là ủy viên bộ chính trị và phó thủ tướng trực, quyền hành vượt hẳn ông thủ tướng mờ nhạt Phan Văn Khải. Chính Nguyễn Tấn Dũng phải chịu trách nhiệm lớn nhất về quốc nạn tham nhũng, nhưng hiện nay ông ta lại trâng tráo tự xưng là một người quyết tâm chống tham nhũng.

Tóm lại sự nghiệp của Nguyễn Tấn Dũng là sự nghiệp của một con ông cháu cha trong đảng, không trải qua gian nguy, không đạo đức và cũng chẳng có kiến thức và khả năng nào, nhưng đã được áp đặt vào địa vị lãnh đạo tối cao không khác gì một thái tử dưới các chế đô quân chủ. Sự nghiệp của ông là một bất công lớn đối với chính các đảng viên cộng sản khác, một chuỗi dài những gian dối và tội ác, và chính bàn tay ông ta cũng đẫm máu. Trong kế hoạch chuẩn bị đưa ông lên cầm quyền đảng MA đã nhiều khi có những biện pháp thách đố như đưa ông lên làm thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước dù ông hoàn toàn không biết gì về kinh tế tài chính. Nguyễn Tấn Dũng còn tệ hơn nhiều so với Đỗ Mười và Lê Đức Anh vì ít ra những vị này còn có đởm lược, còn vào sinh ra tử. Những người có bản lãnh còn hy vọng có thể dám sửa sai khi nhận ra sự lầm lẫn: những sản phẩm của những đặc ân và gian trá như Nguyễn Tấn Dũng chỉ có thể cố thủ trong sự gian trá.

Trong hơn một năm qua Nguyễn Tấn Dũng đã làm gì? Ông chưa giải quyết được một hồ sơ tham nhũng lớn nào cả như ông đã hứa lúc lên cầm quyền, trong vụ PMU 18 ông đã không giải quyết mà còn che đậy một cách trắng trợn. Không nên chờ đợi Nguyễn Tấn Dũng dẹp được tham nhũng bởi vì chính ông là một trùm tham nhũng và buôn lậu.

Ông Dũng đã phát động đợt đàn áp qui mô nhất từ nhiều năm nay và những phiên tòa dưới chính quyền của ông đã phá mọi kỷ lục thô bạo. Bộ máy tuyên truyền của đảng đánh bóng ông như một người dám nói, dám làm nhưng ông đã dám làm gì? Việc dám làm nổi bật nhất gần đây của ông là đưa lên chức chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao một trung tướng công an, ông Trương Hòa Bình. Nhân vật Trương Hòa Bình này không khác Nguyễn Tấn Dũng bao nhiêu: cách đây một năm mới chỉ là đại tá bị nhiều sĩ quan công an tố giác về cả khả năng lẫn đạo đức, nhưng vẫn được thăng chức vùn vụt, biết đâu chẳng sẽ là giải pháp của đảng MA cho giai đoạn «hậu» Nguyễn Tấn Dũng?

Không nên chờ đợi gì ở Nguyễn Tấn Dũng cả. Với thế lực hiện nay nếu muốn làm gì ông đã có thể làm rồi. Càng không nên chờ đợi ở Nguyễn Tấn Dũng những bước tiến đột phá trong chiều hướng dân chủ hóa hay thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc. Ông Dũng dứt khoát không phải là người của những thay đổi này, trái lại ông là một trở ngại, và một trở ngại lớn. Người ta không thể hy vọng gì ở ông. Điều mà người ta có thể hy vọng là sau khi hai ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh không còn nữa, Nguyễn Tấn Dũng sẽ bị thay thế bởi một người có khả năng và sáng suốt hơn ông, điều này rất có thể xảy ra vì sự nghiệp của Nguyễn Tấn Dũng chỉ thuần túy do hai ông này áp đặt. Đó sẽ là một may mắn thực sự cho đất nước.

Trở lại công việc trước mắt, có thể thấy là cộng đồng người Việt tại Mỹ nên và cần chuẩn bị để biểu lộ sự phẫn nộ phải có đối với một con người độc ác, với bàn tay đẫm máu, tác giả của những đàn áp thô bạo đối với anh em dân chủ trong nước, đồng thời cũng lả trở ngại chính của tiến trình dân chủ hóa đất nước.

Nguyễn Trung Chính