Thứ Hai, 9 tháng 7, 2007

Nguyễn Tấn Dũng Sẽ Đến Saigon Giải Quyết Biểu Tình Trực Tiếp...

32 năm trôi qua, chưa bao giờ Hà Nội lúng túng như việc cả ngàn đồng bào kéo về văn phòng 2 Quốc Hội ở Saigon.

Nguyễn Tấn Dũng hứa sẽ đến tận nơi giải quyết trực tiếp.

Đồng bào bị hà hiếp áp bức từ các nơi ngày dồn về Saigon một nhiều. Dân oan ở Hà Nội cũng rục rịch kéo nhau về hết ở Saigon.

Một bó đủa sẽ khó bị bẻ gảy... Biến cố Saigon đang lôi kéo giới truyền thông thế giới loan tải tin tức liên tục.

Việt Nam đã bước vào mùa mưa. Đồng bào bị giá buốt, đói khát vì cuộc biểu tình kéo dài sang đến ngày thứ 17. Chúng ta không thể nó tàn lụi. Cần giúp mọi người Việt Nam đang bị hà hiếp, bị đàn áp kéo nhau về Saigon cho Nguyễn Tấn Dũng giải quyết một lần...

Trả lời câu hỏi về lời kêu gọi yễm trợ Dân Chủ Nhân Quyền Quốc Nội, cựu tướng Lý Tòng Bá cho biết anh em của ông đang ráo riết hoạt động ngay trong nước, giải quyết cấp tốc những điều, đáng và phải làm khẩn cấp.

Ngay trong giây phút này, xin những tấm lòng còn trung trinh với quốc gia dân tộc cùng nhau Thổi Bùng lên Ngọn Lữa Đang Cháy. Xin cùng nhau yễm trợ trận chiến đang xãy ra ngay trên quê hương...

Các bạn sinh viên , học sinh thân mến !

Các bạn là mầm non cũa đất nước, rường cột cũa Quốc gia . Các bạn là những người lảnh đạo trong tương lai. Hiện nay chúng ta đang sống trong lòng Tổ Quốc mà bọn lảnh đạo đất nước là những cán bộ đảng CS vô cùng tàn ác, độc tài và tham nhũng . Họ đang áp dụng một chính sách vô cùng độc ác với đồng bào cũa chúng ta, họ cướp nhà, cướp đất cũa những người dân thấp cổ bé miệng, họ cố tình đày đoạ những người dân oan, nạn nhân do những cán bộ CS cường hào ác bá, độc tài, tham nhũng, họ đang trấn áp, khủng bố và bắt giam một số bà con dân oan và những người đang đòi hỏi công lý, dân chủ nhân quyền cho nhân dân.

Giờ phút nầy, Các bạn hảy tiếp tay với đồng bào dân oan đang biểu tình tại văn phòng Quốc hội 2 tai thành phố Saigon cũng như tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng Hà Nội. Các bạn hảy lập thành từng nhóm quyên góp để mua thực phẩm, nước uống, thuốc men để cứu giúp đồng bào biểu tình đang thiếu thốn. Các bạn hẩy thể hiện tấm lòng yêu nước, yêu đồng bào cùng khổ trong lúc nầy, các bạn hảy đòi hỏi quyền làm người cũa các bạn trong một đất nước đang bị thống trị bởi đảng CS độc tài, tham nhũng và cướp đoạt tài sản, và các quyền căn bản cũa người dân.

Mong các bạn tiếp tay với đồng bào dân oan trong lúc nầy.

Lê Phong

Hầm trú ẩn của bọn Bolsheviks ở Bolsa



Tranh: Babui

Làm sao không bật khóc trước thảm cảnh của đồng bào khiếu kiện tại Sài Gòn





Hôm nay đầu tuần ngày 09/07/2007 đồng bào khiếu kiện tiếp tục đổ về thành phố đến Văn phòng Quốc Hội 2 ở số 194 Hoàng văn Thụ, quận Phú Nhuận, Sài Gòn. Hôm nay chúng tôi ghi nhận an ninh chìm nổi lùng sục khắp nơi nhưng đồng bào vẫn căng biểu ngữ nhiều hơn mọi khi, dọc hai bên cổng chính vào trụ sở (xem hình) để biểu lộ sự phẩn uất của mình, đồng thời đồng bào còn giăng biểu ngữ dọc theo con đường bên hông ngay dưới trời mưa. Cơn mưa gây thêm khổ não cho đồng bào.

Hôm qua Chúa Nhật, một số đồng bào vẫn quyết tâm "bám trụ" nên căng bạt ngồi suốt đêm ngày dọc theo bờ tường, dưới các cây xanh ven đường, giữ vững những biểu ngữ đã căng mấy ngày qua. Bên trong, những nông dân khốn khổ từ tỉnh xa không có thân nhân tại thành phố SG, họ đã ăn ngủ vật vờ tại chổ, giặt đồ trong mưa và phơi trên bờ rào. Nhà vệ sinh sang trọng của tòa nhà vẫn bị chỉ đạo khóa chặt không cho đồng bào xử dụng gây trở ngại lớn cho bà con dân oan, thật không thể biện hộ cho sự vô nhân đạo của bọn bạo quyền.

Ngoài bờ rào, phía trụ sở bên lề đường Hồ Văn Huê một cô gái nông thôn lên thành phố khiếu kiện, cô mặc hai caí áo dài tay, đội nón và dưới nón là một cái mũ kéo che mặt tay ôm một bao ny lon trắng đựng khăn, quần áo, đồ đạc cá nhân và một chai nước ngồi nhìn mọi người qua đường. Lại gần, thấy cô độ tuổi đôi mươi với khuôn mặt lo buồn, thể hiện rõ một người nghèo khổ vùng sâu, với đôi dép nhựa cũ dưới chân mà lòng chúng tôi như quặn lại, nước mắt chúng tôi không thể nào ngăn được.

Tới gốc cây phía trên, những bà mẹ, những nông dân ngồi ủ rũ xúm nhau giữ băng rôn, có người cầm khúc bánh mì lót dạ. Quan sát toàn cảnh, thấy họ rất ốm, thể hiện sự suy kém dinh dưỡng hàng ngày, màu da rạm vàng, lưng còm xuống làm chúng tôi phải bật khóc! Trở về nhà tôi cầu trời phù hộ cho những đồng bào chúng ta sớm đòi lại ruộng đất là nguồn sống chân chánh duy nhất mà cha ông của họ truyền lại bao đời nay.

Kỹ Sư Ngọc Anh
Sài Gòn

(Xin mời xem đoạn Video để thấy nhiều biểu ngữ và "băng rôn" của các tỉnh trải dài theo đường lộ)


Đồng bào Tiền Giang vẫn còn tiếp tục biểu tình trước Quốc Hội 2 sang ngày thứ 18

* Chị Cao Quế Hoa vẫn tiếp tục bị đe dọa an ninh cá nhân trong thời gian cuối tuần.

* CA tăng cường kiểm tra trong ngoài trụ sở Văn Phòng Quốc Hội 2 và các bến xe miền Tây để ngăn chặn đồng bào lên hưởng ứng biểu tình khiếu kiện ở Sài Gòn.

* Hơn 100 đồng bào khiếu kiện biểu tình tại Cần Thơ mặc dù một số bị CA bắt và trù dập.

* CA ở các địa phương tiếp tục lên Sài Gòn để "lùa" dân của địa phương mình về không cho lên Sài Gòn để khiếu kiện.

* Với những áp lực ngăn cản của CA và an ninh địa phương nhưng số đồng bào khắp các tỉnh miền Tây vẫn tiếp tục lên Sài Gòn nâng số đồng bào tham dự cao nhất trong ngày là trên 1500 (Xin nghe phát biểu của chị Hoa lúc 8g30 tối ngày 09/07/2007)


Lúc 8 giờ 30 tối ngày 09/07/2007, chúng tôi đã trao đổi với chị Hoa và được biết mới có 3 người thuộc Ủy ban Nhân dân Tỉnh và Thanh tra Chính phủ ở tỉnh Tiền Giang đến "mời miệng" đồng bào về lại Tiền Giang để chính quyền và Thanh tra Chính phủ sẽ cứu xét khiếu kiện của họ nhưng đồng bào không đáp ứng vì nghĩ "bổn cũ lừa dân" đang được dàn dựng lại.

Chị cũng cho biết hiện tại đang có trên 800 người đang ngủ lăn lóc tại đây và cao điểm nhất lúc 4 giờ chiều nay, số người lên trên 1500 người. Hôm nay họ cũng chiêu dụ đồng bào qua bên Phòng Tiếp Dân đường Võ Thị Sáu nhưng chỉ có một ít người qua bên đó.

Nghe trao đổi với chị Hoa

Suốt thời gian cuối tuần qua, CA tăng cường kiểm soát trong ngoài VP/QH2 và tỏ vẻ như muốn trấn áp đồng bào rời khỏi đây cũng như hăm doạ bắt chị Hoa nên đồng bào luôn đề cao cảnh giác và tỏ thái độ sẵn sàng "đối đầu" với sự đàn áp của CA, có lẽ nhờ đó mà CA chưa thực hiện được ác ý của họ. Vì thời tiết mưa bão và VP/QH2 nghỉ cuối tuần nên đồng bào biểu tình đã tranh thủ về quê nhà thay áo quần và tắm giặt nên chỉ còn vài trăm ở lại "trấn ải".

Nghe tình hình cuối tuần

Từ bữa thứ năm 05/07/2007 đến hôm nay, các phòng vệ sinh đã bị đóng cửa không cho đồng bào sử dụng làm cho đồng bào rất bất mãn và yêu cầu ban quản trị Văn phòng Quốc Hội 2 phải can thiệp để mở cửa các phòng vệ sinh cho đồng bào đang biểu tình sử dụng

Nghe đồng bào bức xúc

Được biết trong ngày 8/07/2007, đã có gần 100 đồng bào đã biểu tình tại Cần Thơ để đòi lại ruộng đất, tài sản đã bị quan chức địa phương cướp đoạt nhưng bị CA đàn áp dã man và bắt nhốt một số người.

Nghe VSR phỏng vấn chú Tư Cần Thơ


Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi và thông báo diễn tiến.

Người đưa tin từ Sài Gòn
Lúc 10:00 đêm tại Sài Gòn ngày 09/07/2007

'Vô Ra Thằng Cha khi Nãy'

"Vô ra thằng cha khi nãy" là một thành ngữ người Việt thường nói để mô tả một sự kiện, một nhân vật cứ xuất hiện nhiều lần, dưới những hình thức khác nhau, khiến người ta tưởng lầm rằng đó là nhiều người, nhưng thực chất chỉ là một người, một "thằng cha ấy" mà thôi.

Ví dụ như trên sân khấu, nay thì khán giả thấy nhân vật nầy xuất hiện, chốc nữa lại thấy nhân vật khác nhưng thực chất cũng chỉ là một diễn viên mà thôi; khi anh ta đóng ông quan, khi đóng vai anh lính, còn thực chất cũng chỉ "một anh chàng", chỉ là "thằng cha khi nãy".

Cũng có thể đó là lời chê của khán giả khi họ bình phẩm một vở tuồng, một diễn viên khi vào khi ra sân khấu, cũng chỉ là "thằng cha" ấy mà thôi.

Đó là chuyện sân khấu cải lương hay kịch. Còn một thứ sân khấu khác nữa, cũng không kém nhàm chán. Đó là sân khấu chính trị. Trên sân khấu chính trị cũng có nhiều vở tuồng, nhiều nhân vật, coi cũng rất hấp dẫn. Tuy nhiên, trên những sân khấu chính trị của những chế độ độc tài, xem ra cũng có nhiều tuồng tích hấp dẫn, cũng có hiến pháp, cũng có phân quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, cũng có họp hành phê bình, cãi cọ, thậm chí đánh lộn nhau u đầu chảy máu, cũng có hoan hô và biểu quyết, nhưng tựu chung, cũng chỉ có một thằng: Đạo Diễn. Cho nên dù có nhiều tấn tuồng coi vui lắm, tưởng như dân chủ lắm, tự do lắm nhưng thực chất cũng chỉ là "Vô ra thằng cha khi nãy".

Trước đây nước ta có hai sân khấu chính trị. Một sân khấu ở trong Nam và một ở ngoài Bắc. Sân khấu nào coi cũng vui và cũng "hấp dẫn" đối với những người dân nhẹ dạ, dễ tin, ngu ngơ về những thủ đoạn chính trị.

Sân khấu trong Nam thì đã dẹp tiệm từ 30 tháng Tư rồi, đã "Nằm xuống trong lòng đất lạnh". Vì bài nầy nói chuyện phiếm nên tôi chẳng nhắc lại làm chi. Nói như Nhất Linh thì "Đời tôi để lịch sử xử". Lịch sử cũng sẽ xử cái sân khấu chính trị miền Nam đó. Bây giờ xin nói đôi điều "Thằng cha khi nãy" của sân khấu chính trị miền Bắc.

Sau khi nắm chính quyền nhờ cái gọi là "Cách Mạng Tháng Tám", Hồ Chí Minh xây dựng chế độ dân chủ cho nước Việt Nam hồi ấy. Bề gì thì cũng đã hô hào "Độc Lập - Tự Do". Nói là tự do mà một nước dân chủ không cho bầu quốc hội thì cũng kỳ cục nên mới có cuộc bầu cử quốc hội ngày 6 tháng 1 năm 1946. Bầu xong rồi mà đắc cử thì chỉ có cán bộ Cộng Sản với những người "ủng hộ Việt Minh". Nên nhớ cho rằng Việt Minh là một phong trào của Cộng Sản Việt Nam hay nói trắng ra là cái áo ngoài của họ. Trong quốc hội không có ai là người đối lập. Các đảng phái khác không tham gia hoặc tham gia nhưng không thể đắc cử được vì "Bầu cử không ngay thẳng" như lời cha tôi nói hồi ấy. Vì là đầu mùa dân chủ, vì là "người xưa", ăn nói còn dè dặt nên cha tôi không dùng những tiếng như người ta nói sau nầy như "bầu cử gian lận", "ăn gian phiếu", "tráo trở đổi thùng phiếu, đổi kết quả", v.v.

Do áp lực của "Quân Tàu Tưởng", tức là áp lực của mấy ông tướng Tàu phù thuộc phe Tưởng Giới Thạch, Hồ Chí Minh bèn nhường cho các "Đảng phái Quốc Gia" (Cộng Sản gọi là "Đảng phái phản động") 70 ghế trong quốc hội. Trò nầy chỉ là "hoãn binh chi kế" của Hồ già. Sau đó thì 70 ông đại biểu quốc hội trong cái trò nhường ghế đó, ai nhanh chân thì toàn mạng, ai chậm chân thì bị cho mò tôm dưới đáy sông. Mò tôm là một cách giết người bí mật và không còn dấu tích. Không cần bắn giết hay đâm chém gì cả, cứ cột một hòn đá cho thật nặng vào cổ nạn nhân rồi thả xuống giữa dòng sông. Hòn đá sẽ "keo sơn" giữ chặt nạn nhân cho đến khi xương thịt nạn nhân rã ra từng miếng nhỏ. "Ai biết mô mà tìm". Nhà văn Khái Hưng cũng bị Cộng Sản Việt Nam cho đi mò tôm theo cách như vậy đấy.

Năm 1955, sau khi Tây cuốn gói khỏi miền Bắc, quốc hội của chế độ Cộng Sản Việt Nam lại họp, lại bầu đi bầu lại mấy lần, bao giờ trong quốc hội của chế độ Cộng Sản Việt Nam cũng có đại biểu ba đảng "đàng hoàng". Một là đại biểu đảng Cộng Sản, hai là đại biểu đảng Xã Hội, ba là đại biểu đảng Dân Chủ. Nói tới đại biểu tức là nói tới đảng. Vậy thì miền Bắc hồi ấy có ba đảng: Đảng Cộng Sản, đúng đầu là "Bác Hồ muôn vàn kính yêu" của Nông Thị Xuân, hai là ông Nghiêm Xuân Yên đảng trưởng (hay chủ tịch gì đó cũng được) của đảng Dân Chủ, ba là ông Nguyễn Xiển của đảng Xã Hội. Hễ một khi đại biểu đảng Cộng Sản Hà Nội đưa ra một cái gì đó, chẳng hạn là một nghị quyết, một tuyên cáo (lên án đế quốc Mỹ thả bom miền Bắc chẳng hạn), một đạo luật để "giữ gìn kỹ cương phép nước" đại biểu hai đảng kia "triệt để ủng hộ" hay "nhất trí hoan hô". Ông Nguyễn Xiển là một người hay nhìn trời nhìn đất và nhìn trăng sao vì ông nguyên là cán sự khí tượng; còn ông Nghiêm Xuân Yêm tuy là "dòng dõi", tuy là "sinh viên" nhưng theo nhận xét của nhiều người ông có cái tật hay ngủ, nhất là khi vào ngồi trong nghị trường. Nhờ bệnh hay ngủ mà ông được một đời an nhàn sung sướng.

Đến khi "giải phóng miền Nam" xong rồi, ông Nguyễn Xiển cho đăng trên nhật báo Nhân Dân nhiều bài viết, ca ngợi "Thiên tài của Đảng Ta". Sao lại "đảng ta" nhỉ? Ông ta là thủ lĩnh đảng Xã Hội, tại sao gọi đảng Cộng Sản là "đảng ta". Có gì khó hiểu đâu mà thắc mắc. "Vô Ra Thằng Cha Khi Nãy" cả đấy. Dù là đảng Xã Hội của ông thầy bói thời tiết Nguyễn Xiển hay là đảng Dân Chủ của ông sinh viên hay ngủ gật Nghiêm Xuân Yêm, cũng chỉ do một mẹ sinh ra, người mẹ đó là đảng Cộng Sản Việt Nam. Bà Âu Cơ còn đẻ ra được một trăm cái trứng thì đảng Cộng Sản Việt Nam có đẻ ra đảng Xã Hội, đảng Dân Chủ, rồi đặt hai cái nôi trong tòa nhà quốc hội mà ru con thì cũng chỉ là "Vô Ra Thằng Cha Khi Nãy".

Sau đại hội Cộng Sản Việt Nam lần thứ tư (tháng 12/1976), Cộng Sản Việt Nam thấy cần phải đổi tuồng mới trên sân khấu chính trị, đảng Lao Động lột áo trở ra sân khấu trong vai chính đảng Cộng Sản Việt Nam, và hai tài tử phụ Dân Chủ và Xã Hội được nghỉ hưu non, cho về vườn. Bấy giờ thì không còn "Vô Ra Thằng Cha Khi Nãy" nữa mà độc chỉ có "Một mình Thằng Chả" mà thôi.

Lê Duẩn là người tự cao, tự đại. Duẩn làm cái việc mà Hồ Chí Minh không làm được: "Thống nhất đất nước", rửa mặt cho Hồ Chí Minh cái tội cắt đôi đất nước Việt Nam ở vĩ tuyến 17, và "Mở ra một thời kỳ phồn vinh nhất trong lịch sử đất nước". Qua hai cái đó, y thấy y công lớn hơn hết những nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, mắng luôn Hồ Chí Minh "Bác biết gì!" Trên đời nầy, tự cổ chí kim, không ai bằng "Tổng bí thư sơ học yếu lược" nên y bèn cho hai anh tép riu Nguyễn Xiển và Nghiêm Xuân Yêm về vườn để nghiên cứu về "đảng ta" của chính ta và tiếp tục ngủ giấc ngàn thu, xuống âm phủ nhìn trăng sao mây gió để đoán thời tiết cho Diêm Vương.

Một thời mấy ông "Mặt Trận Giải Phòng Miền Nam" thấy mình to lắm. Nhiều ông thì được chức chủ tịch. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ thì được chức chủ tịch mặt trận lớn (Cả miền Nam), luật sư Trịnh Đình Thảo thì được chức chủ tịch nhỏ (Mặt trận Dân tộc dân chủ hòa bình gì gì đó), Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát thì được chức thủ tướng, tướng Trần Văn Trà thì được chức tư lệnh, và "tướng" Nguyễn Thị Định thì được chức Phó tư lệnh, nhưng sau 30 tháng Tư, "Thống nhất đất nước" thì được "Ngồi chơi xơi nước". Nguyễn Hữu Thọ tuy là Phó chủ tịch Quốc Hội nhưng khi nhân được đơn khiếu nại của chồng Nguyễn Thị Vàng thì vội vàng "ém" đơn. Nếu lương tâm một ông luật sư như Nguyễn Hữu Thọ, một ông miền Nam thẳng tính "Dẫu thấy bất bằng mà tha", "lương tâm cắn rứt" thì tới nha sĩ bẻ mẹ nó cái răng của lương tâm đi để nó lkhỏi "cắn rứt". Ông Phó thủ tướng Huỳnh Tấn Phát thì vê quê cũ ở Gò Công đắp mền nằm ngủ, "tướng không quân" Trần Văn Trà về Hà Nội làm thứ trưởng "Không bộ" Quốc Phòng.

Trên sân khấu, "nhờ đã thống nhất đất nước" nên bây giờ rộng hơn, thoáng hơn, nhưng nhìn đi nhìn lại cũng chỉ "Vô Ra Thằng Cha Khi Nãy" hay nói cách khác là chỉ có Cộng Sản "Một mình một chợ" mà thôi.

Sở dĩ Cộng Sản sắm những tấn tuồng "Vô Ra Thằng Cha Khi Nãy" hay "Một mình Một Chợ" là vì họ là đảng của giai cấp công nhân", "phục vụ đất nước", vì "chống lại tư sản, địa chủ bóc lột", v.v.

Nếu bọn tư bản là người ngoài đảng, nếu bọn địa chủ là người ngoài đảng, chúng sẽ bóc lột tàn tệ và trắng trọn công nhân, nông dân, chúng sẽ đàn áp nhân dân lao động.

Vậy để tránh cho nhân dân lao động khỏi bị bóc lột và đàn áp, đảng Cộng Sản Việt Nam cho đảng viên nám giữ lấy vai trò của bọn chủ tư bản, vai trò bọn địa chủ bóc lột. Nói như thế có nghĩa là đảng viên, nếu ai có tiền bạc, có vốn liếng từ nay có thể đứng ra làm "nhiệm vụ kinh tế", có thể lập nhà máy, hãng xưởng, mua cổ phiếu để làm ông chủ, mua đất đai để làm địa chủ.

Khi đảng viên làm ông chủ tư bản, khi đảng viên làm địa chủ, thì "vì lý tưởng Cộng Sản", "vì lợi ích của nhân dân lao động", "vì tổ quốc xã hội chủ nghĩa", người dân việt Nam sẽ được "đảng ta" "phục vụ" kỹ hơn nữa, nhiều hơn nữa, "tích cực" hơn nữa, "triệt để" hơn nữa, chắc chắn chẳng mấy chốc nước ta sẽ thành đạt một "thời kỳ vẻ vang nhất trong lịch sử dân tộc" như "Đồng Chí Tổng Bí Thư Lê Duẫn kính mến" đã hứa cuội (hứa hẹn).

Từ là "Đảng của giai cấp công nhân" nay trở thành "Chủ của giai cấp công nhân", như thế cũng chỉ là "Vô Ra Thằng Cha Khi Nãy".

Từ là "người đầy tớ trung thành của nhân dân" nay bỗng trở thành ông chủ tư bản là "người bóc lột nhân dân". Thế cũng chỉ là "Vô Ra Thằng Cha Khi Nãy".

Bọn phản động và "Những thế lực thù địch" thấy rõ nguy cơ của chúng đang bị mất phần ăn ở trong nước. Chúng sẽ "ra sức chống lại đường lối chính sách của đảng ta". Chúng nói rằng "đảng ta" cho đảng viên làm nhiệm vụ kinh tế là để "rửa tiền" là một sự "vu cáo trắng trợn", chúng nói rằng khi đảng viên làm nhiệm vụ kinh tế, tự biến thành những ông chủ, địa chủ bỏ rơi chủ nghĩa Mác là một sự xuyên tạc và ngụy biện nhằm lật đổ vai trò lãnh đạo của đảng.

Chắc chắn "bác" Hồ ở dưới âm phủ sẽ rất vui mừng khi thấy đảng viên giàu có. May ra khi giàu có, chúng sẽ mua vàng mả cùng cho "bác" một cái mền vì hiện "bác" đang bị Diêm Vương trị tội, đêm đêm lạnh lẽo vô cùng.

"Bác" Hồ ơi! "Bác" có khôn thiêng thì hãy về đây mà xem con cháu của "bác" đang "vận dụng chủ nghĩa Mác một cách trí tuệ" để lột cho tới cái quần lót của nhân dân lao động Việt Nam.

Tuệ Chương hoànglonghải

Từ Biểu Tình đến Cách Mạng

Vũ Nhân Phong
Tâm Thức Việt Nam

Trong những năm gần đây đã có những luận điệu cho rằng công cuộc đấu tranh của người Việt hải ngoại đang bế tắc, tinh thần chống cộng đang suy yếu và chỉ trong vài thế hệ kế tiếp sẽ bị dập tắt hoàn toàn. Trên tiền đề này, một số nhà chính trị thời cơ đã quyết định chuyển hướng, sẵn sàng “bỏ 3 triệu người hải ngoại để lấy 80 triệu người quốc nội” và nhắm đến việc “xoá làn ranh Quốc-Cộng” với hy vọng rằng sẽ có chỗ ngồi trong Quốc Hội bù nhìn của Cộng Sản.

Cuối cùng thì ước vọng vào Quốc Hội đã trở thành thất vọng, sau những xoay trở chính trị nhắm vào cuộc bầu cử quốc hội 2007, mà kết quả là như cũ. Nhưng những tư tưởng thời cơ vẫn còn dó, sau những thất bại của kế hoạch làm mờ đi tính chất tị nạn CS của người Việt hải ngoại, các lời kêu gọi giới trẻ hải ngoại giải quyết các tệ nạn xã hội tại Việt Nam hay những lý luận để đồng hoá cộng cuộc đấu tranh với nỗ lực xây dựng một xã hội công dân. Tất cả để đưa hải ngoại vào vị thế dưới cơ, phải “xin phép” tức là mặc nhiên công nhận vai trò lãnh đạo đất nước và quyền “cho phép” của đảng Cộng Sản. Bên cạnh đó cũng có hiện tượng vô số các tổ chức, đảng phái, tập hợp, liên minh, phong trào, khối, v.v… cả trong lẫn ngoài nước ra đời trên hệ thống internet như trăm hoa đua nở. Đến mức ngưòi theo dõi tin tức cũng không nhớ hết tên chứ không nói tới sự phân biệt những khác biệt trong đường lối và chủ trương của từng nhóm. Trong khi đó thì thay vì giúp đồng bào hiểu rõ từng nhóm để có sự chọn lựa, thì có người được xem là nhà đấu tranh lại xúi đồng bào ủng hộ đại cả đám, vì “ủng hộ lầm có mất gì đâu?”

Những sự kiện đã diễn ra quanh chuyến viếng thăm Mỹ của Nguyễn Minh Triết mới đây, cho thấy tinh thần chống cộng của hải ngoại chẳng có dấu gì có thể gọi là suy yếu. Từ New York sang Washington đến Nam Cali, ông Triết tới đâu thì bị hàng ngàn người Việt đuổi theo biểu tình. Đặc biệt, trong những cuộc biểu tình này đã có sự tham gia tích cực và ngay cả sự chủ động của những người trẻ, cho thấy những người tị nạn và nạn nhân cộng sản sẽ có một thế hệ kế thừa tiếp nối công cuộc đấu tranh cho một Việt Nam tự do dân chủ. Hơn nữa, điều này cũng chứng minh rằng những vị yếu bóng viá tin rằng tinh thần đấu tranh tại hải ngoại sẽ tan dần đã đánh giá sai và thiếu bản lãnh hướng dẫn công cuộc đấu tranh chung này.

Cũng vì thiếu bản lãnh, những người này đã đặt câu hỏi, “Biểu tình thì được gì? Biểu tình sẽ giứp ích gì cho người dân ở Việt ?” Vì chỉ nhìn mỗi cuộc biểu tình một cách rất giới hạn như là một nhóm người bỏ công, bỏ tiền và bỏ thời gian ra để đứng la ó cho nhau nghe. Nhìn rộng hơn vào phản ứng của đa số thầm lăng trước những cuộc biểu tình này thì sẽ thấy là Hà Nội đã không thể bình thường hoá sự hiện diện của họ tại hải ngoại và chính thức hoá tư cách đại diện của họ cho người Việt khắp nơi.

Dù đồng cảm với công cuộc đấu tranh của người Việt hay không, những chính quyền các nước mà Việt đang cố thắt chặt bang giao cũng không thể không đặt vấn đề nhân quyền để làm khó dễ Hà Nội. Đây là cái kim chọc vào cạnh sườn Hà Nội, lúc nào cũng có thể làm độc, nghĩa là những lãnh đạo Cộng Sản dù có tỏ dấu trung thành luốn cúi ngoại quốc tới đâu, họ cũng không thề có sự ủng hộ vô điều kiện.

Trở lại vấn đề toàn cảnh của công cuộc đấu tranh, sẽ có những người cho rằng việc biểu tình là lỗi thời, và kiếm những cách đấu tranh “hợp thời” và “sáng tạo” hơn. Một trong những cách “sáng tạo” này là thổi phòng lên tất cả những việc lớn nhỏ có liên quan một chút đến đấu tranh và tạo ấn tượng công cuộc đấu tranh đang có biến chuyển liên tục để lôi kéo những người dễ tin. Nhưng khi không còn ai tin thì họ sẽ đi tìm khán giả ở những nơi khác hay bằng những cách khác để có thể tiếp tục thấy tên mình trên mặt báo. Thế nhưng trong thực tế thì công cuộc đấu tranh này thành công hay không sẽ không dựa vào nhiều biến chuyển liên tục, mà vào một biến chuyển lớn và đột ngột do đại đa số quần chúng Việt chủ động. Còn bao lâu nữa biến chuyển lớn đó mới đến thật khó nói, nhưng một điều chắc chắn là ngày đó sẽ không đến vì những nỗ lực cải thiện chế độ, sửa sai cho chế độ, hay “qua mặt” chế độ bằng cách dùng ngả đầu tư hay từ thiện để về nước kêu gọi người dân đấu tranh. Một biến chuyển lớn và đột ngột – một cuộc cách mạng – có xẩy ra hay không tại Việt Nam sẽ tùy theo quyết tâm loại bỏ độc tài đảng trị của hải ngoại cộng với những phản ứng quốc nội trước những vấn nạn xã hội kinh tế không thể nào giải quyết vì sự đầu tư toa rập làm ăn của tài phiệt thế giói chỉ để kiếm lợi nhưng được khoác chiêu bài phát triển cho đất nước.

Mỗi lần đi biểu tình là một tát mạnh vào mặt đảng CSVN, cho thế giới thấy họ không có tính cách đại diện cho những ai họ không dùng bạo lực để cai trị được. Gây được ấn tượng này là một chiến thắng lớn vì nó phá hẳn một trong những trọng kế của CSVN, và trên nền tảng này đồng bào hải ngoại và quốc nội có thể lấn tới phá tiếp những kế hoạch khác của Hà Nội. Cho nên chúng ta cần phát huy tinh thần này, vì biểu tình là cách đơn giản, dễ dàng nhất để bày tỏ tiếng nói của lương tâm mình. Khỏi cần nghĩ đến chuyện xa vời, ngày nào còn người Việt tham gia biểu tình chống CSVN thì công cuộc đấu tranh sẽ còn nguyên.

July 9, 2007

Tại sao nhiều người chết vì ô nhiễm?

Dân chủ khác độc tài như thế nào? Chế độ độc tài chuyên bịt miệng, bịt cả tai dân chúng, bằng cách kiểm soát thông tin, báo chí. Dân không được tự do nói, nên cũng mất nhiều cơ hội nghe.

Nhưng trên thế giới này có bao người tu theo phương pháp bớt nói bớt nghe. Có người còn nhập thất, tịnh khẩu để tâm hồn được trong sạch và bình an hơn, tại sao lại than phiền về chuyện nhà nước kiểm soát báo chí? Thưa bởi vì những người tu hành họ tự nguyện sống như vậy, còn dân chúng một nước sống dưới chế độ độc tài không được tự do lựa chọn mà bị bắt buộc sống như thế. Hơn nữa, khác với nhà tu kín, một xã hội kiểm soát thông tin gây rất nhiều tai hại. Có thể làm chết người.

Bữa trước mục này đã trình bày về những “làng ung thư” ở Việt Nam. Ðó là một thí dụ. Nhà máy hóa chất Lâm Thao bỏ rác và chất thải ra cánh đồng, không đường mương, không ống cống từ năm 1959 đến nay. Ở làng Thạch Sơn, tỉnh Phú Thọ mùa màng bị hư, cá sống không nổi, dân cư ngụ chung quanh đã bị nhiều thứ bệnh gần nửa thế kỷ. Tại sao tình trạng đó cứ kéo dài mãi cho đến nay, khi thấy hơn một trăm người chết vì bệnh ung thư, mới được báo động?

Nếu trả lời rằng, chỉ vì chế độ độc tài gây nên, nhiều người sẽ chê là mình thiên vị, động cái gì cũng đổ tội cho chế độ! Người ta sẽ giải thích chẳng qua vì nước mình nghèo, rằng, vì dân trí mình thấp, vân vân. Nhưng nghĩ cho kỹ đi thì thấy nguyên do lớn nhất là vì dân không được nghe thông tin đầy đủ. Hãy khoan nói chuyện dân sợ chính quyền như sợ cọp, không dám lên tiếng. Không ai nói cho họ nghe rằng, rác và nước thải từ nhà máy hóa chất rất nguy hiểm, hễ ở gần chúng là phải tự đề phòng. Không ai nói cho họ biết rằng, họ có quyền bắt buộc các nhà máy phải đem rác và nước thải đi biến hóa cho nó hết độc, hoặc đem chôn thật xa. Dù nhà máy đó là của một công ty tư bản hay của nhà nước cộng sản thì người dân cũng có quyền đó! Không phải vì nhà nước lúc nào cũng nói, “Ðảng ta chỉ có một mục đích là phục vụ nhân dân” mà cái hóa chất do công ty nhà nước thải ra nó cũng sinh ra tử tế, không làm nhân dân bị nhiễm độc đâu!

Trường hợp các xã Kim Thành, xã Nam Sơn, làng Cờ Ðỏ ở Nghệ An cũng vậy. Chỉ khi hàng trăm người chết vì ung thư một cách bất thường, lúc đó mới làm các quan trên động tâm. Mà nguyên nhân thì cũng vì môi trường sống bị nhiễm độc. Nguồn gốc gây nhiễm độc là những kho hóa chất trừ sâu DDT đã bỏ từ lâu mà không ai quan tâm đến việc làm cho sạch. Chất DDT đã được biết là gây độc hại cho sức khỏe con người ngay từ khi loài người còn dùng để trừ sâu. Từ nửa thế kỷ nay nhiều quốc gia đã cấm dùng DDT vì nó di hại mùa màng, cây cỏ, cầm thú và hại cho sức khỏe con người. Ở các nước tự do dân chủ thì khi tin tức đó được loan truyền ra, người dân thấy ai còn dùng chất DDT là họ lập tức phản đối. Ai chứa chất DDT gần nơi họ sống, ai để cho mặt đất bị nhiễm chất DDT là họ phản đối. Nói không nghe, họ đi kiện! Các nhà báo thấy một vụ kiện có thể là một đề tài báo động cho hàng ngàn nạn nhân khác của chất DDT, thế nào cũng tới điều tra, viết bài. Những hội bảo vệ người tiêu thụ, bảo vệ môi trường sống sẽ gây phong trào buộc nhà nước phải kiểm tra nơi nào còn bị chất DDT tác hại thì lo ngăn ngừa.

Nhưng ở nước ta thì suốt bao nhiêu năm người dân Nghệ An không được nghe nhà báo nào đến hỏi tại sao giếng nước làng có màu vàng, tại sao nhiều người trong một gia đình cùng chết vì bệnh ung thư. Không ai nói cho họ biết rằng, nhà nước có bổn phận giữ nguồn nước sạch sẽ cho dân chúng sử dụng. Cho tới khi một tỉnh Nghệ An có hàng chục xóm với số người chết vì ung thư tăng lên đến kinh ngạc, mới có người báo động. Mà ngay trong loại tin tức nóng hổi này, nhà báo biết cũng không được nói. Khi phát hiện một xóm ung thư ở thị xã Tân An, chỉ cách Sài Gòn bốn chục cây số, một tờ báo tiến bộ và năng động như tờ Thanh Niên ở Sài Gòn cũng chỉ đăng lại một bản tin của thông tấn xã nhà nước chứ không được phép đưa phóng viên đi điều tra riêng!

Nhà máy sản xuất nhôm ở Tân An cũng thải chất độc ra sông Nhân Hòa không khác gì nhà máy hóa chất Lâm Thao ở Phú Thọ. Trong suốt bao nhiêu năm “lãnh đạo đất nước” đảng cộng sản đã không quan tâm đến việc bảo vệ môi trường. Sau khi chế độ cộng sản sụp đổ ở Liên Xô người dân Nga mới biết đất nước họ ô nhiễm nhất thế giới.

Tại sao lại không có ai lên tiếng báo động về những mối nguy trong môi trường sống? Vì trong chế độ độc tài đảng trị xã hội không tạo khung cảnh cho những tiếng nói như vậy được phát lên một cách tự nhiên. Ở các nước tự do dân chủ người ta tạo được một khung cảnh như vậy. Nếu nhà báo đi qua một nơi thấy hóa chất thải bừa bãi, họ thấy ngay đây là một đề tài đáng viết để báo động độc giả. Nếu một phụ huynh thấy con em mình bị bệnh lạ họ sẽ đi hô hào những phụ huynh khác cùng đi tìm hiểu nguyên nhân. Có những hội bảo vệ môi trường mọc lên khắp nơi để gìn giữ không cảnh sống lành mạnh cho mình và cho người khác. Hiện tượng này cũng giống như trong cơ thể chúng ta có những hệ thống tự phòng, tự chữa bệnh. Nếu có chất độc nhiễm vô phổi, vô bao tử, thân thể người ta bèn bị ngứa, phải ho ra, phải nôn ra cho hết chất độc, rồi người ta biết cái gì phải tránh, phải ngăn ngừa. Một xã hội tự do cũng có những phản ứng tự nhiên như cơ thể để tự chữa trị, đông y gọi là kinh mạch điều hóa, khí huyết lưu thông. Một xã hội độc tài ngăn không cho cơ thể được sống tự nhiên, hệ thống tự chữa bệnh bị bế tắc!

Trong nước chắc chắn rất nhiều người biết các nhà máy hóa chất có thể gây tai hại cho đất đai và nguồn nước, mạch nước. Tại sao trong bao nhiêu năm không có những phong trào lên tiếng đòi phải có luật lệ bảo vệ môi trường sống? Khi đã có luật rồi, tại sao không có phong trào đòi thi hành luật đứng đắn để bảo vệ người dân lành?

Vì kinh mạch đã bế tác. Báo chí không được thông tin tự do. Việt Nam không có những hội tư nhân lo việc bảo vệ môi trường sống. Những người lo lắng cho môi trường không có chỗ họp nhau lại để cùng lên tiếng báo động đồng bào. Ở nước tự do dân chủ nào người ta cũng có những phong trào bảo vệ môi trường. Ở một nước độc tài toàn trị thì đảng cầm quyền muốn bao thầu hết mọi chuyện; những người quan tâm về một vấn đề gì cũng không được phép tự họp nhau lo chung. Ðến tôn giáo mà đảng cầm quyền cũng chỉ công nhận một giáo hội Phật Giáo, giáo hội khác đã sinh hoạt từ bao đời nhưng không theo đảng thì cũng bị cấm. Không có quyền tự do lập hội nên người ta cũng mất luôn quyền thông tin, báo động khi thấy những triệu chứng nguy hiểm. Giống như một cơ thể sinh vật mất khả năng chế tạo bạch huyết cầu, mất khả năng tự kháng độc. Chế độ độc tài gây ra bệnh “liệt kháng” (aids) cho thân thể của xã hội.

Trong tuần này Ngân Hàng Thế Giới phát hành bản phúc trình về nạn ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc. Bản báo cáo cho biết có chừng 750,000 người Trung Hoa chết mỗi năm do tình trạng không khí ô nhiễm gây nên. Ðây là kết quả của những cuộc nghiên cứu của các chuyên viên quốc tế và của chính phủ Trung Quốc. Nhờ bản phúc trình đó người bên ngoài biết có những làng bị nhiễm độc vì hóa chất suốt năm này sang năm khác, từ nửa thế kỷ nay. Dân làng ăn rau, trái cây, gạo, sinh bệnh. Nhiều thứ trái cây và rau còn được đóng hộp bán ra nước ngoài. Hiện nay Trung Quốc chiếm 12% thị trường rau và trái cây xuất cảng. Những chất độc thông thường nhất là do kim loại như chì, cadmium và thiếc, nhiễm trong đất, trong nguồn nước. Trong số 20 thành phố bị coi là ô nhiễm nhất thế giới, có 16 thành phố thuộc Trung Quốc. Bản phúc trình của Ngân Hàng Thế Giới đã bị cắt bớt một phần ba trước khi ấn hành, theo lời yêu cầu của chính phủ Bắc Kinh. Vì họ sợ những chi tiết “gây ấn tượng” quá có thể làm mất ổn định trong xã hội! Như đã trình bày trong mục này tuần trước, dân chúng Trung Quốc bắt đầu quan tâm đến môi trường sống rất nhiều. Hàng chục ngàn dân ở Hạ Môn đã biểu tình phản đối việc xây dựng một nhà máy hóa chất trị giá hàng tỷ Mỹ kim, vì lo môi trường sẽ bị nhiễm độc. Ðiều mà chính phủ Bắc Kinh lo ngại là sẽ có những phong trào bảo vệ môi trường chống lại chính sách bưng bít của đảng cộng sản! Sau Thiên An Môn, sau Pháp Luân Công, nay lại đến môi trường, cơ thể xã hội Trung Quốc vẫn còn bất an! Ðảng cộng sản có thể chấp nước và không khí bị nhiễm độc gây chết người, miễn là người ta chết một cách thầm lặng!

Chế độ cộng sản đã làm chết hàng triệu người chỉ vì người dân không được tự do thông tin, dù những tin tức phi chính trị như bệnh tật, dịch cúm, ô nhiễm. Trong nhiều trường hợp, quyền được nói đi đôi với quyền tự do hội họp. Vì có nhiều chuyện hơi phức tạp, có khi khó hiểu, một người nói không đủ khiến mọi người phải nghe. Phải tụ họp nhau lại, cùng lên tiếng mới, người này làm chứng cho người kia, lúc đó mới được lắng nghe. Khi có những chuyện không hiển nhiên nhưng đe dọa tới sức khỏe, mạng sống của nhiều người, càng cần phải khua chiêng gióng trống để đánh thức đồng loại. Tức là phải có nhiều người họp nhau lại mà nói. Hai quyền tự do, ngôn luận tự do và hội họp tự do không thể tách rời nhau được. Một nước muốn tiến bộ cần rất nhiều hội đoàn tư nhân tự động đứng ra lo cho những nhu cầu chung, của từng nhóm người hay của cả xã hội. Cần phải có một xã hội công dân năng động, cần báo chí tự do. Trong khung cảnh tự do dân chủ, dân được hưởng những quyền bình thường như thế. Ðó là một điểm khác nhau giữa tự do với độc tài.

Ngô Nhân Dụng (@Người Việt)

Độc đảng để ổn định? Thôi đi, đừng bốc phét!

Lê Diễn Đức

“Ổn định” Việt Nam?

Bản tin của đài phát thanh quốc tế Pháp RFI (Radio France Internationale) ngày 07/07/2007 đã trích dẫn nguồn tin của hãng thông tấn AP, thuật lại lời một sĩ quan công an quận Phú Nhuận, xác nhận tin tức biểu tình diễn ra từ 22 tháng 6 năm 2007 đến nay tại Sài Gòn của người dân 9 tỉnh thành miền Nam. Họ đã kéo đến Văn phòng II của Quốc Hội Việt Nam, chăng biểu ngữ, dựng lều cố thủ, phản đối nạn tham nhũng của quan chức các địa phương và đòi bồi thường đất đai bị cướp đoạt.

Dân Bến Tre chịu đựng đói khát, mưa gió để đòi lại “đất sắt thành đồng”
Nguồn:hohuong20042000

Như vậy là sự gan lỳ, chịu đựng đói khát, mưa gió để đòi quyền sống công bằng và chính đáng của bà con đã làm chính quyền không thể cứ giả mù, giả điếc và 600 tờ báo đảng cùng mấy kênh truyền hình bị há miệng mắc quai, cứ mãi mãi im thin thít như thịt nấu đông!

Tuổi Trẻ, (tờ báo mà giới thạo tin trong nước đồn rằng được cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt bảo hộ, che chở), bị quần chúng lên án ê chề, đã tự thấy không thể không lên tiếng, dù rất yếu ớt và né tránh thực tế. Họ chỉ dám đưa tin vắn tắt, chủ yếu về việc chính quyền đang phải đối phó ra sao. Còn không một chữ nào về các dữ kiện như chính quyền cho công an phong toả, cách ly người biểu tình với những người hảo tâm muốn đến giúp đỡ, tiếp tế đồ ăn thức uống và nhà nước đã ngầm tung ra mạng lưới đặc tình, mật vụ (đóng vai xe ôm, sửa xe gắn máy) xua đuổi quần chúng vì sợ đến lấy tin.

Mọi hành xử bội bạc, bất nhân của nhà cầm quyền đều vô hiệu. Cả nước và dư luận quốc tế trong mấy ngày qua biết rất rõ. Không bức tường nào ngăn được sự thật và tiếng nói lương tri của con người.

Nói về cuộc biểu tình của hàng trăm người dân, đặc biệt của nông dân tỉnh Tiền Giang, một căn cứ địa cách mạng thời chiến tranh của đảng cộng sản Việt Nam với nhiều bà mẹ anh hùng, liệt sĩ, xảy ra liên tiếp nhiều ngày ngay giữa thành phố Sài Gòn, RFI cũng nhấn mạnh rằng, “chưa có tờ báo nào trong nước loan tin”. Mãi đến ngày 07/07, tờ Tuổi Trẻ mới cho hay, Tổng thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền yêu cầu lãnh đạo các địa phương phải giải quyết khiếu kiện của nhân dân địa phương, không để họ đi lên Sài Gòn.

Cũng theo Tuổi Trẻ, phó Tổng thanh tra chính phủ Mai Quốc Bình đã được cử về Tiền Giang chỉ đạo các quan chức địa phương để giải quyết khiếu kiện.

Lãnh đạo Tiền Giang đã thuyết phục được một số người quay về nhưng vẫn còn khoảng 70 đến 80 người ở lại bám trụ. Được biết, những người ở lại cho rằng, khiếu kiện không phải chỉ mới đưa ra vào lúc này mà hàng chồng đơn kêu cứu của bà con đã được các quan chức biết rất rõ từ nhiều năm nay nhưng bị vứt vào sọt rác. Bà con không muốn mình tiếp tục bị lừa phỉnh, dụ dỗ rồi đâu lại vào đó.

Một phó Tổng thanh tra Chính phủ khác là Lê Tiến Hào đã nói rằng, nhà nước sẽ phải giải quyết khiếu nại của 140 người dân khác của tỉnh Bình Thuận cũng đang “bám trụ” ở thủ đô Hà Nội.

RFI nhận xét rằng, những vụ tập trung, biểu tình trước các cơ quan đảng và nhà nước để khiếu nại về tình trạng đất đai, nhà cửa bị các quan chức địa phương chiếm đoạt bất công đã “trở nên quen thuộc trong những năm gần đây”, nhưng dường như “đây là lần đầu tiên, một cuộc biểu tình đã kéo dài như thế”.

Các cuộc biểu tình mới chỉ là hành động tự phát của bà con nông dân. Nếu như họ có tổ chức và được hỗ trợ mạnh mẽ về tinh thần và vật chất của toàn xã hội, của cộng đồng người Việt hải ngoại bằng những việc làm cụ thể với tinh thần đùm bọc và chia sẻ chân tình, chắc chắn sẽ làm Ba Đình điên đầu. Đại đa số quần chúng có nhân tâm không ai nỡ bàng quan và vô tình trước nỗi oan ức, thống khổ của những người nghèo đã từng một thời bao bọc, nuôi nấng các vị lãnh đạo đảng và nhà nước trong khó khăn, gian khổ, thậm chí đổi cả mạng sống, để cho họ được ngồi chệm chễ trên ngai vàng ngày hôm nay và trơ trẽn hiện nguyên hình những tên lừa đảo, phản trắc.


“Ổn định” Trung Nam Hải?

Trong khi đó, tại nước láng giềng phương Bắc của Việt Nam, người dân cũng đang tranh đấu với chính quyền càng ngày càng quyết liệt hơn, kể cả những cuộc biểu tình đụng độ với cảnh sát, đốt phá các cơ sở của nhà nước.

Theo RFI, Bắc Kinh vừa ra chỉ thị cho các chính quyền địa phương phải lưu tâm đến tình trạng mà họ gọi là “bất ổn xã hội” và phải tìm ra nguyên nhân làm cho quần chúng phẫn nộ để giải quyết. Nếu thất bại, cán bộ, nhân viên nhà nước sẽ không thăng chức. Theo hãng AFP, chính Tân Hoa Xã (Xinhua) đã đưa tin này trong ngày 07/07/2007, như là “một dấu hiệu phản ảnh sự lo ngại của Trung Ương”.

Cùng ngày, một cuộc họp về vấn đề nông thôn được diễn ra tại Bắc Kinh. Âu Dương Tùng, quan chức cao cấp của đảng cộng sản Trung Quốc đặc trách về vấn đề nhân sự cũng đã tuyên bố rằng, “các viên chức nào không đảm bảo được sự ổn định ở nông thôn sẽ không được thăng chức”.

Thứ trưởng công an Lưu Kim Quốc ra lệnh cho công an địa phương phải tiến hành các cuộc thanh tra, có thể kéo dài cả tháng, để tìm hiểu nguyên nhân và quy mô của cái gọi là “sự cố tập thể” và tình trạng bất ổn trật tự xã hội tại nông thôn.

Chính phủ Trung Quốc sử dụng cụm từ “sự cố tập thể” để chỉ những vụ bạo loạn và những cuộc tập hợp của quần chúng biểu tình, phản đối nhà nước.

Lưu Kim Quốc nêu ra các vụ tội phạm chạy trốn hay băng đảng hoành hành, cũng như những vụ đánh cắp nguyên liệu sản xuất; nạn làm hàng giả mạo; bắt cóc, buôn bán trẻ em và phụ nữ; buôn lậu ma tuý, chất nổ và súng ống.

Hãng thông tấn Ba Lan PAP, trong ngày 04/07 và 05/07/2007 đã đăng tin, trước sự phẫn nộ dữ dội của dư luận Trung Quốc và thế giới, nhà cầm quyền Trung Quốc đã bắt giam 60 người liên quan tới xì-căng-đan cưỡng bức trẻ em làm nô lệ lao động tại các lò gạch ở một số tỉnh nghèo nhất Trung Quốc. Đây cũng là lần đầu tiên, hầu hết báo chí và phương tiện truyền thông Trung Quốc đồng loạt đăng tải tin tức về sự kiện này.

Trẻ em được bán đến các lò gạch với giá 60 USD mỗi người, phải lao động 14 tiếng đồng hồ mỗi ngày trong điều kiện làm việc vô cùng khắc nghiệt, thường xuyên bị đói, bị đánh đập mà không có ai kiểm soát.

12 người đã ra hầu Toà tại tỉnh Shanxi trong ngày 05/07/2007. Một trong những chủ lò gạch tên là Wang Bingbing, cùng với sếp bảo vệ Heng Tinghan và nhân viên trong nhóm của y. Được biết Wang là con trai của một lãnh đạo đảng cao cấp của địa phương. Còn Heng bị xử tội đã dùng xẻng đánh chết một em trai rồi giấu xác.

Chính phủ Trung Quốc đã biệt phái một lực lượng đặc biệt điều tra tình trạng lao động tại các lò gạch, cho đến 5/07/2007 đã giải thoát 600 người bị bắt làm nô lệ, trong đó có 50 trẻ em vị thành niên. Không thấy chính quyền nói gì đến bồi thường thiệt hại cho những người này hoặc họ sẽ được nhận một đãi ngộ nào đó của nhà nước, khả dĩ để phục hồi sức khoẻ và trở về gia đình với đời sống bình thường.

Bất mãn của dân chúng Trung Quốc đang ngày càng gia tăng, đặc biệt là trong tầng lớp lao động nghèo bị gạt ra lề xã hội trong bối cảnh kinh tế thị trường bùng nổ, con người mất hết nhân tính khi chạy theo sức hút của đồng tiền, còn nhà nước thì làm ngơ, hầu như chẳng hề có chính sách đáng kể nào để cải thiện đời sống công nhân và nông dân. Bên cạnh đó, nạn “phép vua thua lệ làng” và tham nhũng triệt tiêu mọi hành động ngăn chặn của các cơ quan tư pháp trước bất công xã hội.

Dân Trung Quốc biểu tình (trên 74.000 vụ với hơn 3,8 triệu người tham gia năm 2006)
Nguồn: chinadigitaltimes.net

Theo RFI, con số mới nhất mà chính quyền Trung Nam Hải đưa ra, trong năm 2005 đã có “85.000 sự cố tập thể”, tăng hơn 6% so với 2004, tăng hơn 50% so với 2003. Con số thực tế chắc chắn sẽ lớn hơn nhiều.

Nông dân Trung Quốc đang phải gánh trên vai những hậu quả nghiêm trọng của cuộc cách mạng “mèo nào cũng tốt, miễn bắt được chuột”. Đập Tam Hiệp xây lên năm ngoái cùng với sự phô trương khánh thành nhà máy thuỷ điện lớn nhất thế giới, ngốn hàng chục tỷ đô la đầu tư, đang huỷ diệt nguồn nước. Từ cách xa nhiều cây số người ta có thể ngửi thấy mùi hôi thối bốc lên do cây cỏ và rong rêu tự hoại mà không có biện pháp xử lý kỹ thuật khi cho nước ngập.

Trong khi đó, thiên tai thường xuyên càng làm tình trạng sống của 800 triệu người ở nông thôn chật vật hơn. Thu nhập của họ, tính bình quân, mỗi ngày chưa được 1 đô la.

Theo hãng thống tấn Ba Lan PAP ngày 08/07/2007, lũ lụt trong mấy ngày qua tại tỉnh Sychuan đã làm thiệt hại khoảng 3 tỷ Yuan (tương đương 400 triệu đô la), ít nhất 26 người chết, đe doạ trực tiếp cuộc sống của 42 triệu người và 7,2 triệu người đang bị mất nguồn nước uống. Đã cơ cực lại càng thêm cơ cực.


Kết

Các tổ chức bảo vệ nhân quyền đều có chung một nhận định rằng, những vụ bạo loạn của dân chúng (Trung Quốc và Việt Nam) bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng thường xuyên là các trường hợp đất đai của dân chúng bị các quan chức tham nhũng chiếm đoạt, vấn đề môi trường sống bị ô nhiễm nặng nề, nạn ăn hối lộ tiếp tay cho giới mafia và tư bản đỏ đầu cơ trục lợi hoặc là các vụ công dân bị đàn áp mạnh tay bởi chính quyền địa phương.

Xem ra, cả Trung Quốc và Việt Nam tuyên truyền rằng, do hoàn cảnh văn hoá, lịch sử Á đông và dân trí còn thấp nên phải duy trì hệ thống cai trị độc đảng để giữ ổn định xã hội cho mục tiêu phát triển kinh tế là hoàn toàn không thuyết phục, hay đúng hơn, đây là lối nguỵ biện sáo mòn, rẻ tiền và trâng tráo. Làm sao có thể ổn định trong một xã hội đầy rẫy bất công, suy đồi về đạo đức truyền thống?

Loài người đã chứng minh câu ngạn ngữ: “Con giun xéo mãi cũng quằn”. Những kẻ mệnh danh là "đầy tớ của nhân dân", sống bằng tiền thu thuế của dân và bòn rút tài sản của dân, đang thi nhau đè đầu, cưỡi lên cổ Ông Chủ Nhân Dân, chắc chắn sẽ có ngày phải trả giá.

Đọc Báo VẸM 14

Dân chủ: quyền lực và ngờ vực

Phạm Phú Đức

Có thể hiểu một cách đơn giản và khái quát rằng dân chủ nghĩa là dân làm chủ. Nhưng nếu chỉ nói chung chung như thế thì dễ quá, bởi các chế độ độc tài chuyên chính cũng dám tự xưng một cách không thẹn thùng là dân chủ gấp ngàn lần chế độ dân chủ tư bản. Cho nên câu hỏi cần đặt ra là: dân làm chủ bằng cách nào, hay làm thế nào để bảo đảm dân làm chủ?

Để dân có thể làm chủ đất nước thì dân phải có quyền, bởi nếu dân không có quyền, làm gì cũng phải xin phép, thì dân là nô lệ chứ chẳng phải làm chủ. Vì dân quyền là điều kiện quan trọng của nền dân chủ nên công cuộc đấu tranh đòi dân quyền của phong trào Duy tân, lãnh đạo bởi các cụ Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp v.v… vào đầu thế kỷ 20, có thể được xem là phong trào đấu tranh cho tự do, dân chủ đầu tiên tại Việt Nam. [1]

Nhưng để dân chủ hoạt động hữu hiệu và chính đáng đòi hỏi nhiều hơn dân quyền. Điểm khác biệt cơ bản trong ý niệm dân chủ của trường phái chuyên chế - cộng sản (điển hình là tư tưởng Mác, Lênin) và trường phái tự do - phóng khoáng (điển hình là tư tưởng Hobbes, Locke) là một bên tin tưởng gần như tuyệt đối vào một giai cấp lãnh đạo chính trị, ít nhất ở giai đoạn đầu của cuộc cách mạng; trong khi đó, bên kia lại luôn ngờ vực lãnh đạo chính trị ở mọi giai đoạn, ngờ vực quyền lực tập trung, và nhìn rõ những giới hạn lẫn tác hại khi người ta nắm quá nhiều quyền lực trong tay.

Đối với khuynh hướng “cộng sản”, điển hình qua tác phẩm Nhà nước và Cách mạng của Lênin, [2] thì dân chủ kiểu tư bản là dân chủ cho thiểu số, cho giai cấp tư sản, trong khi đó người dân không được tham dự vào các hoạt động quan trọng của xã hội. Cả Mác lẫn Lênin đều cho rằng khi nhà nước tàn lụi, nghĩa là không còn chính phủ nữa (tức vô chính phủ), thì đó là chế độ cộng sản ở mức cao nhất, và lúc đó mới là nền dân chủ đích thực. Trong tác phẩm này, Lênin vạch ra ba giai đoạn cho cuộc cách mạng vô sản (trong khi Mác không vạch ra ba giai đoạn rõ rệt như Lênin): thứ nhất là hình thành chuyên chính vô sản; thứ hai là hình thành xã hội chủ nghĩa, tức giai đoạn chuyển tiếp giữa tư bản sang cộng sản; và thứ ba là giai đoạn cộng sản, tức thời điểm mà không còn chính phủ (hay nhà nước) nữa. [3] Trên thực tế thì chuyên chính vô sản tại tất cả các nước theo đường lối này không bao giờ chịu bỏ quyền lực của mình, chỉ giỏi hô hào chứ không thật sự tiến bao nhiêu lên xã hội chủ nghĩa hay cộng sản chủ nghĩa như Mác và Lênin tưởng tượng. Còn nhà nước thì không tan biến mà còn phình ra và chiếm lĩnh mọi mặt xã hội kiểu độc tài toàn trị. Sự sai lầm lớn lao này là do các nhà Mác-xít đã quanh quẩn trong khung sườn suy nghĩ của duy vật biện chứng mà xem nhẹ bao nhiêu yếu tố quan trọng khác về bản chất con người, trong đó quyền lực là một yếu tố cơ bản tác động hay chỉ đạo hành động con người trong chính trị. Thêm vào đó, đối với cộng sản, quan điểm cho rằng còn tư hữu các phương tiện sản xuất là còn bóc lột thì lại được xem như là chân lý tuyệt đối, do đó để được tự do và không còn bóc lột thì phải tiêu diệt giai cấp tư sản bằng mọi giá. Với những suy nghĩ như thế, xã hội do những người tự xưng là cộng sản biến thành trong suốt thế kỷ 20 đã mang đầy những đặc tính cách mạng bạo lực và cực kỳ phản động.

Điều quan trọng cần suy nghĩ rốt ráo khác là rằng chế độ cộng sản và các nhà Mác-xít, từ trong bản chất, nghĩa là từ trong tư tưởng của họ, không thật sự tin tưởng vào nhân quyền hay dân chủ gì cả. Họ xem việc cân bằng quyền lực, “bàn tay vô hình” (tức kinh tế thị trường, ý niệm xuất phát từ Adam Smith), nhân quyền, dân chủ toàn cầu v.v… chẳng qua là màn hoả mù hay bình phong che dấu bản chất bóc lột của chế độ tư bản mà các hệ thống tân đế quốc hay tân thực dân hôm nay đại diện. [4]

Đối với khuynh hướng “tư bản”, người ta không còn ngây thơ gì với quyền lực cả, bởi lịch sử đã cho họ những bài học đáng nhớ đời rồi. Đam mê quyền lực, tham nhũng, bè phái, thủ cựu, thủ đoạn, ích kỷ v.v… là các đặc tính con người nơi đâu cũng có, sắc dân nào cũng có, đặc biệt trong hoạt động chính trị. Thêm vào đó, tin hay không tin vào một chính thể chẳng qua là hai mặt của cùng một vấn đề chính trị. Một mặt, người ta biết rằng nếu không tin vào thể chế chính trị nào thì khó thể làm cho nó hoạt động hữu hiệu và tồn tại. Mặt khác, người ta cũng biết rằng nếu quá tin vào một thể chế chính trị mà không có biện pháp hay cơ chế (mechanism) gì để bảo đảm, đo lường hay phối kiểm hành động của thành phần lãnh đạo thì trước sau gì nó cũng chỉ đưa đến sự suy vong mà thôi. Nói cách khác, trong chính trị, tin tưởng là cần thiết, nhưng chưa đủ, bởi không phải chỉ có một loại người làm chính trị tốt mà còn có các thành phần xấu hay tính toán. Ngoài ra, chính trị không chỉ là về vấn đề kinh tế mà chính trị liên hệ trực tiếp và toàn diện đến mọi mặt đời sống. Cho nên, đối với ngay cả hạng người tốt làm chính trị thì chắc gì họ có thể thi hành những điều cam kết bởi vì họ cũng phải lệ thuộc ở bao nhiêu người khác vào sự liên hệ và đan kết chằng chịt nhau. Nhìn bản chất như thế, người ta cũng không ngây thơ tin rằng dân chủ sẽ là lời giải cho mọi vấn đề, là thần dược cho các bệnh nan y trong chính trị. Do đó, những nhà tiên phong xây dựng chính thể dân chủ hiện đại đã đặt nền tảng cơ bản của dân chủ vào sự ngờ vực mọi quyền lực. Tuy nhiên, không phải vì thế mà người ta trở nên bi quan hay ngờ vực mọi thứ, nhưng họ chỉ không tin vào cái gì tuyệt đối, và họ muốn khẳng định thực tế rằng thà bắt đầu với cái tương đối làm nền tảng để vươn tới kết quả tốt nhất có thể được. Nói tóm lại, để xây dựng một nền dân chủ bền vững, nguyên tắc dân chủ được xây dựng chính từ sự ngờ vực đã được định chế hoá (institutionalised distrust), nghĩa là các định chế phải được xây dựng từ sự ngờ vực mà phát triển. Nói theo kiểu Việt Nam, tinh thần dân chủ là “thà mất lòng trước, được lòng sau”, để mà còn có thể “ăn chắc, mặt bền”, còn hơn là “mất cả chì lẫn chài”. Nói cách khác nữa, thà đến với nhau bằng sự ngờ vực cho đến khi nào các ngờ vực được giải toả, lúc đó sự tin tưởng sẽ đến và có giá trị hơn. Tóm lại, niềm tin vào tính chính đáng của dân chủ, một yếu tố quan yếu của nguyên tắc dân chủ, là việc định chế hoá sự ngờ vực vào kiến trúc của nền dân chủ.

Giáo sư Piotr Sztompka [5] liệt kê 10 nguyên tắc dân chủ dựa trên sự ngờ vực được định chế hoá này. Nguyên tắc thứ nhất của dân chủ đòi hỏi tính hợp pháp và chính đáng của mọi quyền lực, điều đó cho thấy chính nghĩa là nguyên tố quan trọng hàng đầu của dân chủ. Do đó, chỉ khi nào quyền lực được chứng minh là xuất phát từ ý nguyện của người dân, hơn nữa, khi nào những vị dân cử này đáp ứng được nguyện vọng của dân chúng, thì chính quyền đó mới có chính nghĩa. Nhưng ngay cả như thế, sự ngờ vực chưa hẳn biến đi bởi chính trị luôn có ẩn số, không phải lúc nào cũng minh bạch, phân định rõ ràng.

Nguyên tắc thứ hai là về tái bầu cử và thời hạn của nhiệm kỳ. Vấn đề “cha truyền con nối” hay bất hạn định nhiệm kỳ như thời xưa nay không còn ai chấp nhận nữa (riêng đối với 9 thẩm phán tối cao của Hoa Kỳ thì nhiệm kỳ là bất hạn định). Nguyên tắc này cho thấy nền dân chủ ngờ vực những người đang cầm quyền không có tinh thần sẵn sàng tự nguyện từ bỏ quyền lực của mình. Thêm vào đó, vấn đề được tín nhiệm hay tái tín nhiệm phải được đánh giá trên khả năng và viễn kiến của người tranh cử, hay thành quả và trách nhiệm đạt được mỗi kỳ của người đương nhiệm. Mỗi kỳ bầu cử là một thử thách mới, cần sáng kiến mới, cần tư tưởng chỉ đạo đường dài và thực tiễn trong lúc xã hội ít nhiều thay đổi với thời gian; hơn nữa, bầu cử là phương thức tuyển chọn người tài, và chỉ có sự cạnh tranh tự do, minh bạch và bình đẳng mới bảo đảm được phần nào các sự chọn lựa thích đáng.

Nguyên tắc thứ ba là tam quyền phân lập, kiểm soát và cân bằng, và sự giới hạn quyền hành của mỗi định chế (như có đề cập trong bài “Ý niệm tự do”). Điều này cho thấy sự ngờ vực đối với các định chế thể hiện rõ, thí dụ, cả ba ngành tư pháp, hành pháp và lập pháp tại Hoa Kỳ luôn chủ trương mở rộng quyền hành của mình, tất nhiên ở trong vòng hiến pháp. Do đó, nếu không có sự kiểm soát và cân bằng của các ngành khác thì sự độc quyền hay lạm quyền là điều tất yếu xảy ra.

Nguyên tắc thứ tư là nền pháp trị (the rule of law) và các toà án độc lập. Nghĩa rằng mọi người, từ công dân bình thường đến lãnh đạo chính trị hàng đầu (mọi thành viên của ba ngành tư pháp, hành pháp và lập pháp), đều được đối xử giống nhau trước pháp luật. Điều này cho thấy dân chủ ngờ vực các thái độ tuỳ tiện, lạm dụng, thiên vị hay những hành động lầm đường lạc lối, cho nên dân chủ yêu cầu mọi công dân và mọi định chế phải tuân thủ khung sườn luật pháp chung. Nhưng để bảo đảm rằng luật pháp đứng trên mọi cá nhân và định chế, nhiều biện pháp phòng vệ khác nhau được bắt buộc thi hành với mục tiêu bảo đảm sự độc lập, tính khách quan, và không thiên vị của toà án và pháp luật. Tất cả các biện pháp phòng hờ này cốt yếu là để tạo niềm tin rộng rãi của dân chúng vào tính minh bạch và công bằng của pháp luật.

Nguyên tắc thứ năm là tính hiến pháp hoá (constitutionalism) và sự xét lại hay phê bình pháp luật (judicial review) khi thích hợp. Điều này cho thấy sự ngờ vực đối với các cơ quan lập pháp. Thí dụ, họ có thể bẻ cong pháp luật để hỗ trợ quyền lợi cụ thể nào đó hay thay đổi pháp luật vì cơ hội chủ nghĩa. Vì thế, phải có các điều luật căn bản để ngăn ngừa sự thay đổi pháp luật một cách tuỳ tiện hay dễ dãi. Ngoài ra, các định chế bảo vệ và hỗ trợ hiến pháp, thí dụ các toà án tối cao hay toà án hiến pháp, mới có thẩm quyền để diễn giải hay bắt tuân theo mệnh lệnh pháp luật, đặc biệt khi có những tranh chấp liên hệ trực tiếp đến vấn đề hợp hiến hay không.

Nguyên tắc thứ sáu là tiến trình đúng đắn, thích hợp (due process). Hậu quả của một quyết định chính trị có đúng đắn hay không phần lớn đến từ việc thực hiện đúng đắn tiến trình minh bạch và dân chủ được quy định trong nguyên tắc hay thủ tục được công nhận. Không phải ai cũng tuân thủ các thủ tục hay nguyên tắc này, ngay cả trong các thể chế được xem là rất dân chủ. Do đó, người ta ngờ vực cả các cơ quan thi hành luật và phân xử luôn cả các định chế này. Các toà án cũng không nằm ngoài nghi vấn về tính thiên vị hay cẩu thả của họ. Vì thế, người ta có quyền kháng án đối với các định chế, và thỉnh thoảng có thể kháng án nhiều lần, cho đến khi quyết định trở thành có giá trị và bắt buộc.

Nguyên tắc thứ bảy là sự tôn trọng và bảo đảm dân quyền. Như đã nói trên, nếu người dân không có quyền thì chẳng thể gọi nền dân chủ đó là đích thực. Người ta ngờ vực thiện chí của giới chức có thẩm quyền trong việc đáp ứng nhu cầu và quyền lợi của công dân. Hơn nữa, công dân có thể bị sách nhiễu bởi giới có quyền lực. Chính vì thế nên người ta đòi hỏi các biện pháp có thể đo lường trách nhiệm của giới thẩm quyền, đòi hỏi các nhu cầu của họ được thoả mãn, và bảo vệ họ để khỏi bị giới chính trị lạm dụng. Để làm việc này thì người dân phải có quyền, và quyền của họ phải được bảo vệ tối đa trong hiến pháp. Do đó, bảo đảm các quyền dân sự trong hiến pháp, mở rộng nhu cầu để người dân có thể kiện tụng cả các định chế công cộng, thành lập các văn phòng để các nhân viên thanh tra độc lập kiểm soát việc làm của nhân viên nhà nước… Đối với một số quốc gia, người ta có thể trực tiếp kiện tụng tính hợp pháp của chính quyền. Dân quyền, trong ý nghĩa này, là để bảo vệ và khuyến khích người dân trực tiếp sử dụng quyền công dân của mình để khi nhà nước không thi hành những gì họ cam kết thì họ sẽ bị người dân thay thế. Bản tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ cách đây 231 năm (4/7/1776) và bộ luật dân quyền (Bill of Rights) thể hiện trong 10 Tu chính án đầu tiên của Hiếp pháp Hoa Kỳ đã thể hiện rõ suy nghĩ và tinh thần của các nhà lập pháp Hoa Kỳ thời đó. [6]

Nguyên tắc thứ tám là vấn đề áp dụng thi hành luật. Điều này, ngược lại các nguyên tắc đã nêu trên, ngờ vực công dân nghiêm chỉnh thi hành hay tuân thủ luật. Do đó, phải có các biện pháp kiểm tra xem công dân có thi hành trách nhiệm của mình hay không, và nếu cần thì phải áp dụng các biện pháp mang tính bắt buộc. Những ai không tôn trọng luật pháp đối với nhà nước hay với những công dân khác sẽ phải chịu các cơ quan như cảnh sát, công tố viên, người thu thuế v.v… áp lực tuân hành.

Nguyên tắc thứ chín là nhu cầu thông tin rộng mở. Cho đến nay, lịch sử nhân loại đã dạy một bài học vô cùng quan trọng rằng chúng ta, dù rất muốn đi chăng nữa, cũng không thể dễ dàng tin tưởng sự thành thật của mọi người và mọi định chế cho đến khi nào có đủ bằng chứng là thế. Do đó, chỉ có tranh luận công khai và minh bạch để quan điểm của mọi phiá được trình bày chi tiết và rõ ràng thì mới có thể tìm ra sự thật tương đối. Hơn nữa, không có nhà nước nào muốn để cho giới truyền thông có hoàn toàn quyền tự do hành nghề nên thường đưa ra các biện pháp kiểm duyệt hay giới hạn quyền lực của truyền thông. Tuy nhiên, cho đến nay, người ta đều thấy nhu cầu chống lại các chế độ kiểm duyệt, tuyên truyền, giáo điều, các chủ trương giới hạn quyền tự do thông tin ngôn luận, hay sự lường gạt thẳng thừng xảy ra trong giới quyền lực và với cả công dân. Thêm vào đó, người ta cũng thấy rằng việc bảo vệ và đề cao lòng khoan dung, tranh luận công khai, và sự tôn trọng đối với các cơ quan truyền thông đa dạng và độc lập là vô cùng cần thiết để bảo đảm nguyên tắc hành xử căn bản của nền dân chủ. Đó cũng là nhu cầu đi tìm sự thật, đi tìm sự thoả thuận và đồng thuận. Chính ngành “đệ tứ quyền” này, và tính cách độc lập của nó, mới bảo đảm được phần nào giá trị kiểm soát hiệu quả đối với sự lạm quyền, tính thiên vị hay phân biệt đối xử của mọi người và mọi định chế.

Nguyên tắc thứ mười là tính chính trị cộng đồng. Dân chủ mở rộng cơ hội cho khối quần chúng tham gia các hoạt động chính trị qua các tổ chức tự nguyện, dân sự và chính trị địa phương. Đây được xem là biện pháp để cân bằng lại các nhà nước hành chánh hay chủ yếu phục vụ chính mình và các guồng máy của mình. Do đó, các nhóm dân sự góp phần làm nở rộ nền dân chủ thường là các tổ chức bảo vệ người tiêu thụ, các công đoàn, nghiệp đoàn, các nhóm quyền lợi (interest groups), các nhóm vận động chính trị (lobbying groups) v.v.... Các tổ chức dân sự, dù chẳng ai giao phó, nhưng tự nhận lãnh trách nhiệm kiểm soát, quan sát, hay áp lực lên chính quyền bởi vì họ ngờ vực nhà nước và guồng máy của nó. Trong một số trường hợp, người ta ngờ vực rằng chính quyền mãi lo phục vụ cho các nhóm giòng chính, các nhóm cử tri ảnh hưởng lên lá phiếu quyết định nhưng lại quên đi thành phần dân chúng “thấp cổ bé miệng”, các thành phần cần được quan tâm hỗ trợ hay thành phần bị đẩy ra vòng biên (marginalised groups).

Nói tóm lại, theo Sztompka, người ta sẵn sàng tin tưởng vào định chế và người khác nếu các tổ chức xã hội đang hoạt động có thể bảo đảm họ khỏi bị sức mẻ hay khủng hoảng niềm tin. Tin thường đi đôi với rủi ro mà hậu quả nhiều khi không thể ngờ được. Do đó, khi càng nghi ngờ sự khả tín và khả thi của các định chế (nhà nước hay các cơ quan công quyền…) để tìm ra các biện pháp hiệu quả và thực tiễn chống lại sự độc quyền hay lạm quyền của những cá nhân hay định chế thì nền dân chủ xây dựng được sẽ bền vững hơn và dễ tạo ra văn hoá tin tưởng nhau (culture of trust). Một xã hội mà người dân tin tưởng nhau và tin tưởng các định chế là một xã hội lý tưởng bởi vì tin là yếu tố quan trọng đối với hiệu năng của lãnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội dân sự v.v… Tin là một giá trị có tiềm lực rất cao, được xem là một trong những yếu tố quan trọng nhất của vốn xã hội (social capital). Ba quốc gia có nền kinh tế hàng đầu của thế giới là Mỹ, Nhật, Đức… được đánh giá là có văn hoá tin tưởng cao hàng đầu (tuy rằng niềm tin tổng quát, tức generalised trust, tại Hoa Kỳ đã sút giảm đáng kể trong nửa thế kỷ qua, theo nhận xét của một số chuyên gia). [7] Tóm lại, tin tưởng và ngờ vực đều quan trọng và cần thiết như nhau để bảo đảm và phát huy dân chủ, dù thoạt nhìn thì trông có vẽ nghịch lý hay mâu thuẫn.

Nếu dựa vào mười nguyên tắc trên để lượng giá nền dân chủ Việt Nam thì chúng ta có thể thấy rằng: 1) tính hợp pháp hay chính đáng của nhà nước Việt Nam là rất thấp; 2) về tái bầu cử thì tuy có trên thực tế nhưng vẫn chủ yếu là đảng cử dân bầu chứ người dân không được tự do ứng cử; 3) về tam quyền phân lập hay cân bằng kiểm soát thì hầu như biểu kiến vì đảng cầm quyền chi phối cả ba ngành tư pháp, hành pháp và lập pháp, nếu không phải là mọi mặt chính trị và xã hội; 4) nền pháp trị thì vẫn còn rất tuỳ tiện bởi chính những nhà làm luật có tuân thủ hay tôn trọng nó đâu, còn toà án độc lập thì vẫn chủ yếu nghe theo mệnh lệnh của giới chính trị như đã từng thấy rất nhiều qua phiên xử các nhà dân chủ; 5) về tính hiến pháp hoá và phê bình pháp luật thì: khi chưa có một tiến trình đúng đắn thích hợp trong việc thi hành luật (nguyên tắc 6), khi người dân chưa có quyền thực sự (nguyên tắc 7), khi người dân chưa ý thức và chưa thấy những người khác tuân thủ pháp luật (nguyên tắc 8), khi chưa có hệ thống thông tin rộng mở và chưa có nền truyền thông tự do, độc lập (nguyên tắc 9), và khi chưa có một xã hội dân sự đúng nghĩa (nguyên tắc 10), thì hiến pháp hay giá trị pháp luật cũng chủ yếu là phương tiện để các thành phần có quyền lực và tiền bạc diễn giải hay sử dụng mà thôi. Nói cách khác, nền dân chủ tại Việt Nam hôm nay, nếu thử nghiệm trên các điều kiện này, thì khó thể nào đạt tiêu chuẩn đủ cho bất kỳ một nguyên tắc nào.

Một trong những hậu quả nghiêm trọng của sự thất bại chính trị tại Việt Nam, hiện thân bởi nền dân chủ giả hiệu bây giờ, là làm mất niềm tin. Không biết hồi xưa ra sao, chứ chỉ cần nhìn kỹ các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá hay xã hội của mọi thành phần trong suốt 32 năm qua thì mức độ tin tưởng, hợp tác nhau chủ yếu vẫn là tượng trưng, biểu kiến. Ngược lại, mức độ từ nhẹ như nghi kỵ hay bất hợp tác cho đến nặng như chụp mũ hay đánh phá nhau, ngay cả đến từ khuynh hướng hay mục đích giống nhau, lại rất phổ biến.

Ở trong nước, người dân không thể tin nhau thì cũng không có gì khó hiểu cả bởi nhà nước Việt Nam chủ trương như thế, và áp dụng bao nhiêu thủ đoạn để bảo đảm kết quả là như thế. Từ lúc bắt đầu cầm quyền cho đến nay, họ đã cho ra đời không biết bao nhiêu thứ nghị quyết và nghị định, nào là về tôn giáo, truyền thông, hội họp, đi lại, v.v… hay Internet để chia (rẽ) cho dễ trị. Người dân phải đi qua không biết bao nhiêu thứ thủ tục rườm rà “xin cho”, đủ thấy sự kiểm soát chặt chẽ từng lời nói và hành vi của từng cá nhân trong xã hội đó. Nếu chỉ tụ tập mươi người mà còn không được, còn phải xin phép, dù với mục đích chính trị hay gì đi nữa, thì đủ biết mức độ lo ngại của chế độ về sự kết đoàn, kết hợp và tin tưởng của người dân như thế nào. Ngoài ra, khi tiềm lực của dân tộc đã cạn kiệt qua bao nhiêu cuộc chiến đã xảy ra và khi niềm tin của người dân đã bị tráo trở, lật lọng thì sự phục hồi niềm tin, nhất là trong lãnh vực chính trị và xã hội, đã trở thành yếu tố nhức nhối nhất trong công cuộc xây dựng dân chủ và phục hưng Việt Nam.

Xây dựng niềm tin là cả một quá trình lâu dài, bền bĩ và nhất là phải đồng tâm và thành tâm. Không có cách tắt nào để xây dựng niềm tin, bởi làm không khéo thì sẽ “dục tốc bất đạt”. Ngờ vực là cần thiết để bảo đảm và phát huy dân chủ, nhưng xây dựng dân chủ luôn cần sự tin tưởng của mọi thành phần dân tộc vào mục tiêu chung, vào hiến pháp, vào nền tảng công lý, vào định chế xã hội v.v…

Hơn bao giờ hết, các phong trào dân chủ cần nỗ lực hơn nữa để xây dựng niềm tin và tinh thần hướng thượng cho tương lai Việt Nam. Không tin tưởng nhau thì khó thể nào hợp tác, dù là ngắn hạn, khoan nói đến hợp tác lâu dài. Thiếu sự kết hợp chặt chẽ và lâu dài thì khó thể nào hoàn thành việc trọng đại. Sức mạnh sẽ đến khi nào các phong trào dân chủ tin nhau và hợp tác với nhau bằng những hành động thành tâm và sáng suốt của mình; và trên hết, biến sự ngờ vực thành nỗ lực xây dựng khung sườn chung cho tiến trình dân chủ hoá để người dân bớt hoang mang về thứ “dân chủ giả hiệu”. Nói tóm lại, chỉ khi nào người dân dành sự tin tưởng cho phong trào dân chủ thay vì “bán tin bán nghi” vào chế độ độc tài thì công cuộc xây dựng dân chủ và canh tân Việt Nam hẳn sẽ có nhiều hứa hẹn tích cực.

Melbourne 4/7/2007

--------------------------------------------------------------------------------
[1]Xin đọc tác phẩm Phong trào Duy Tân của Nguyễn Văn Xuân, Lá Bối in lần thứ nhất 1970, Sài Gòn, Việt Nam.
[2]Xin đọc Nhà nước và Cách mạng của V.I. Lenin (The State and Revolution, Selected Works, In Three Volumes, Vol 2, Progress Publishers, Moscow 1970), trang 289-362.
[3]Theo Lênin, giai đoạn thứ ba là cộng sản, là thời điểm cao nhất, tột đỉnh của nhân loại, và lúc này không còn Nhà nước gì nữa. Lenin cho rằng người ta đã rất quen với các điều lệ căn bản trong nếp sống xã hội nên họ không cần các biện pháp cưỡng bức nữa. Năng suất lao động của thời kỳ này đã trở nên quá hiệu quả nên con người chỉ cần tình nguyện “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Ông hình dung, hay nói đúng hơn, là tưởng tượng ra một xã hội hài hoà, hạnh phúc, đầy đủ vật chất đến độ con người không cần phải lo âu một thứ gì bởi vì luôn luôn có đầy đủ nên không cần lấy hơn những gì mình cần. Ông cũng nhấn mạnh đến những thay đổi cần có trong đầu con người, tức là ý thức cần có để có thể đem lại một xã hội giống cộng sản như thế.
[4]Xin đọc bài của giáo sư Ralph Pettman, ‘World Politics: an overview’, (Unpub.), 2007, trang 13.
[5]Xin đọc Tín: một lý thuyết xã hội học của Piotr Sztompka (Trust: A Socialogical Theory, Cambridge, Cambridge University Press, 1999), trang 139-143.
[6]Ngày 4 tháng 7 năm nay đánh dấu kỷ niệm lần thứ 231 ngày tuyên ngôn độc lập (TNĐL) của Hoa Kỳ. Thomas Jefferson, người soạn thảo bản tuyên ngôn này, hay John Locke, triết gia được xem là có tư tưởng chính trị ảnh hưởng nhất lên các nhà lập quốc, Tuyên ngôn độc lập cũng như Hiến Pháp Hoa Kỳ, đều thuộc trường phái chủ nghĩa phóng khoáng (liberalism). Cốt yếu của tư tưởng chính trị của CNPK thể hiện trong Tuyên ngôn độc lập là: mọi người được sinh ra bình đẳng, được tạo hoá ban cho những quyền bất khả chuyển nhượng, trong số đó có quyền được sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc; tuy nhiên, để bảo đảm các quyền này, người dân thành lập nên chính phủ và trao cho chính phủ quyền đại diện để điều hành đất nước; khi nào chính phủ không còn phục vụ cho các mục tiêu trên thì người dân có quyền thay đổi hay huỷ bỏ nó và thành lập chính phủ mới để bảo đảm sự an toàn và hạnh phúc của họ. Đến năm 1789, Hiến Pháp Hoa Kỳ mới được chính thức thông qua, và 2 năm sau đó (1891), Bộ luật dân quyền (Bill of Rights) đã được bổ sung vào hiến pháp thành 10 Tu chánh án đầu tiên.
[7]Hy vọng trong tương lai gần, tôi có thời gian để viết một bài riêng về đề tài Tin hay Tín. Muốn tìm hiểu thêm đề tài này, xin đọc các bài viết của Francis Fukuyama hay Robert D. Putnam. Fukuyama, Francis, ‘Confucianism and Democracy’, Journal of Democracy, Vol. 6, No. 2, April 1995b, pp. 20-33; Fukuyama, Francis, Trust: The Social Virtues and the Creation of Prosperity, New York, Simon & Schuster, 1995c.; Fukuyama, Francis, ‘Social Capital and Development: The Coming Agenda’, SAIS Review, Vol. XXII, No. 1, Winter-Spring, 2002, pp. 23-37; Putnam, Robert D., "The Prosperous Community: Social Capital and Public Life," American Prospect, Vol. 13, 1993, pp. 35-42; Putnam, Robert D., ‘Bowling alone: America’s declining social capital’ Journal of Democracy, Vol. 6, No.1, 1995, 65-78.

Một cuộc Cải Cách Ruộng Đất mới

Phan Văn Song

Việt Nam ngày nay: Đảng cộng sản thực thi một cuộc cải cách ruộng đất mới: Đuổi nhà, cướp đất của nhân dân

Nhắc đến miền Nam, Nguyễn khắc Toàn viết: "... Mô hình chế độ chính trị Nhà Nước Việt Nam Cộng Hòa trước đây, khi ở miền Bắc tôi đã được tuyên truyền rằng, đó là một loại hình thức chủ nghĩa thực dân kiểu mới do đế quốc Mỹ dựng lên và làm bàn đạp để tiến công miền Bắc và phe xã hội chủ nghĩa (XHCN) do Liên Xô và Trung Quốc là những nước đứng đầu. Và các cơ quan tuyên truyền của miền Bắc còn nói về kinh tế của miền Nam Việt Nam là thị trường để tiêu thụ hàng hóa tư bản ế thừa của các nước phương Tây. Ðây cũng là nơi Mỹ và các đế quốc nước ngoài vơ vét tài nguyên bóc lột sức lao động rẻ mạt của nhân dân về văn hóa, xã hội, giáo dục... thì mảnh đất màu mỡ ở miền Nam Việt Nam là nơi để gieo mầm nô dịch của đế quốc, ngoại bang nảy nở phát triển. Trên báo, đài phát thanh, sách vở giao khoa dạy trong các trường học ở miền Bắc đầy dẫy những tuyên truyền về một nhà tù lớn, một trại tập trung khổng lồ. Ở nông thôn thì nông dân bị kềm kẹp trong ấp chiến lược với lớp lớp hàng hàng rào dây thép gai bao quanh, với nhiều chòi có lính với súng đạn tối tân canh gác đêm ngày...”.

Hơn mười ngày nay, hàng loạt người từ các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long cũng như một số tỉnh miền Trung ồ ạt kéo về Sài Gòn đòi gặp các vị trách nhiệm Văn Phòng Quốc hội II để khiếu nại bị lừa gạt trong những vụ việc bồi thường đất đai.

Từ nhiều năm nay, các cơ quan giải tỏa đất đai cho quy hoạch xây cất, mở mang thành phố, mở mang xí nghiệp theo nhu cầu kỹ nghệ hóa đất nước và do xây dựng nhà cửa cho ngoại nhơn đầu tư vào Việt Nam (VN) cư ngụ, đất đai ở những vùng ngoại biên các thành phố lên giá vùn vụt. Một miếng ruộng nho nhỏ đã biến thành mỏ vàng. Người nông dân có đất đai ở trong vòng quy hoạch được đề nghị bồi thường một - đương nhiên món tiền bồi thường này không thỏa đáng, vì còn dưới xa giá trị đích thực về công sức khai thác, về lợi tức thu hoạch của sở hữu chủ - nhưng liền đó, mảnh vườn, miếng đất mà người nông dân “khổ chủ” nghĩ rằng chánh quyền sẽ xây cất theo nhu cầu phát triển đất nước, thì … được bán lại cho Tây, cho Tàu với giá cao gấp trăm, gấp ngàn lần giá bồi thường. Nông dân thấy mình bị đảng viên có chức có quyền địa phương lừa đảo trắng trợn, nên ức lòng đi kiện. Thế là đã xãy ra hàng hàng lớp lớp dân oan kéo nhau đi Hà nội khiếu kiện, rồi bao nhiêu cảnh thương tâm xảy ra cho những người dân bị đuổi nhà cướp đất phải ăn dầm nằm vạ tháng này qua năm khác ở Vuờn Hoa Mai Xuân Thưởng, và ngày nay, tình trạng này đang tiếp diễn ở Sài Gòn.

Cải cách ruộng đất mới theo định hướng XHCN

Hồi năm 1952 đến 1956, Đảng cộng sản VN (ĐCSVN) phát động chiến dịch Cải cách ruộng đất để đánh địa chủ cường hào, lấy đất đai của địa chủ đem chia cho bần cố nông.

Sau đợt “sửa sai” năm 1957, Đảng “hợp tác xã hóa” đất đai để tước quyền làm chủ của bần cố nông.

Sau 1975, đảng cộng sản vào Nam, định làm lại cuộc Cải cách ruộng đất nhưng không thực hiện được vì chánh sách “hợp tác xã hóa” thất bại. Đảng cộng sản chỉ đánh được tư sản, tiểu thương, tiểu chủ, tước quyền tư hữu để đem tài sản cướp đoạt được của nhân dân về cho đảng sở hữu, mà thực tế là làm giàu cho đảng viên. Ngày nay, nhờ đầu tư ngoại quốc vào, nhà cầm quyền tìm mọi cách vừa thu mua rẻ đất đai (mà họ che đậy dưới cái vỏ “giải toả, đề bù”) của nông dân, vừa trắng trợn cướp đoạt, bán lại cho tư bản để làm giàu cho đảng viên.

Lần này người dân thật sự trở thành bần cố nông trắng tay. Đảng cộng sản vốn là “Đảng Lao động” nên lột sạch sành sanh nông dân, tiểu chủ, và đảng cộng sản trở thành địa chủ, tư sản, tư bản, cả mại bản.

Nếu xem đây là cuộc Cải cách ruộng đất, thì lần này Đảng sẽ biến nông dân trở thành công nhân rẻ tiền phục vụ cho tư bản ngoại quốc, vì Việt Nam, thành viên thứ 150 của WTO, đang cần một “giai cấp” công nhân rẻ tiền và dễ sai khiến.

Chuyền giai cấp nông dân thành giai cấp công nhân

Phát triển Việt Nam ngày nay, theo chiêu thức “Kinh tế thị trường”, tức là tạo những công nhân cho một công nghệ gia công lắp ráp, công nhân may mặc, dán hồ đế giày thể thao… một công nghệ không cần chất xám, thiếu kỹ thuật, thiếu sáng tạo, thiếu khoa học mũi nhọn. Và nguy hiểm hơn, với chiêu thức “Kinh tế thị trường” thòng thêm cái đuôi “Định hướng xã hội chủ nghĩa”, tức là làm kinh tế một cách bừa bãi, tùy tiện, độc đoán, như mua của nông dân với giá rẻ, bán với giá đắt cho ngoại quốc, chiêu thức này sẽ lột sạch sành sanh nhân dân. Tất cả những kẻ “ăn trên ngồi trước” đều là cán bộ đảng viên cộng sản, miệng lúc nào cũng nói xoen xoét “làm cho Việt Nam”, nhưng không bao giờ họ thật sự “làm cho người Việt Nam, cho dân Việt Nam”. Nếu là cấp lãnh đạo lương thiện, có chút liêm sĩ, khi nói bồi thường theo giá thị trường, thì phải giải quyết đúng đắn là trả bù khoản tiền sai biệt cho những chủ nhơn đất đai bị quy hoạch khi giá được bán lên cao.


Công nhân phục vụ giai cấp thống trị trung gian và bảo vệ giới tư bản nước ngoài

Đảng cộng sản Việt Nam trên thực tế đang cai quản đất nước Việt Nam, rất cần có một giai cấp công nhân rẻ tiền để phục vụ các nhà đầu tư ngoại quốc. Điển hình là ông Nguyễn Minh Triết, người Chủ tịch vô trách nhiệm, rất thờ ơ về điều kiện lao động của công nhânViệt Nam. Suốt thời gian rao hàng ở Hoa Kỳ, ông đã trả lời bao nhiêu phỏng vấn và ký kết trong nhiều hợp đồng thương mại, nhưng chưa bao giờ nghe ông ta tuyên bố một câu về tình trạng làm việc cũng như đìều kiện lao động của công nhân Việt Nam mà ông đang sử dụng quyền đại diện.

Trước khi ông Nguyễn Minh Triết sang Mỹ, là người đứng đầu nhà nước, chắc chắn ông có theo dõi, biết rất rõ là từ đầu năm 2006 và cả đầu năm 2007, ở Việt Nam, đặc biệt ở ngoại ô Sài Gòn cũng như ở tỉnh Bình Dương - quê hương chôn nhau cắt rún của ông - đã liên tục diễn ra bao nhiêu cuộc biểu tình. Những người biểu tình này chỉ đòi hỏi quyền lợi chánh đáng, quyền lợi đương nhiên được hưởng, của bất cứ công nhân một nước bình thường nào có đầy đủ chủ quyền.

Ông Nguyễn Minh Triết ký kết và “hồ hởi” mang về Việt Nam… những lời hứa sẽ đầu tư 11 tỷ của các doanh nhơn Mỹ. Chúng tôi thử hỏi ông hứa cung ứng những gì cho doanh nhân Mỹ để họ hăm hở mang vốn vào Việt Nam ? : - Óc sáng tạo của người Việt Nam? - Kỹ thuật và tay nghề người Việt Nam? - Việt Nam có nhiều nhà khoa học lãnh giải Nobel hoặc nhiều bằng sáng chế?

Tất cả đều không phải, vậy ông hứa những gì ? Phải chăng ông đã hãnh diện hứa chắc chắn như đinh đóng cột, là công nhân Việt Nam rất cần cù, ngoan ngoãn, dễ sai, dễ bảo mà lương thì rẻ nhất thế giới, vì luôn luôn có một bộ máy công an đắc lực, một công đoàn “hữu hiệu”, nên công nhơn không thể đình công hay thắc mắc gì hết?!.

Một nghiệp đoàn công nhân, sản phẩm của Đảng cầm quyền, là một thứ quái thai đối với các nước văn minh trên thế giới ngày nay. Loại quái thai này chỉ sanh tồn ở những nước cộng sản. Ở Pháp, nghiệp đoàn CGT trực thuộc Đảng Cộng sản Pháp đấy, nhưng Đảng Cộng sản Pháp có lúc nào được dân cho cầm quyền đâu?

Nên nhớ, chức năng của một nghiệp đoàn công nhân là bảo vệ người công nhân, ấy thế mà ở Việt Nam ngày nay, Công đoàn Lao động trực thuộc Mặt Trận Tổ Quốc - một ngoại vi của Đảng cộng sản Việt Nam - Đảng cầm quyền. Thử hỏi công đoàn này làm sao bảo vệ công nhân lao động được hữu hiệu? Khi công nhân được nhận vào làm việc, ai là người ký hợp đồng với giới chủ nhân tư bản nước ngoài? Bằng chứng là ngày hôm nay, ở Việt Nam, những người tham gia các nghiệp đoàn tự do và độc lập (ngoài công đoàn của Đảng Cộng sản) đều bị giam cầm, bị truy nã hay phải lưu vong.

“Luật” của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam kết tội thành lập một nghiệp đoàn công nhơn đoàn độc lập thành tội gián điệp phản quốc, có thể bị xử tử hình, trong lúc Hiến Pháp Việt Nam cho phép người dân được tổ chức hội đoàn.

Trong các cuộc phỏng vấn - phỏng vấn gì mà phải gởi 15 câu hỏi trước - không thấy anh nhà báo nào đặt câu hỏi vể các điều kiện làm việc của công nhân tương lai ở Việt Nam. Tất cả các hợp đồng thương mại được ký kết, hầu hết là hợp đồng đầu tư. Đầu tư kỹ nghệ là mở nhà máy, thế mà không thấy một điều khoản thương thuyết nào về điều kiện của công nhân lao động? Vì mở nhà máy tức nhiên là cần công nhân. Những ai quan tâm về nhân quyền đều thất vọng, không nghe ông Triết cùng phái đoàn hùng hậu và ưu việt của ông nêu những câu hỏi cần thiết như: Phẩm chất về kỹ thuật? Chuyên ngành? Công nghệ nặng? Công nghệ chế biến? Dịch vụ? Chức năng sinh ngữ? Hạ tầng kỹ thuật? Chức năng huấn luyện (hệ thống giáo dục, tiểu học, trung học, đại học, đại học chuyên nghiệp, bản năng hội nhập kỹ thuật …). Lương tối thiểu là bao nhiêu? Số giờ lao động bao nhiêu? Đầu tư chất xám thế nào? Huấn nghiệp và luyện tay nghề ra sao? Ngày nghỉ, thời gian huấn luyện, quỹ hưu trí, quỹ xã hội, ai trách nhiệm, và, bao nhiêu phần trăm của chủ, bao nhiêu phần trăm của nhà nước Việt Nam, bao nhiêu của công nhân...

Bấy nhiêu câu hỏi thường thức mà người đi thương thuyết cho một hợp đồng thương mại thường phải được đặt ra, thế mà ông Triết lẫn phái đoàn ưu việt của ông phớt lờ. Tất cả những thắc mắc đều được ngụy trang dưới một lá chắn mỵ dân do Đảng ra lịnh cho giới truyền thông thuộc phe nhà: “Ông Triết chắc chắn là người tử tế, vì có một giọng nói đầy chất mộc mạc của người Nam bộ”. !

Nếu ông Triết thực sự là dân chịu chơi theo phong cách miền Nam, biết “U-Tê-Cu” (Uống Trà Quạu) biết hiên ngang đứng thẳng, thì trước khi đi Mỹ, ông Triết đã hổng thèm xin phép anh Ba “Tàu”. Đằng này, sau khi qua Bắc Kinh cúc cung triều kiến, ông còn phải tiếp viên Tướng của quân đội Tàu Cộng, rồi… ông mới đi Mỹ. Ông yếu quá! Phong cách này đâu phải của dân chịu chơi Nam bộ! Ông khéo đóng kịch và “chôm” giọng nói chất phác của người dân Nam Bộ để hoàn tất vở kịch mỵ dân và rao hàng. Đúng là “nói dzậy mà hổng phải dzậy”. Thảo nào dân Việt nam bị ông bán dễ dàng, bị ông lần lượt đưa vào tròng để tiếp tục làm đủ trò nô lệ: thợ nô lệ theo thợ, gái nô lệ theo gái, trai nô lệ theo trai, con nít nô lệ theo con nít, nông dân nô lệ theo nông dân, có vườn bán vườn, có đất bán đất, thiếu nữ nhà lành vì nghèo phải “bày hàng” cái vốn của cha mẹ sanh hy vọng kiếm tấm chồng Đại Hàn, Đài Loan,… để giúp đỡ cha mẹ, còn thuộc hạ đảng cầm quyền Ba Đình thì nô lệ đô - la, tập tành tiêu thụ theo giai cấp thượng lưu, nào là xe hai cầu, điện thoại viễn liên, máy hình điện tử… cả bọn tranh nhau tham nhũng để có, để mua, để xài đồ “sịn”, tức tiêu dùng hàng ngoại nhập.

Ông Nguyễn Minh Triết không phải là một nhà lãnh đạo thật lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu dân tộc. Ông thiếu cái đạo đức mà tôi gọi là đạo đức cách mạng “cho dân và vì dân”. Ông chẳng bao giờ có được cái đạo đức cách mạng, bởi ông là người của Đảng cộng sản. Mà Đảng cộng sản có bao giờ yêu dân, yêu nước đâu? Đảng cộng sản chỉ yêu Đảng cộng sản và chỉ phục vụ Đảng cộng sản thôi. Bằng chứng, nếu yêu thực sự dân Việt Nam thì làm sao có Cải Cách Ruộng Đất những năm 1953 -1956, đấu tố oan ức mấy trăm ngàn nạn nhân. Làm sao có thảm trạng Tết Mậu Thân 1968 - chà đạp cam kết đình chiến, xua quân đánh chiếm, thảm sát đồng bào trong những ngày thiêng liêng nhứt của dân tộc Việt Nam - với trên 5.000 thường dân bị giết hại, chỉ riêng ở Huế. Nếu có nhân tính thì đâu bày ra cảnh “đuổi người ra biển để cướp vàng” vào những năm 1978/1979, và ngày nay, lại tiếp tục “cướp đất cướp ruộng” để tư hữu hóa Đảng và thuộc hạ?!.

Ông Nguyễn Minh Triết và ĐCSVN nay phải hoàn toàn trách nhiệm về các mặt hàng, về gạo, về thủy sản xuất khẩu bị nhiễm độc. Tất cả chỉ vì lãnh đạo tồi, quản lý dở, giải quyết tùy tiện, bừa bãi, độc tôn, độc đoán. Bởi khăng khăng ngoan cố vì tham quyền cố vị, không chấp nhận chế độ đa đảng. Bởi không có một hay nhiều đảng đối lập với đảng cầm quyền để được kiểm soát và tự kềm chế, nên đảng cộng sản Việt Nam tự tung, tự tác, xem trời bằng vung, tự cho mình là đỉnh cao trí tuệ loài người, cho nên chỉ mới hơn ba mươi năm thống trị đất nước, trong hòa bình trong những điều kiện lý tưởng để xây dựng và phát triển, mà từ nền tảng đạo lý truyền thống ngàn đời của dân tộc đang trên đà hủy diệt, đến quê hương lâm cảnh điêu tàn. Trong đối ngoại thì biên giới bị xói mòn, cắt đất liền, cắt hải phận cúc cung dâng hiến Thiên triều để được che giữ mạng sống cho đảng. Đối nội thì phá rừng bừa bãi, sử dụng vô tội vạ các loại thuốc chống rầy, thuốc chống muỗi, DDT, phân hóa học... làm hư đất, không xử lý chất thải hoá chất từ hàng ngàn xí nghiệp công kỹ nghệ tuôn xả, làm hủy hoại môi sinh, môi trường, gây nên vô vàn dị bịnh. Bệnh AIDS, bệnh sốt xuất huyết vẫn hằng năm hoành hành, cướp đi không biết bao nhiêu sanh mạng trẻ con; tệ nạn xã hội đầy dẫy, con trẻ, đang tuổi đến trường, đi bán thuốc lá, bán vé số để phụ giúp cha mẹ. Tuần qua, các trường công lập Sài Gòn tuyên bố tăng giá học phí, mỗi học sanh nay phải trả 400.000 đồng một tháng, trong lúc Nhà Nước bắt tay thoả hiệp với các hãng tư nhân ngoại quốc chỉ trả cho công nhân 800.000 đồng lương tháng. Lương người cha công nhân chỉ có 800 ngàn (50 US $) mà phải trả học phí cho mỗi đứa con 400 ngàn, chúng tôi không dám nghĩ đến tình trạng của một gia đình công nhân có nhiều con!...

Mới bước vào WTO mà hàng hóa đã bị trả lại vì chứa đầy chất độc, không đúng tiêu chuẩn. Tất cả tiềm lực thương mại chỉ còn vỏn vẹn có mỗi chiêu bài “Công nhân với đồng lương rẻ”, hàm nghĩa là công nhân sẽ sẵn sàng làm nô lệ.

Chế độ miền Nam đã mất từ hơn ba mươi năm, hiện Đảng Cộng sản Hà nội đang thao túng quyền thống trị trên ba miền đất nước, vậy, khi đọc đoạn viết của ông Nguyễn khắc Toàn, thay cho cách ĐCSVN nói về miền Nam trước đây, chúng ta có cảm nghĩ ông Toàn đang tả đúng hình ảnh của Việt Nam ngày nay dưới bàn tay cai trị của ĐCSVN:

“Mô hình chế độ chính trị là một loại hình thức chủ nghĩa thực dân kiểu mới do đế quốc Mỹ dựng lên. Việt Nam là thị trường để tiêu thụ hàng hóa tư bản ế thừa của các nước phương Tây. Ðây cũng là nơi Mỹ và các đế quốc nước ngoài vơ vét tài nguyên bóc lột sức lao động rẻ mạt của nhân dân về văn hóa, xã hội, giáo dục... thì mảnh đất màu mỡ ở Việt Nam là nơi để gieo mầm nô dịch của đế quốc, ngoại bang nảy nở phát triển ”.

Công nhân ngày nay phải đình công để đòi cho kỳ được những điều kiện làm việc đàng hoàng với chủ nhân ngoại quốc. Nông dân ngày nay đang đi kiện Nhà nước, vì đất đai đã bị cướp đoạt ngang ngược. Hôm nay công nhân nô lệ và nông dân bị cướp đất chưa có điều kiện và tổ chức để cùng sát cánh tranh đấu. Công nhân và nông dân còn lập luận riêng rẽ, mỗi thành phần chỉ nhìn thấy và đòi hỏi những quyền lợi riêng cho mình. Đây chỉ mới là những đòi hỏi về công lý và công bằng, còn quan điểm đấu tranh chính trị về Dân chủ và Nhân quyền chưa được đặt ra.

Nhưng hãy coi chừng ngày mai, những người tranh đấu cho dân chủ, sỹ phu, trí thức, thực sự yêu nước có ý thức đấu tranh chính trị sẽ nói chuyện được với giới công nhân đang bị bóc lột sức lao động như người nô lệ, sẽ bắt tay được với dân oan bị ăn cắp, bị cướp đoạt đất đai. Và ngày ấy, ngày ấy… sẽ không xa lắm đâu!

Sẽ có một cuộc đấu tranh chính trị toàn bộ của giai cấp bị trị với giai cấp thống trị. Vì, sau cuộc Cải cách ruộng đất mới này, ở Việt Nam sẽ rõ ràng có hai giai cấp và một cuộc đấu tranh giai cấp phải được diễn ra. Đảng cộng sản lần này đứng vào vai trò của kẻ thống trị, kẻ thù của giai cấp Công-Nông. Và, Đảng cộng sản ngày nay đang vừa ở cả tư thế của các quan thầy Thuộc địa, Thực dân (cướp đất của nông dân) và cũng vừa ở cả vai trò của Đế quốc (bảo vệ tư bản ngoại nhân, bóc lột sức lao động của công nhơn bản xứ).

Vậy, Đảng cộng sản:

- Hãy mau mau đối thoại với nhân dân để sám hối, may ra còn kịp, trước khi bị đào thải.

- Hãy mau mau trả lại đầy đủ quyền công dân cho nhân dân Việt Nam.

- Hãy mau mau trả quyền quản lý đất nước cho nhân dân Việt Nam.

Đừng chần chờ nữa!

Hồi Nhơn Sơn, ngày 7 tháng 7 năm 2007

Góp ý với bài viết về Giáo dục của Hoàng Xuân Ba

Trần Quang Hạ

Không có tư tưởng Hồ Chí Minh, không có chủ nghĩa khoa học Maxist Leninist?
Nguồn: panoramaproductions.net

Những năm sau 75, tất cả các trường học tư miến Nam đều bị đưa vào quản lý nhà nước. Các trường học của giáo hội, thậm chí những trường mẫu giáo mầm non cũng chung số phận. Nhà nước quản lý giáo dục là quản lý máy cái sản xuất ra con người mới xã hội chủ nghĩa (XHCN). Máy cái nầy bắt đầu bằng các lớp mầm non và đầu kia là ngỏ ra các trường đại học. Khâu giáo dục là then chốt; dứt khoát không để tư nhân hay đoàn thể làm được.

Kết quả sau 30 năm, những con người mới càng ngày càng tệ; Đảng có khối người sẵn sàng bán linh hồn để bon chen vào hệ thống quyền lực, nhưng thiếu những con người trung thực, dám suy nghĩ độc lập để thực sự có ích cho đất nước. Một trong các nguyên nhân là bệnh thành tích, như tác giả Hoàng Xuân Ba phân tích, tuy nhiên ở đây tôi chú ý đến cách trả lời của bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân để thử thẩm định nỗ lực của ông trong cải cách giáo dục.

Trong lá thư đăng báo Tuổi Trẻ ngày 02/07/2007, ông Nhân cho rằng nguyên nhân gây ra không chỉ ở ngành giáo dục, ở nhà trường, ở thày cô giáo mà còn ở hằng chục triệu phụ huynh là đồng tác giả. Ông dẫn chứng chuyện buôn lậu: Vì có người thích mua hàng rẻ, nên mới có người buôn lậu. Tương tự như thế, vì phụ huynh muốn con em học giỏi, vì xã hội tạo sức ép nên mới có bệnh thành tích (?). Tôi không hiểu có phải ý ông kết luận rằng muốn chống buôn lậu, phải chống người chuộng hàng tốt, rẻ; muốn chống bệnh thành tích, phải cải tạo tâm lý xã hội, điều chỉnh lại ước mơ của các cháu học sinh?

Phụ huynh nào chẳng muốn con em học giỏi, nhưng họ muốn con em mình thực sự được rèn luyện, đạt thành tích có chất lượng, không ai muốn các em mang về một thành tích gian dối, một tấm bằng giả mạo. Lẽ đơn giản chính phụ huynh là người bỏ tiền thật cho con em ăn học và mai đây chúng không thể dùng khả năng giả đánh đố với cuộc sống.

Cách nói của ông Nhân phản ánh một não trạng rất cộng sản: Đảng lãnh đạo không có gì sai. Căn bịnh thành tích là xấu, nhưng không hoàn toàn do cơ chế mà còn do lỗi ở xã hội. Cách nói nầy chứng tỏ ông Nhân không can đảm nhận khuyết điểm; đẩy trái bóng qua chân người khác; không đụng vào cơ chế độc tài ngành ông lãnh đạo. Việc trả lời thư độc giả trên báo Tuổi Trẻ chỉ thực sự "vô tiến khoáng hậu" khi nào ông ta nhận lỗi cơ chế, và đưa ra phương cách sửa chữa cụ thể. Không làm việc nầy, hứa hẹn 10 năm giáo dục Việt Nam sẽ cất cánh chỉ là hưa hẹn suông, nếu không nói là láo.

Bệnh thành tích có mọi nơi, không riêng gì ngành giáo dục. Nó cùng tuổi với cuộc cách mạng vô sản Xô Viết, khi người ta muốn thay thế hiệu quả cạnh tranh bằng thi đua. Để tăng năng suất, lãnh đạo phát động các đợt thi đua; để ấn định mức độ phải làm, người ta đặt ra chỉ tiêu hoàn thành.Thi đua chào mừng các ngày lễ lớn, thi đua lập công dâng Đảng. Trong thời chiến tranh, đến gần ngày 2/9 hay 19/5, mức độ chém giết trên chiến trường càng khốc liệt do những đợt phát động lập công chào mừng ngày độc lập hay mừng ngày sinh nhật bác.

Hệ thống bình chọn 5 năm tiên tiến, chiến sĩ thi đua... kèm tiền thưởng chính là áp lực cấp dưới nói dối hàng loạt. Cá nhân nào báo cáo thật, sẽ ảnh hưởng tất cả những thành viên còn lại. Một người không đạt "tiên tiến", cả đơn vị bị cắt tiền thưởng. Nhiều thày cô giáo có lương tâm không muốn nói dối, nhưng không thể không nghĩ đến món tiền thưởng bù đắp vào đồng lương ít ỏi, hoặc nguy cơ bị cho thôi việc vì làm hại tập thể. Rõ ràng đó là hệ thống phản động và tàn nhẫn nhất mà người cộng sản có thể nghĩ ra, chỉ để đánh bóng cho tài lãnh đạo và hoàn toàn có hại cho xã hội.

Dù được chú ý thế nào, tôi không tin tưởng ông Nhân làm ra phép lạ; nhưng tôi lạc quan vào hệ thống giáo dục song song như tác giả gợi ý. Hệ thống nầy nằm ngoài tầm kiểm soát của Đảng. Học sinh/sinh viên đang cố gắng trau dồi chuyên môn thay vì phấn đấu lập thành tích với Đoàn, với Đảng. Không có tư tưởng Hồ Chí Minh, không có chủ nghĩa khoa học Maxist Leninist. Những con người mới đang được tạo ra, nhưng không phải để xây dựng cái chủ nghĩa không tưởng, bịp bợm mà là để đánh dấu chấm hết vào chuyện dài những giấc mơ của người cộng sản.

Một Thời Khói Lửa

Trần Khải

Đã hơn ba thập niên từ ngày Cuộc Chiến Việt Nam kết thúc. Thời gian 32 năm là trung bình nửa đời người, nhưng rất nhiều chiến binh một thời ra trận đó đã không sống đủ tới thời lượng này. Chết trẻ là số phận của rất nhiều thanh niên Việt, những người một thời ra trận, một thời liều thân, một thời gãy súng và một thời nhìn lại. Và bây giờ, may mắn cho những người còn nửa phần sau cuộc đời để hồi tưởng.

An Lộc Ðịa Sử Ghi Chiến Tích, Biệt Cách Dù Vị Quốc Vong Thân
Nguồn: bcdlldb.com

Tôi bắt đầu có chớm suy nghĩ về cuộc chiến vào năm Đệ Ngũ, khi còn ngồi học ở Trường Trung Học Trần Lục, Tân Định, Sài Gòn. Bây giờ hình như trường đổi tên là Trường Đồ Chiểu, hay Trường Nguyễn Đình Chiểu. Lớp Đệ Ngũ là cách gọi ngày xưa, nghe hệt như kiểu Tàu, với đủ thứ cách dùng chữ Hán-Việt thời đó. Bây giờ gọi là Lớp 8, nằm trong hệ trung học 12 năm.

Trong lớp lúc đó, khoảng giữa thập niên 1960s, tuổi thơ hầu hết không biết gì về chiến cuộc. Đó là những cái gì rất xa, ngoài cổng trường. Ngay cả các biến động như chuyện đảo chánh, thì chỉ là chuyện rất thỉnh thoảng mới nghe, mà nghe như chuyện người khác. Hay chuyện biểu tình thì nghe thường hơn, vì có khi bị các anh sinh viên xách động biểu tình; tôi nhớ lúc đó, có những lúc trường bãi khóa, đóng cửa, học trò ra về thì tôi và tên bạn nhóc tì về tham dự các cuộc biểu tình gần Chùa Xá Lợi, nghĩa là đạp xe đạp về gần nhà, gửi xe ở nhà tên bạn nơi đường rầy xe lửa, rồi mới theo biểu tình vì ham vui, vì nhóc tì mà biết gì. Thời đó còn có chuyện sinh viên học sinh tự do biểu tình mà không sợ bị cảnh sát bắt, không sợ bị đuổi học.

Trong lớp Đệ Ngũ có một nhóm mấy bạn thuộc loại to con lớn xác, ưa ngồi chung một băng ghế phía sau. Nhóm khoảng 5 bạn này to con có lẽ vì lớn hơn trung bình lứa của chúng tôi một hay hai tuổi. Các bạn này lại ở chung trong một xóm đạo đường Trương Minh Giảng, sau đổi tên là đường Trương Minh Ký. Nghĩa là nguyên băng, nhóm bạn này là Bắc Kỳ di cư. Không phải nhắc chuyện địa phương là kỳ thị gì, nhưng vì lúc đó người Bắc di cư (tất nhiên là di cư 1954, không phải Bắc Kỳ 1975) thường tìm cách sống gần nhau, đặc biệt nếu theo cùng đạo Công Giáo. Chuyện tự nhiên, vì họ cũng chia sẻ những thói quen như nhau. Sau đó mới có những xóm gần như thuần Bắc Kỳ như xóm Vườn Xoài, Xóm Nhà Thờ Ba Chuông, vân vân… mà những khi tôi đạp xe đạp xuyên qua các xóm này để chạy đường hẽm, lối tắt sang khu Hòa Hưng ở đường Nguyễn Thông và Lê Văn Duyệt (sau có tên Cách Mạng Tháng 8) thì nghe nói chuyện râm ran quanh mình toàn là giọng Bắc. Với một tên học trò như tôi thì thấy giọng Bắc là tự nhiên, vì giọng mình cũng là lai lai rồi - ba tôi Hà Tĩnh, mẹ Nha Trang, sinh tôi ở Sài Gòn. Nhưng khi những giọng Bắc này trở thành ký ức, và bây giờ nhớ lại thì lại trở thành những âm vang khó tìm. Thực sự, giọng Bắc Kỳ 1975 nghe không giống gì như giọng Bắc xưa. Không phải tôi có ý kỳ thị gì chuyện giọng nói 75 hay 54, mà thực sự các giọng khác nhau nhiều lắm.

Một hôm, nhóm bạn ngồi hàng ghế sau của lớp Đệ Ngũ đó biến mất. Người ta không thấy các bạn này nữa. Tôi cũng không nghe thầy cô nào nói về các bạn đó, một cách công khai trong lớp, dù rằng hiện tượng bỗng nhiên biến mất vài tên học trò đâu có phải là chuyện thường. Tôi chỉ nghe tên bạn cùng lớp, nhưng cùng xóm Vườn Xoài với mấy bạn kia, nói rằng các bạn đó đi lính Nhảy Toán, với giấy tờ khai tăng tuổi. Khoảng đó là vài năm sau khi ông Diệm sụp đổ, cuộc chiến căng thẳng hơn, nhưng chưa tới dữ dội bùng nổ như thời 1968 Mậu Thân sau này. Đó là lần đầu tiên tôi nghe chữ Nhảy Toán. Tên bạn nhóc tì đó có lần lại nói chữ khác về nhóm bạn này, đó là lính Nhảy Bắc. Lúc đó tôi mới hiểu sơ sơ về công việc mà các bạn kia lựa chọn. Những tên học trò Đệ Ngũ to con, nói giọng thuần Bắc Kỳ, một hôm lên đường nhảy ra Miền Bắc.

Nhưng chính xác, sau này đọc, tôi mới được đọc danh xưng chính thức như Biệt Cách Dù, hay Biệt Cách Nhảy Dù, hay Nha Kỹ Thuật, Lôi Hổ, và nhiều chữ khác. Những danh xưng chỉ cho các đơn vị khác nhau, nhưng đều là cảm tử quân nhảy vào sau phòng tuyến địch.
Vài năm sau chuyện đó, tôi được nghe kể các bạn ngồi hàng ghế sau đó đã cùng tới nhà vài vị thầy cô để chào từ giã trước khi rời trường để vào lính Nhảy Bắc. Trong những thầy cô trường Trần Lục được các bạn này tới từ giã, tôi nghe có cô Oanh dạy Việt Văn và thầy Giáp dạy Lý Hóa, một cặp vợ chồng cùng dạy trong trường và được học trò ưa chuộng. Cả hai thầy cô cũng là Bắc Kỳ 1954, nhưng cư ngụ ở ngoài các xóm quần cư nói trên.

Từ đó về sau, tôi không nghe tin gì về các bạn đó nữa. Và trí nhớ cũng nhạt dần, với quá nhiều chuyện để lo trong đời. Những bạn đó chỉ là vài giọt trong một đại dương đầy đau khổ của cõi này.

Năm ngoái, tôi lại chợt nhớ tới các bạn lớp Đệ Ngũ này, khi nghe Đài RFA. Bài tường thuật nhan đề “Sự bất công với một đạo quân, 30 năm sau ngày tàn cuộc chiến” loan đi ngày 30/04/2006, do phóng viên Việt Long, kể về một hội nghị do Trung Tâm Việt Nam của đại học Texas Tech tổ chức tại Lubbock, Texas hồi cuối tháng 3-2006 với “các chuyên gia, sử gia và nhân chứng người Mỹ người Việt…”

Trong đó, bản tin viết,
sử gia tiến sĩ James Willbank, nguyên là một sĩ quan cố vấn Mỹ ở mặt trận An Lộc, nói về các đơn vị Việt Nam Cộng hoà chiến đấu ở nơi này.

Ông nói rằng giữa những đổ nát hoang tàn ở chiến trường An Lộc, người chiến sĩ VNCH giữ vững tinh thần chiến đấu cao, thấy được rằng họ giữ một vai trò quan trọng trong công cụôc phòng thủ đất nước của họ. Trận An Lộc là dịp tốt nhất để nhận định về sức chiến đấu của một binh đội trong những tình huống ác liệt nhất của chiến tranh.

Các đơn vị VNCH có những mức độ thiện chiến khác nhau, nhưng nhìn chung đều hoàn thành nhiệm vụ. Ông đặc biệt ca ngợi Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù vô cùng dũng cảm, đã đánh suốt một đêm để tái chiếm hơn nửa thành phố bị địch chiếm giữ, chịu tổn thất cao, nhưng không bỏ sót một tử sĩ nào mà không chôn cất. Lữ đoàn Nhảy dù đặc nhiệm tham chiến ở nơi này tỏ ra thiện chiến ở mức tuyệt đỉnh. Họ gồm toàn những chiến binh từng được huấn luyện kỹ càng, dạn dày chiến trận, dũng cảm xông pha giữa một chiến trường mà đối phương hơn hẳn về hoả lực và quân số…” (hết trích)

Và rồi tuần này, lại có dịp nhớ tới các bạn năm xưa, khi cầm cuốn tuyển tập Đời Chiến Binh của Biệt Cách Dù. Bùi ngùi, thương cảm. Một trí nhớ cũng đầy sương mù rồi.

Tôi không phải sử gia, không phải tiến sĩ, và thời đó cũng chỉ là một cậu bé chưa đủ trí nhớ và bén nhạy để sau này tự nhận làm nhân chứng, chỉ có vài mẩu trí nhớ cho những người bạn Nhảy Bắc đó, một thời ngồi hàng ghế sau của lớp Đệ Ngũ B2 ở Trường Trần Lục.

Không có gì đoán nổi rằng các bạn này còn sống. Bởi vì, sau này đọc, gần như tất cả các chiến binh Nhảy Bắc đều bị CSVN bắt. Và nhiều thập niên trong tù không chắc gì các bạn này trải qua đầy đủ an lành. Không chắc gì các bạn tôi đã về được Xóm Vườn Xoài của thời thơ ấu, nơi tôi và nhiều bạn nhóc tì thường đi xe đạp từ ngõ Trương Minh Ký tồi chạy qua nhiều ngõ ngoằn ngèo ra mép đường xe lửa, đạp qua một chiếc cầu kênh nước đen để qua sau nhà ga Hòa Hưng.

Chắc chắn, tôi tin, nếu các bạn đó may mắn rời các nhà tù phía Bắc để về lại Vườn Xoài, xóm mà tôi cứ nhớ là thuần Bắc Kỳ di cư dù sau này nhiều dân xứ Quảng cũng vào cư ngụ, thì các bạn cũng không thể quên nổi một thời thơ ấu Sài Gòn. Nơi đó, tiếng còi xe lửa từ ga Hòa Hưng vọng về mỗi sáng cũng khác với tiếng còi bây giờ. Tiếng còi ngày xưa là tiếng còi của mình, của những tuổi thơ chồm dậy chờ tới giờ đi học và rồi tới ngày ra trận. Tiếng còi bây giờ là tiếng còi của người ta, của nỗi lo của mình, của những người công an tới tìm xét hộ khẩu và hạch hỏi giấy tạm vắng, tạm trú… Bao giờ ngăn cách này xóa nhòa đi? Đây không phải thuần là chuyện của trí nhớ, mà còn là chuyện của thực tại.

Của người ta? Thực sự, sau 1975, có vài người anh họ của tôi từ Hà Tĩnh vào Nam. Họ cũng may mắn thoát chết, và kể cho cha tôi và tôi về các thăng trầm của những người mà cha tôi còn nhớ tên. Về những người con, người chaú của các bạn thời thơ ấu của cha tôi. Về tên những người trong họ tôi đã chết trên đường theo bộ đội Bắc Việt vượt Trường Sơn vào nam. Và cả các điạ danh rất là xa lạ với tôi. Cũng bùi ngùi.

Bây giờ, tất cả đều là trí nhớ của sương khói. Cha tôi đã mất. Tóc tôi cũng đã bạc. Thời gian trôi mau.

Nếu các bạn một thời Đệ Ngũ của tôi đã chết, xin cầu nguyện cho các bạn về nơi cõi an lành. Nếu các bạn còn trên cõi đời này, xin chúc các bạn an lành. Hình ảnh các bạn nơi băng ghế sau lớp Đệ Ngũ lúc nào cũng in trong trí nhớ của tôi, một tên học trò còn rất ngây thơ trong đời. Và nơi đây cũng xin cho tất cả các chiến binh hai miền, trong đó có những người anh em họ mà tôi không hề biết mặt và là con của những người mà cha tôi từng nhắc tên, được bình an, dù ở cõi trời hay cõi người.

Những gì hôm nay những người còn lại đang làm, rồi sẽ là để hoàn thành ước mơ của các bạn đã biến mất đó. Ước mơ về một nước Việt Nam tự do, dân chủ và phú cường thực sự.