Thứ Năm, 16 tháng 8, 2007

Lại Vắt Sữa Việt Kiều

Bão lụt vừa mới đánh phá nhiều tỉnh Miền Trung xong. Và bây giờ các cán bộ trong Bộ Thương Binh và Xã Hội từ văn phòng ở Hà Nội sẽ nghĩ ngay tới giải pháp tiện lợi nhất: xin Việt Kiều mở lòng từ bi để cứu trợ. Đúng vậy. Vắt sữa Việt Kiều là tiện nhất. Vắt sữa là chuyện dễ, chỉ đưa tay ra là tha hồ mà bóp, mà nắn, vì chính nghĩa cứu trợ không ai nỡ chống đối. Nhưng bù lại, nhà nước thực sự vẫn chưa bao giờ tỏ ra trân trọng với Việt Kiều tới nơi tới chốn. Chưa bao giờ nhà nước Hà Nội biết ơn một cách đúng đắn cả.

Trận bão năm nay tệ hại hơn nhiều trận bão khác. Theo bản tin tổng hợp của đài VOA hôm Thứ Năm, thì Reuters trích lại một tin do chính phủ Việt Nam và hệ thống truyền hình nhà nước cho biết:

“…Hôm thứ năm là đã có ít nhất 43 người thiệt mạng trong khi cả chục ngàn người đang bị đói và cần được cứu trợ tại Hà Tĩnh và Quảng Bình.

Tuy nhiên theo đài VTV thì công tác cứu trợ đã gặp trở ngại vì đường sá đã bị hư hại rất nghiêm trọng, nhiều đoạn đường đã bị nước cuốn trôi khiến rất khó chuyển phẩm vật cứu trợ tới nạn nhân.

Hình ảnh chiếu trên đài cho thấy cảnh một người đàn ông, nước ngập tới cằm, đang nhận mấy gói mì ăn liền tại Hà Tĩnh, nơi bị tác hại nặng nhất. Trong tỉnh nầy đã có ít nhất 15 người thiệt mạng vì lụt sau khi đón nhận tới 60 centimet nước mưa.

Quân đội Việt Nam đã dùng thuyền cao tốc đưa lương thực tới một số nạn nhân ở Hà Tĩnh trong tổng số chừng 60,000 người phải bỏ nhà cửa ra đi.

Nước lụt cũng đã sát hại 3 người tại Quảng Bình và ảnh hưởng tới khoảng 200,000 người, trong số đó có ít nhất 7,500 người đã được di tản tới những miền đất cao.

Các viên chức ngành hoả xa loan báo hôm thứ năm là mọi chuyến tàu bắc nam đều bị huỷ bỏ vì nhiều đoạn đường rầy trong tỉnh Quảng Bình đã bị hư hại.” (hết trích)

Đương nhiên, vài ngày nữa, cũng sẽ có quý Tăng Ni, quý Linh Mục, quý Mục Sư - hoặc từ Việt Nam gửi thư ra, hoặc ngay tại tiểu bang California này - gửi thư xin đồng bào giúp cứu trợ bão lụt. Không ai nỡ từ chối. Các báo rồi cũng sẽ đăng các lời xin quyên góp. Vì đồng bào mình mà. Nhà nước lo không tử tế tới nơi tới chốn, thì mình phải lo chứ. Dù là biết rằng tiền này sẽ không toàn vẹn khi tới tay nạn nhân, vì phải qua nhiều cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, vân vân. Đó là chưa kể chuyện bị ăn chận có thể có ngay ở các hải cảng, phi trường. Không phải suy đoán đâu, cứ hỏi một vài vị sư từng quyên góp ở Quận Cam trong một trận bão cuối thập niên 1990s. Nhưng cái gì cũng có giá để trả, và rồi ai cũng chấp nhận.

Thực tế, chưa cần nói tới các khoản quyên góp khẩn cấp như cứu trợ bão lụt. Chỉ cần nói chuyện gửi 4 tỉ đô tiền mặt về mỗi năm, nhà nước cũng chưa tỏ ra biết ơn một cách thích đáng.

Bây giờ, nhắc lại một bản tin nhà nước hồi tháng 1-2004. Khi đó, Ngân hàng Trung ương CSVN dự báo số lượng ngoại tệ do Việt Kiều gởi về nước sẽ từ 2 tỉ 600 triệu đô la trong năm 2003 sẽ tăng lên đến 3 tỉ 500 triệu đô la, tức sẽ gia tăng với tỉ lệ 36% trong năm 2004. Ông Trương Văn Phước, lúc đó là Vụ trưởng Vụ Quản lý Ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước nói rằng, tiền bạc của khoảng 3 triệu người Việt Nam sinh sống cũng như công nhân xuất cảng làm việc ở nước ngoài “…được gởi về nước thông qua 4 kênh chuyển tiền là các ngân hàng thương mại, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp bưu chính viễn thông được cho phép chuyển tiền kiều hối, và do Việt kiều trực tiếp mang về, không giới hạn số lượng mà chỉ cần khai báo hải quan…” Và lúc đó khoản tiền 2 tỉ 600 triệu đô la do Việt kiều gởi về trong năm 2003 đã giúp cải thiện cán cân thanh toán của CSVN và giúp bù đắp 53% số thâm hụt của cán cân thương mại lên tới 5 tỉ 100 triệu đô la.

Bản tin VietNamNet Bridge tháng 1-2007 nói rằng tiền do người Việt gửi về dự kiến tới 4 tỉ đô la. Xin ghi rõ rằng bản tin này viết bằng tiếng Anh dựa theo bản tin TTXVN, đề ngày 02/01/2007 (có thể là ngày 2, tháng 1-2007 theo kiểu VN; hay ngày 1 tháng 2-2007, viết theo kiểu Mỹ, vì bản tin này được lưu trong máy, nên người viết lỡ quên ghi chi tiết), nói một chi tiết rất đáng chú ý:

“…Năm 2005, VN nhận 6 tỉ đô trị giá đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Năm nay, tức 2007, các nơi cấp viện cam kết cho vay hơn 4 tỉ đô tiền viện trợ phát triển chính thức. VN hiện nhận vốn đầu tư và phát triển từ nhiều nguồn…” (…In 2005, Vietnam received $6bil worth of foreign direct investment. This year, donors have committed to loan more than $4bil in official assistance development.Vietnam now receives capital for investment and development from many sources…)

Bản tin khác (link: http://www.vneconomy.com.vn/eng/?param=article&catid=&id=1adcc09a8d::1ờ1:: ) của VNEconomy, ngày 8-8-2007, viết rằng “VN định mục tiêu xuất cả 5.4 tỉ đô trị giá sản phẩm sang Trung Quốc vào năm 2010.” (Viet Nam has set targets of exporting 5.4 billion USD worth of products to China by 2010)

Đọc các bản tin trên, chúng ta thấy rằng, VN năm 2005 được 6 tỉ đầu tư trực tiếp từ quốc tế. Có nghĩa là, 6 tỉ vào VN để mở nhà máy, thuê thợ, làm ra sản phẩm rồi bán để kiếm lời. Vốn 6 tỉ đó là tiền của quốc tế, sẽ sinh lời bao nhiêu? Nếu chúng ta lấy tỉ suất lời cho rộng là 10% (giả sử không huề vốn, không bị lỗ, không phá sản, không ngập nợ…) thì 6 tỉ đầu tư quốc tế đó chỉ cho tiền lời là 600 triệu đô, mà tiền này lại là tiền của tư bản quốc tế.

Trong khi đó, 4 tỉ đô Việt Kiều gửi về là cho không, là tiền nhét vào túi dân Việt, nếu lấy tỉ lệ lợi tức là 10% thì 4 tỉ này tương đương với hình ảnh Việt Kiều gửi về VN 40 tỉ đô cho vay không lãi, để làm ăn. Trời ạ, thế mà nhà nước không biết ơn. Xin nói rõ, 4 tỉ đô tiền mặt gửi về, tương đương với tư bản quốc tế gửi vào VN cho vay 40 tỉ đô để làm ăn, mà phải ép thợ VN làm tới xì khói mệt nhọc mới có nổi lãi suất này, phải phá hoại tài nguyên, hại rừng hại biển mới có hàng xuất khẩu kiếm lời. Thế mà, tự nhiên khỏi mở xưởng, khỏi ép thợ làm xì khói, khỏi phá hoại rừng biển quê nhà, mà vẫn có 4 tỉ đô cúng thoải mái.

Bây giờ hỏi thêm, VN định mục tiêu xuất khẩu hàng trị giá 5.4 tỉ đô sang Trung Quốc năm 2010. Vậy thì, xuất khẩu 5.4 tỉ đô thì lợi tức là bao nhiêu? Tính rợ, cho là 10% lời, thì cũng chỉ mới 540 triệu đô thôi, mà đó là hàng trăm ngàn công nhân làm việc cực nhọc mới có nổi lợi tức như thế đó. Thế mà, chỉ nhờ Việt Kiều, khỏi cần ai trong nước làm cực nhọc, mà 4 tỉ đô la vẫn phơi phới rơi vào như mưa.

Bây giờ nói thêm, bản tin hôm Thứ Ba 24-7-2007 của bản Anh ngữ Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn (link: http://chao-vietnam.blogspot.com/2007/07/vietnam-fulfils-rice-export-target-for.html#3760284854036862627) ghi nhận rằng “VN đã xuất khẩu 4.75 triệu tấn gạo năm ngoái, 2006, thu lời 1.3 tỉ đô la” (Vietnam exported 4.75mil tonnes of rice last year, reaping $1.3bil.).

Nghĩa là, hàng chục triệu nông dân VN làm quanh năm cũng chỉ thu lợi về cho cả nước 1.3 tỉ đô la nhờ gạo xuất cảng.

Thế mà, 4 tỉ đô của Việt Kiều rơi vào như mưa, đỡ biết bao nhiêu công sức.

Thế đấy, đó mới là đô la thôi đó. Chưa nói tới trí tuệ. Nhà nước vẫn chưa thực sự nhìn thấy hết năng lực Việt Kiều. Thấy 4 tỉ đô, mà không thấy con số tương đương 40 tỉ đô do 3 triệu người làm việc cực nhọc gửi về đầu tư vô hình. Thấy vài trăm ngàn Việt Kiều về thăm nhà mà không thấy ẩn tàng trong đó là các trí tuệ đã đem lại sinh động và phát minh tại nhiều ngành và nhiều công ty ở Hoa Kỳ.

Tại sao nhà nước chưa khai thác được Việt Kiều? Hãy thấy đơn giản rằng, chỉ cần một lằn ranh bị xóa đi, là Việt Kiều sẽ về ào ạt. Việt Kiều liều thân lên ghe vượt biên là để tìm tự do, và khi đi ai cũng mong muốn toàn dân mình được sống với tự do dân chủ. Như vậy, lằn ranh đó thực sự là bản chất chế độ toàn trị. Nói là lằn ranh, nhưng thực sự là cách biệt cả đại dương, giữa toàn trị và tự do dân chủ. Thật sự, ngay cả những người tự nhận là trí thức phe tả, đã có bao nhiêu người thực sự về toàn tâm toàn lực đóng góp? Trong khi đó, chính phe hữu mới là đóng góp nhiều nhất: đứng vạch áo ra, giơ vú ra cho Đảng CSVN vắt sữa, lặng lẽ giúp các tôn giáo hồi phục, giúp nâng cao dân trí bằng mọi phương tiện…

Chỉ cần nhà nước thật tâm công nhận các quyền căn bản cho người dân, trong đó có quyền tự do lập hội, tự do báo chí, tự do phát biểu, tự do ứng cử và bầu cử… thì đừng nói gì 4 tỉ hay 40 tỉ, mà nói tới chuyện liều thân về để giữ đất, giữ biển cũng sẽ thấy hàng hàng lớp lớp rủ nhau về chứ.

Thế mà nhà nước không biết ơn. Lại bày trò tuyên truyền nhảm để nhuộm đỏ cộng đồng với những trò đẻ ra tờ báo thứ 701 hay 702 ra hải ngoại. Hay những trò dàn dựng các đaị nhạc hội Duyên Dáng Cờ Đỏ ở hải ngoại.

Thế lại là đem tiền đổ ra sông Ngô rồi. Đúng ra, là đổ tiền ngược ra sông Santa Ana.

Thực đấy, chỉ cần nhà nứơc thành tâm dân chủ hóa thì hải ngoại tiếc gì tiền và chất xám.

Trần Khải

Wall Street Journal: Về làm ăn tại Việt Nam phải trả một cái giá rất đắt

Về làm ăn tại Việt Nam phải trả một cái giá rất đắt
How Vietnam Venture Proved a Costly Move
By James Hookway. The Wall Street Journal. 14/8/07 . Khánh Ðăng lược dịch

Chế độ Hà Nội có thể rất khắt khe với các nhà đầu tư ngoại quốc. Câu chuyện tù đày khổ ải của một người đàn ông

Khi doanh nhân người Mỹ tên Hoan Nguyễn đến Việt Nam cách đây 1 thập niên với những dự án để xây dựng một ngôi trường quốc tế, thì ông ta nói rằng ông ta rất phấn khởi với niềm hy vọng cho nơi chôn nhau cắt rốn của ông

Nhưng hồi năm ngóai ông đã phải nằm trên một cái chõng ẩm ướt trong nhà tù B14 tại Hà Nội sau một vụ tranh chấp trong việc làm ăn với các đối tác của nhà nước Việt Nam, và vụ đó trở thành một cuộc điều tra của công an với ông Nguyễn là nghi can chính.

Những nỗi tức tưởi của ông Nguyễn là một điển hình của những mối hiểm nguy lớn dành cho các nhà đầu tư ngoại quốc đang đổ dồn vào Việt Nam, nơi mà nền kinh tế tăng trưởng ở mức hơn 8 phần trăm một năm và được đánh giá rộng rãi là một thị trường mới xuất hiện, nóng bỏng nhất trong thế giới thứ ba, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Ðộ. Niềm đau của ông Nguyễn cũng cho thấy các cơ quan hoặc cán bộ viên chức của nhà nước Việt Nam đôi khi họ có thể dùng những mánh lới cứng rắn để đạt được điều họ muốn khi chuyện làm ăn bị đổ bể.

Nằm tù 14 tháng trong khi chờ công an điều tra sự việc, ông Nguyễn phải nghe đài của nhà nước Việt Nam oang oang mỗi buổi sáng trong sân nhà tù với các xướng ngôn viên thúc giục người Việt hải ngoại trở về để bồi đắp vào nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh chóng của đất nước.

“Thật là ngẫu nhiên. Tôi làm chính xác như điều nhà nước Viêt Nam muốn và cuối cùng thì vào tù.” Ông Nguyễn năm nay 58 tuổi, được thả ra hồi tháng 6 và bây giờ đang ở Hà Nội để chờ phán quyết cuối cùng về trường hợp của ông ta, đã nói như vậy.

Trong khi ở tù, ông Nguyễn nói rằng ông chỉ được gặp luật sư có 2 lần trong thời gian đó và tố cáo rằng ông ta đã bị một nhân viên công an đánh đập. Ðồ ăn trong tù thì được rất ít. Ông Nguyễn cho biết, trong dịp Tết, ông chỉ được cho ăn có một miếng thịt gà nhỏ xíu và một khẩu phần cơm mỗi ngày như thường lệ. Các viên chức công an thì không muốn nói gì về việc giam giữ ông Nguyễn.

Rồi thì sau khi ông Nguyễn đã ngồi tù được 14 tháng mà không bị buộc vào tội danh nào, gia đình của ông ta phải trả 85 ngàn Mỹ kim mà nhà nước Việt Nam bảo là tiền thế chân, công an Việt Nam kết luận trong bản báo cáo sơ khởi là không có bằng chứng rõ rệt nào để đưa ông Nguyễn ra tòa và thả ông ra. Tiền thế chân chưa được hoàn trả. Và ông Nguyễn vẫn đang chờ đợi xem các công tố viên Việt Nam có quyết định chính thức để buộc ông vào bất cứ tội danh nào hay không.

Sau hàng thập niên dưới sự cai trị của Cộng sản, hệ thống luật pháp của Việt Nam vẫn còn quá yếu kém để có thể áp dụng vào việc giải quyết các vụ tranh chấp làm ăn tư nhân, mà thường ở các quốc gia với nền kinh tế thị trường đã được ổn định thì các vụ tranh chấp này được giải quyết bởi các cơ quan độc lập.

Vậy thì khi không có sự bảo chứng từ các toà án dân sự, những người khiếu kiện có thể mang những khiếu nại của họ đến thẳng cho công an, và công an có thể giam giữ các nghi can đến hàng tháng trời mà không cần phải đưa ra một cáo trạng nào đối với các nghi can này. Trong những trường hợp điển hình khác, nhà nước Việt Nam đã dùng quyền hành của họ để tước đoạt các cơ sở kinh doanh tư nhân, không cho các chủ nhân một chút hy vọng nào để tìm lại công lý nơi các toà án.

Ông Tony Foster là đồng giám đốc của một cơ sở tại Việt Nam thuộc công ty luật Anh quốc Freshfields Bruckhaus Deringer, nói rằng một trong những điều hợm hĩnh của nền luật phápViệt Nam - một cái đống lôi thôi lộn xộn giữa luật lệ nội địa và luật lệ du nhập từ nước ngoài – là trong đó có cả một số các quy định rất chung chung về các tội hình sự, mà các quy định này có thể dùng để áp dụng cho một cơ sở kinh doanh.

Một trong những tội này là “quản lý kinh tế sai lạc” làm thất thoát tài sản nhà nước. Ông Foster cho biết rằng một cơ sở kinh doanh ngoại quốc có hợp đồng làm ăn chung với một cơ quan nhà nước có thể bị kết tội hình sự nếu họ vướng mắc vào một vấn đề quản trị đơn thuần, đưa đến trường hợp bị kết vào tội chính trị.

Chủ tịch Việt Nam Nguyễn Minh Triết đã nhận thức trong một cuộc phỏng vấn rằng đất nước của ông ta cần phải cải tổ hệ thống luật pháp cho thích hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Nhưng theo những người gần gũi với quyết tâm cải tổ hệ thống luật pháp của Việt Nam thì việc này sẽ phải mất một thời gian đáng kể. Sự thúc đẩy việc cải tổ đã được thực hiện trong nhiều năm qua, ngoài những vấn đề khác thì còn lại là chú tâm vào việc tạo một sân chơi công bằng cho giới kinh doanh trong lẫn ngoài nước.

Cùng lúc đó, thì các vụ tranh chấp kinh doanh và vi phạm luật lệ bị vốn coi như là các tội hình sự thì tiếp tục chồng chất.

Hồi năm ngoái, 4 nhà kinh doanh người địa phương của chi nhánh Việt Nam thuộc ngân hàng ABN Amro Holding NV của Hoà Lan đã bị bắt giữ sau khi công an Việt Nam buộc tội họ là đã thực hiện một số vụ mua bán ngoại tệ với một nhân viên không có thẩm quyền của ngân hàng nhà nước, làm nhà nướcViệt Nam bị thất thoát 5 triệu đô la. ABN Amro phải trả cho nhà nước Việt Nam 4,5 triệu đô la hồi tháng 11 để cho nhân viên của họ được thả, bây giờ thì 4 nhà kinh doanh dịch vụ ngân hàng này được tự do hành nghề và đi lại trong nước. Nhưng cuộc điều tra về các hành vi của nhân viên ngân hàng ABN Amro này vẫn chưa được huỷ bỏ. Trước đó, một nữ phát ngôn viên cuả ABN Amro đã bác bỏ bất cứ hành vi sai trái nào của nhân viên họ tại Việt Nam.

Các ngân hàng ngoại quốc khác đã viết thư cho nhà nước Việt Nam để phản đối các hành động của công an, than phiền rằng dưới luật pháp của Việt Nam thì việc buộc tội hình sự cho các tranh chấp dân sự quá ư là dễ dàng.

Một cuộc tra cứu của nhà nước vào năm nay đã kết luận rằng các ngân hàng Việt Nam không tiến hành đúng đắn quy trình mua bán ngoại tệ.

Những người Việt hải ngoại trở về tham gia vào hành trình của Việt Nam để tiến ra khỏi nền kinh tế tập trung, đã kém thành công hơn hầu hết các nhà đầu tư ngoaị quốc khác. Nhiều người, trong đó có ông Nguyễn, than phiền rằng tư cách pháp luật của họ bị yếu thế vì nhà nước Việt Nam ngần ngại không coi họ như những người nước ngoài, mặc dù họ là những công dân hợp pháp của các quốc gia khác. Thí dụ như một trong những lý do mà công an giam giữ ông Nguyễn trong tù hơn một năm, theo những người đang theo dõi sâu sát vụ này cho biết, là để điều tra xem ông Nguyễn có nhận một cách bất hợp pháp bảo hiểm y tế dành riêng cho các nhân viên người nước ngoài làm việc cho Trường quốc tế Hà Nội mà ông ta đã giúp để tạo dựng hay không – mà không quan tâm đến việc ông Nguyễn là một công dân mang quốc tịch Hoa Kỳ.

Ðể cho ăn chắc, một số người Việt hải ngoại đã có vẻ coi thường luật pháp của Việt Nam trong quyết tâm làm giàu, gây hại đến uy tín của những người Việt hải ngoại khác –còn được gọi là Việt kiều – là những người trở về để làm ăn trong những doanh nghiệp đàng hoàng. Trong một vụ khá nổi tiếng, doanh nhân người Pháp Nguyễn Gia Thiều tạo dựng một cơ sở làm ăn với người em để buôn bán điện thoại di động hiệu Nokia và Samsung. Vào năm 2003, công an đã bắt giữ ông Thiều vì bị cáo buộc là đã buôn lậu điện thoại di động vào Việt Nam để tránh không phải đóng thuế nhập cảng. Sau đó ông ta đã bị kết tội và tuyên án 20 năm tù.

Trong khi đó thì ông Nguyễn vẫn đang cố gắng để minh oan cho mình.

Là một người đàn ông với một mái tóc bạc dầy và các bằng cấp từ hai trường đại học Vanderbilt và George Mason ở Hoa Kỳ, Nguyễn Ðình Hoan rời Việt Nam từ thập niên 1960s và không trở về quê hương trong hàng chục năm vì chiến tranh và tình hình chính trị rối rắm Giống như nhiều người Việt hải ngoại khác, ông ta đã thay đổi tên từ sau ra trước theo như cách của người Tây phương, và trở thành Hoan Nguyễn.

Cuối cùng thì vào năm1995, ông ta đã trở về với các kế hoạch để thiết lập một ngôi trường quốc tế để phục vụ cho gia đình của những người ngoại quốc lúc bấy giờ đang bắt đầu ồ ạt đến Việt Nam. Ông Nguyễn lập ra Trường quốc tế Hà Nội với sự hợp tác của Trung tâm Giáo dục nhà nước Việt Nam vào năm 1996. Nhà nước cung cấp một hợp đồng 20 phần trăm thuê mướn trên một mảnh đất mà bây giờ rất có giá gần trung tâm Hà Nội, để lấy về 30 phần trăm lợi tức trong nghiệp vụ này.

Khi mà trị giá của miếng đất mà ngôi trường được xây trên miếng đất đó gia tăng, thì căng thẳng giữa ông Nguyễn và các đối tác của ông ta cũng tăng theo. Theo báo cáo của công an điều tra thì vào tháng 4 năm 2006, công an đã bắt giữ ông để điều tra việc đối tác nhà nước tố cáo rằng ông đã nhận bảo hiểm y tế một cách bất hợp pháp, và việc ông bị cáo buộc là đã thuê mướn trái phép một người trợ tá riêng để giúp ông trong một doanh nghiệp giảng dạy Anh ngữ riêng biệt.

Trong khi ông Nguyễn đang nằm tù, thì Toà Ðại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội đã khuyến cáo vợ ông Nguyễn là không nên đi về Việt Nam để cố tìm cách lấy lại tự do cho chồng bà, bởi vì họ không thể nào bảo đảm cho sự an toàn của bà tại đây, những người trong gia đình bà cho biết như vậỵ.

Hồ Ngọc Ðài, cựu giám đốc Trung tâm Giáo dục của nhà nước Việt Nam, là đối tác của ngôi trường quốc tế này, và là con rể của một cựu Tổng bí thư đảng, đã gọi ông Nguyễn là “một tên ăn cắp” nhưng từ chối không chịu giải thích lý do tại sao hắn ta chắc chắn ông Nguyễn là một tội phạm, và không muốn nói nhiều thêm về vấn đề này.

Ông Nguyễn luôn duy trì rằng ông ta không hề làm điều gì sai cả -- và tiền lương trả cho người trợ tá riêng của ông được chia đôi giữa nhà trường và cá nhân ông ta

Vào tháng 6, sau khi ông Nguyễn được thả ra, thì trường hợp của ông được đưa lên bàn làm việc của thủ tướng Việt Nam là Nguyễn Tấn Dũng, nguyên là một cựu thống đốc ngân hàng trung ương với một uy tín về tính thẳng thắn. Theo báo Công an Nhân dân thì Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ đạo cho các thành viên người Việt trong ban giám đốc nhà trường phải giải quyết ngay những tranh chấp giữa nhà trường với ông Nguyễn, nếu không xong thì nhà nước sẽ ra tay với những quyết định riêng.


How Vietnam Venture Proved a Costly Move
Hanoi Can Be Tough On Foreign Investors; One Man's Jail Ordeal

By JAMES HOOKWAY
August 14, 2007

HANOI, Vietnam -- When American businessman Hoan Nguyen came to Vietnam a decade ago with plans to build an international school, he says he was bright-eyed with hope for the country of his birth.

But by last year he was lying on a damp bench in Hanoi's B14 prison after a business dispute with his Vietnamese government partners turned into a police investigation with Mr. Nguyen as the key suspect.

Mr. Nguyen's travails highlight one of the big risks for the foreign investors who have been flocking to Vietnam, whose economy has been growing at more than 8% a year and which is widely regarded as the developing world's hottest emerging market after China and India. It also shows how Vietnamese government agencies or officials can sometimes employ tough tactics to get what they want when a deal goes wrong.

In jail for 14 months while investigators probed the case, Mr. Nguyen listened to Vietnamese state radio booming in the prison's courtyard each morning as announcers exhorted overseas Vietnamese to come home to fuel the country's rapid economic growth.

"It was so ironic. I did exactly what the government wanted and I ended up in jail," says the 58-year-old Mr. Nguyen, who was released in June and is now in Hanoi awaiting the final resolution of his case.

While in prison, Mr. Nguyen says he was given access to a lawyer only twice during his detention and alleges he was once beaten by a police officer. Food was meager. At Vietnamese New Year, he says, he was allowed a little chunk of chicken with his once-a-day portion of rice. Police officials declined to comment on Mr. Nguyen's detention.

Then, after Mr. Nguyen had spent 14 months behind bars without charges and his family paid $85,000 in what they were told was bail, Vietnamese police concluded in their initial report there wasn't sufficient evidence to prosecute him and let him go. The bail money hasn't been returned. Mr. Nguyen is still waiting for Vietnamese prosecutors to formally decide if they will charge him with any offense.

After decades of Communist rule, Vietnam's legal system is still ill-equipped to handle civil business disputes that would be routinely handled by independent regulators in other nations with well-established market economies.

So without recourse to civil courts, complainants can take their grievances directly to the police, who can detain suspects for months without filing charges against them. In other instances, the government has used its authority to seize private businesses, leaving their owners little prospect of redress in the courts.

Tony Foster, the managing partner of the Vietnam practice of U.K.-based legal firm Freshfields Bruckhaus Deringer, says one of the idiosyncrasies of Vietnamese legal code -- a hodgepodge of indigenous and imported regulations -- is that it includes some very broad definitions of crimes, which can easily be applied to a business setting.

One is the crime of "economic mismanagement" resulting in losses to the state. Mr. Foster says that a foreign business engaged in a joint venture with a state-owned agency could face criminal prosecution if it stumbles over a simple administrative step in a politically charged case.

Vietnamese President Nguyen Minh Triet acknowledged in a recent interview that his country needs to amend its legal system to bring it more in line with international standards. But people familiar with Vietnam's legal-reform effort say it will take considerable time. The reform drive has already been under way for several years, focusing, among other things, on leveling the playing field between foreign and local businesses.

In the meantime, business disputes and regulatory violations that are treated as crimes keep piling up.

Last year, four local traders at the Vietnam branch of Dutch bank ABN Amro Holding NV were arrested after Vietnamese police accused them of conducting a series of foreign-exchange trades with an unauthorized trader at a state bank, in which the government lost $5 million. ABN Amro paid the Vietnamese government $4.5 million in November in an effort to get its staff released; the four bankers are now free to work and travel within the country. But the investigation into the actions of the ABN Amro staff hasn't yet been dropped. Previously, an ABN Amro spokeswoman has denied any wrongdoing by its traders in Vietnam.

Other foreign banks protested the police actions in a letter to the government, complaining that under Vietnamese law it is too easy to criminalize ordinary civil disputes.

A government audit this year concluded that Vietnamese banks don't adequately regulate their foreign-exchange trading.

Expatriate ethnic Vietnamese who have returned to join the country's march away from a centrally planned economy have fared worse than most other foreign investors. Many, including Mr. Nguyen, complain their legal situation is compromised because the state is reluctant to regard them as foreigners, even though they are legally citizens of other countries. For example, one of reasons the police held Mr. Nguyen in prison for more than a year, according to people closely following the case, was to investigate whether he illegally received medical insurance reserved for foreign employees of the Hanoi International School he helped set up -- overlooking that Mr. Nguyen is a U.S. citizen.

To be sure, some overseas Vietnamese appear to have flouted the country's laws in their effort to make their fortunes, damaging the reputation of other overseas Vietnamese -- or Viet Kieu -- who have returned to engage in legitimate businesses. In one well-known case, French businessman Nguyen Gia Thieu built a business with his brother selling Nokia and Samsung mobile phones. In 2003, police arrested Mr. Thieu for allegedly smuggling the phones into Vietnam to avoid import duties. He was later convicted and sentenced to 20 years in prison.

Mr. Nguyen, meanwhile, is still fighting to clear his name.

An energetic man with a thick mop of gray hair and degrees from Vanderbilt and George Mason universities in the U.S., Nguyen Dinh Hoan left Vietnam in the 1960s and didn't return for decades because of war and political upheaval there. Like many overseas Vietnamese, he reversed his name to follow Western practices, and became known as Hoan Nguyen.

In 1995, he finally returned with plans to establish an international school to cater to the families of the foreign expatriates who were then beginning to flock to the country. Mr. Nguyen formed the Hanoi International School in partnership with the Vietnamese government's Center for Education in 1996. The government provided a 20% lease on a now-valuable plot of land in booming downtown Hanoi in return for a 30% stake in the venture.

As the value of the land on which the school is built rose, tensions between Mr. Nguyen and his partners also grew. In April 2006, police arrested Mr. Nguyen as part of their investigations into the government partner's claims that he illegally received medical insurance, and into his allegedly improper hiring of a personal assistant to help him in a separate English-language teaching business, police investigators said in their report.

While Mr. Nguyen was in prison, U.S. Embassy officials in Hanoi warned Mr. Nguyen's wife in the U.S. against visiting Vietnam to try to help obtain her husband's release because they couldn't guarantee her safety here, family members say.

Ho Ngoc Dai, former director of the government's Center for Education, the school's partner, and a son-in-law of a former Communist Party chief, called Mr. Nguyen "a thief" but refused to explain why he believes Mr. Nguyen is a criminal and declined to discuss the matter further.

Mr. Nguyen maintains he did nothing wrong -- and that the salary payments to his personal assistant were split between the school and himself.

In June, after Mr. Ngyuen's release, his case ended up on the desk of Vietnam's prime minister, Nguyen Tan Dung, a former central-bank chief with a reputation for straight-shooting. He instructed the Vietnamese members of the school's board to resolve its disputes with Mr. Nguyen, failing which the government would impose its own solution, the state-run People's Police newspaper reported.


Write to James Hookway at james.hookway@awsj.com
> http://online.wsj.com/article/SB118702662210596089.html?mod=googlenews_wsj

Thư của một người dân Việt Nam gởi các đảng viên, cán bộ, công an, mật vụ và bộ đội trong hàng ngũ ÐCSVN

Thưa quý vị,

Đã là một con người thì ai cũng phải có trái tim và khối óc, trái tim để thương yêu còn khối óc để hiểu biết và suy luận những điều hay lẽ phải, phân biệt được những việc làm chính nghĩa phải theo và phi nghĩa phải tránh. Chúng tôi muốn hỏi tất cả quý vị rằng: Quý vị đang phục vụ cho ai, cho tổ quốc, cho đất nước, cho nhân dân trong đó có gia đình thân nhân của quý vị hay cho riêng ÐCSVN?

Trong tinh thần đối thoại, công bằng, thẳng thắng để cùng nhau tiến bộ, chúng tôi rất mong quý vị trong một phút giây nào đó hãy trực diện với chính lương tâm của mình để sau này khỏi phải hổ thẹn với non sông tổ quốc, khỏi phải mang tội với tiền đồ dân tộc. Hãy cùng nhau phân tích về đường lối của ĐCSVN từ quá khứ cho đến hiện tại để có thể biết được những việc làm của quý vị hôm nay có phù hợp với ý nguyện của toàn dân hay không?. Ngược dòng thời gian trở về quá khứ:

- Trong thời kỳ cải cách ruộng đất (1954-1956) ĐCSVN với mục đích giữ vững độc quyền lãnh đạo cho nên đã quá sai lầm trong chính sách đấu tố khiến cho hàng trăm ngàn người dân phải chết một cách oan uổng, để rồi sau đó chính ông Hồ Chí Minh phải ngậm ngùi giả nhân giả nghĩa đổ lỗi cho thuộc cấp làm sai và xin lỗi với đồng bào cùng những giọt nước mắt cá sấu của ông. Sau đó ĐCSVN lại đưa ra chiêu bài trăm hoa đua nở với phong trào Nhân văn Giai phẩm cho phép những người trí thức và các văn nghệ sĩ được tự do hơn, nhưng thực chất là để biết được tư tưởng của từng người để rồi ra tay đàn áp và tiêu diệt.

Đây là lý do chính để chứng minh rằng trong suốt thời gian từ tháng 9/1945 đến 1975 mặc dù với sự cai trị bạo tàn và vô nhân đạo của ĐCSVN, nhưng nhân dân miền Bắc thân yêu chỉ biết ngậm ngùi cam chịu bởi vì đảng đã áp dụng chính sách ngu dân trá hình khiến cho mọi thông tin của người dân chỉ còn hạn hẹp trong lối tuyên truyền của đảng mà thôi. Chúng tôi tin rằng với sự thật này chắc chắc trong số đông của quý vị vẫn thường nghe cô bác hoặc ông cha mình kể lại.

- Năm 1958 để được Trung Quốc ủng hộ, ĐCSVN đã đồng ý hiến dâng quần đảo Hoàng Sa vùng đất xa xôi của tổ quốc cho quan thầy Tàu cộng do Phạm Văn Đồng ký, nhưng vì thời gian đó quần đảo Hoàng Sa còn nằm trong sự quản lý của Việt Nam Cộng Hòa với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ, cho nên Trung Cộng không dám tấn công lấn chiếm, mãi đến cuối năm 1974 khi Hoa Kỳ vì quyền lợi riêng bỏ rơi miền Nam Việt Nam thì lúc đó Trung Quốc mới ngang nhiên tấn công chiếm Hoàng Sa trước sự im lặng của chư hầu miền Bắc. Quân Lực VNCH trong tư thế đơn côi vừa phải chiến đấu chống lại chiến dịch Hồ Chí Minh tổng tiến công của cộng quân xé bỏ Hiệp định Paris ngày 27/01/1973 quy định ngưng bắn chờ tổng tuyển cử với sự tiếp sức tối đa của 2 quan thầy Liên Sô và Trung Quốc, vì thế cho nên nhân dân miền Nam Việt Nam đành phải thất thủ trước sức mạnh của kẻ thù.

- Tết Mậu Thân năm 1968, ĐCSVN đã xé bỏ Hiệp ước ngừng bắn trong 3 ngày cho nhân dân ăn tết để tấn công VNCH và chiếm được cố đô Huế, nhưng với bản chất bạo tàn vô nhân tính sẵn có ĐCSVN đã gây thêm tội ác tầy trời nữa, đó là những mồ chôn tập thể đã được tìm thấy sau khi CS rút lui trước sự quyết tâm chiếm lại của QLVNCH.

- Năm 1975 sau khi chiếm được miền Nam rồi đáng lẽ chính quyền CSVN nhìn thấy được sự sung túc, giàu sang của nhân dân miền Nam thì phải suy nghĩ lại chính mình để có hướng đi đúng cho quê hương đất nước, nhưng trái lại các nhà lãnh đạo ĐCSVN đã tiếp tục đi theo vết nhơ cũ, miệng thì nói hòa hợp hòa giải dân tộc nhưng việc làm thì lại thù hằn bắt giam hầu hết những nhân viên công chức và quân nhân của chế độ VNCH trong thời gian dài, rất nhiều người chịu không nỗi cảnh tù đầy gian khổ đã phải chết trong trại giam hoặc các trung tâm cải tạo cho đến hôm nay vẫn chưa thống kê hết. 16 tấn vàng tài sãn của nhân dân miền Nam chứa trong ngân hàng được giao lại cho chính quyền ủy ban quân quản lúc đó (báo Tuổi Trẻ đăng ngày 30-31/5/2006), các nhà lãnh đạo đảng tự do chia nhau để làm của riêng nhưng lại tuyên truyền trong nhân dân là Tổng thống Thiệu mang đi, đây cũng là một trong những lý do khiến cho ông Bùi Tín một đảng viên ưu tú và cũng là một phó Tổng biên tập báo Nhân Dân (cơ quan ngôn luận của ĐCSVN) phải nói lên sự thật để rồi chấp nhận cuộc sống tỵ nạn chính trị tại Pháp. Hiện nay với những bài viết của ông Bùi Tín trên các trang web đã thức tỉnh một số không nhỏ các thành phần trong guồng máy của ĐCSVN.

- Gom góp tài sản công cũng chưa thỏa mãn, những ông trùm lãnh đạo đảng còn nghĩ ra cách thâu tóm luôn cả tài sản riêng của nhân dân miền Nam bằng chính sách đổi tiền có chỉ tiêu và giới hạn rồi sau đó đánh tư sãn mại bản, với chính sách này thì tất cả những người có tiền bạc khá giả và những nông dân tay lấm chân bùn ở nông thôn có ruộng đất tương đối nhiều đã phải trở thành trắng tay, lùa dân thành thị vào sống trong những khu kinh tế mới với đồng khô hiu quạnh…. Đây cũng là lý do khiến cho hàng triệu đồng bào phải bỏ nước ra đi tìm tự do nơi xứ lạ bất chấp hiểm nguy và số người chết trên đường vượt biển cho đến hôm nay cũng không sao biết hết, tài sản nhà cửa để lại đều được các quan chức có quyền chia nhau làm của riêng, một sự lừa dối và ăn cướp công khai dưới sự bảo vệ của hệ thống luật pháp do đảng đề ra.

Qua thời gian quân quản đến thời kỳ bao cấp, nhìn thấy sự lỗi thời và sụp đổ của CNCS cho nên những nhà lãnh đạo ĐCSVN mới chuyển nhanh qua cách làm ăn của tư bản là kinh tế thị trường, cho đảng viên tự do làm kinh tế bởi vì hầu hết các đảng viên cao cấp bây giờ đã trở thành những đại tư bãn thật sự rồi. Nhưng để giữ vững ngai vàng vĩnh viễn và khỏi sợ nhân dân tố giác về sự giàu có bất minh của mình cho nên hàng lãnh đạo ĐCSVN mới đề ra đường lối kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một đường lối đi ngược lại CNCS Mác-Lênin và cũng không có trong thể chế kinh tế thị trường của chế độ tư bãn. Với đường lồi này thì nhân dân có quyền cạnh tranh về kinh tế theo chiều hướng của đảng, nhưng còn vấn đề chính trị thì đảng vẫn luôn giữ độc quyền lãnh đạo, dùng lực lượng công an, mật vụ, quân đội thẳng tay đàn áp những ai dám nói lên chính kiến đối lập với đảng. Chúng tôi muốn nói với quý vị rằng: tại sao mang danh nghĩa là lực lượng nhân dân, đầy tớ của dân, vì dân phục vụ, lãnh lương do dân đóng thuế…. nhưng lại hành động theo mệnh lệnh của đảng.

- Sau khi Liên Sô và cả khối CS Đông Âu sụp đổ ĐCSVN chỉ còn con đường duy nhất là níu chân Trung Quốc, sẵn sàng làm một Lê Chiêu Thống thứ hai để giữ vững ngai vàng của đảng, bằng chứng là cuối năm 1999 TBT. Lê Khả Phiêu trong chuyến công du Trung Quốc đã ký hiệp định biên giới hiến dâng phần đất địa đầu Ải Nam Quan (trong đó có Bản Giốc một danh thắng nổi tiếng của quê hương đất nước) cho quan thầy Trung Quốc, vấn đề này cũng như vấn đề dâng hiến quần đảo Hoàng Sa năm 1958 của ĐCSVN vẫn còn là bí mật quốc gia, dù cho quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao trên danh nghĩa cũng không dám đề cập tới. Đây là một sự thật quá phũ phàng mà nhân dân kể cả quý vị là những công hầu đắc lực cho đảng cũng không sao biết được, bởi vì tất cả những cơ quan ngôn luận và thông tin trong nước đều do đảng quản lý chi phối toàn diện. Chúng tôi tin chắc rằng nếu có thông tin tự do đa chiều như các nước văn minh trên thế giới, thì cách nhìn của nhân dân và quý vị là thành phần nồng cốt của đảng sẽ đổi khác chớ không như hiện nay.

Trên đây là những việc làm thầm kín và bất minh của hàng lãnh đạo đảng, còn khắp nơi trên đất nước thì mỗi nơi đều là những ông vua con có luật lệ riêng bắt buộc nhân dân phải tuyệt đối chấp hành. Vì thế cho nên nạn tham nhũng, bè phái, tiêu cực và sách nhiễu người dân là chuyện dài không có hồi kết thúc….., hãy nhìn sự tranh đấu ôn hòa của các thành phần bất đồng chính kiến (trong đó thành phần trí thức cấp tiến trong đảng là những nhân vật đã từng giữ những địa vị cao cấp như: Giáo sư Hoàng Minh Chính, Trung tướng Trần Độ, tướng Nguyễn Hộ, nhà văn Hoàng Tiến, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, Giáo sư Trần Khuê, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, nhà báo Bùi Tín, Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn khắc Toàn, kỹ sư Đỗ Nam Hải, nhà văn Dương Thu Hương, Ðại tá Phạm Quế Dương, Trung tá Trần Anh Kim, nhà cách mạng lão thành Lê Hồng Hà, Vũ Cao Quận, cựu chiến binh Lê Trí Tuệ…v.v.. và v.v…) cùng với những đoàn dân oan trên khắp miền đất nước mà chắc chắn là sẽ có thân nhân của quý vị. Đó là lời giải đáp cho một bài toán độc tài, đảng trị mà ĐCSVN bắt buộc phải chấp nhận theo chiều hướng đa nguyên từ kinh tế lẫn chính trị càng sớm càng tốt nếu muốn tiếp tục tồn tại trong cộng đồng dân tộc. Đa đảng không có nghĩa là ĐCSVN bị triệt tiêu mà vẫn tồn tại và hoạt động song hành với các đảng phái khác, nếu đường lối của ĐCSVN đúng với ước nguyện của toàn dân như những gì đã tự hào thì vẫn được nhân dân tín nhiệm qua cuộc bầu cử thật sự tự do và công bằng để tiếp tục lãnh đạo đất nước, bằng ngược lại thì đảng sẽ trở thành đối lập để giám sát chính quyền, cùng với đảng cầm quyền trong mọi chính sách phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân, tránh cho các thành phần lãnh đạo đất nước không có cơ hội độc tài, giảm thiểu tối đa về quan liêu tham nhũng, báo chí tư nhân được tự do phê phán chính quyền và thông tin đầy đủ kịp thời đến với người dân hàng ngày trên khắp miền đất nước.

Trong một đất nước đa nguyên thì quyền tự do ngôn luận mới được phát huy, thông tin đa chiều và tiếng nói của người dân mới được tôn trọng, quyền bầu cử và ứng cử mới thật sự được tự do, quân đội, công an, cảnh sát chỉ phục vụ cho quyền lợi của đất nước và nhân dân chớ không phục vụ cho bất kỳ một đảng phái nào dù đó là đảng cầm quyền, mọi người dù cho bất đồng chính kiến và khác đảng phái với nhau nhưng vẫn thân thiện và bạn bè với nhau như anh em một nhà bởi vì, tất cả những bất đồng là những đường hướng rộng mở sẽ được biểu quyết bằng đa số..v.v.., tài chánh của các đảng phái là do chính đảng đó tự tìm ra để hoạt động và tồn tại, còn tiền đóng thuế của toàn dân sẽ được trả lương cho các nhân viên chính quyền và xây dựng các chương trình ích quốc lợi dân.

Quy luật tất nhiên của loài người là muốn có tiến bộ thì phải cạnh tranh, trong lớp học có cạnh tranh học tập thì mới biết được học sinh giỏi, nhà nông có cạnh tranh làm ruộng thì mới khám phá ra được nông dân giỏi. Tóm lại, mọi vấn đề trong xã hội đều phải có sự cạnh tranh trong tinh thần ôn hòa và lành mạnh, khách quan để cho chúng ta nhận thấy rằng mọi quyền tự do thông tin của người dân trong một chế độ độc tài CS như VN hầu như chỉ nằm trong ước mơ không bao giờ có, bởi vì mọi thông tin bất lợi cho chế độ độc tài đều bị cấm loan truyền trong nhân dân, chẳng hạn như vừa qua tàu hải quân đàn anh Trung Quốc đã ngang nhiên bắn chìm tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam khiến cho một số người chết và nhiều người bị thương nặng, cũng như việc chính quyền CSVN theo lệnh của Trung Quốc không cho phi cơ của chiếc tàu bệnh viện USS Peleliu của Hoa kỳ có sự tham gia của các bác sĩ lừng danh trên thế giới vào đất liền để chở bệnh nhân VN nghèo đi ra tàu chữa trị và giải phẩu, hàng ngày khắp miền đất nước như Hà Nội, Sài Gòn, Bạc Liêu, Thái Bình… đều có dân oan tập trung khiếu kiện và biểu tình, nhưng báo chí và các cơ quan truyền thông trong nước thì hoàn toàn im hơi lặng tiếng trước nỗi đau khổ của người dân.

Thử so sánh lại coi có đất nước nào trên thế giới theo CNCS mà giàu có và phát triển hơn các nước tư bản đa nguyên không? Bắc Hàn thua xa Nam Hàn, Đông Đức thua xa Tây Đức, ngay cả Trung Quốc vĩ đại vẫn thua xa Đài Loan, miền Bắc VN thua xa miền Nam VN trước 1975, cả khối Đông âu và đất nước Liên sô nơi phát sinh ra CNCS phải từ bỏ con đường CS mà quay về với đa nguyên tư bản..v.v.., ngày nay một vài nước CS còn lại trên thế giới sở dĩ nền kinh tế có chiều hướng phát triển tốt là cũng nhờ đi theo con đường kinh tế thị trường và sự giúp đỡ đầu tư của các nước dân chủ đa nguyên, Việt Nam chúng ta cũng không ngoại lệ. Hơn 3 triệu Việt kiều hải ngoại ngày nay đã thành công trong cuộc sống là cũng nhờ sống trong những đất nước có nền dân chủ đa nguyên.

Ngạn ngữ pháp có câu: "Anh hãy nói cho tôi biết anh thường giao thiệp với ai thì tôi sẽ nói cho anh biết anh là người như thế nào", như vậy, nếu quý vị mang trên mình màu áo đẹp đẽ của công an, quân đội nhân dân mà lại tuyệt đối trung thành với một đảng độc tài không theo ý nguyện của nhân dân thì thật uổng phí cả đời người, sẽ là quá bất công khi bắt buộc hơn 80 triệu con người phải phục tùng vĩnh viễn một thiểu số vài triệu đảng viên mà đa số có trình độ nghèo nàn về kiến thức, lạc hậu về khả năng. Nếu thật sự ĐCSVN được nhân dân đồng hành tín nhiệm như đảng thường nói thì tại sao không dám trưng cầu dân ý, hoặc chấp nhận con đường đa đảng, nếu thật sự đường lối của đảng là đúng thì tại sao không dám cho phép báo chí tư nhân tự do hoạt động cũng như bầu cử và ứng cử tự do như đã từng tuyên bố. Nhân quyền (trong đó bao gồm cả quyền tự do ngôn luận, tự do bày tỏ chính kiến, tự do ứng cử và bầu cử, tự do lập hội…v.v…) là cái quyền căn bản mà tạo hóa đã ban cho loài người, nó cũng được xác định rõ ràng trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc và các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đã từng ký tên xin tham gia, cam kết thi hành. Chính vì thế cho nên, nhân quyền không có biên giới và hạn hẹp trong khuôn khổ của một quốc gia nào hết, bất cứ ai cũng có quyền được hưởng và bất cứ ai cũng có quyền phản đối nếu nhân quyền không được tôn trọng ở bất cứ nơi đâu dù nơi đó là cộng sản, nó giống như không khí mà loài người không thể nào thiếu được.

Kinh tế có sự cạnh tranh thì rõ ràng có tiến bộ, điều này cũng chứng tỏ rằng chính trị có cạnh tranh thì guồng máy chính quyền sẽ tốt hơn vì tránh được độc tài, tham nhũng và tiêu cực lộng hành, người có tài thực sự sẽ được trọng dụng và quyền lợi của người dân mới được bảo đảm hoàn toàn. Sau cùng chúng tôi xin ghi lại những lời phát biểu của những nhân vật trong hàng ngũ tối cao của ĐCSVN và thế giới.

- TBT /ĐCS Liên sô Gorbachev phát biểu tại trường đại học Columbia ngày12/3/2002: "ĐCS mà tôi phục vụ cả đời chỉ biết tuyên truyền, cán bộ đảng chỉ biết điêu ngoa giả dối, chúng tôi trong đó có tôi từng nói tư bản đang đi tới sự hủy diệt trong khi chúng ta đang phát triển tốt, lẽ dĩ nhiên đó chỉ là những lối tuyên truyền, trong khi đó quốc gia chúng tôi đang bị bỏ rơi ở đàng sau".

- Trung tá Trần Anh Kim (đảng viên cựu sĩ quan quân đội nhân dân, hiện nay là thành viên Khối 8406, Ban điều hành LMDCNQVN): "31 năm qua tôi và cả triệu binh sĩ khác đã bị lừa, đã nhận diện bãn chất thối nát của chế độ này. Họ luôn luôn nói một đàng làm một nẻo, hoàn toàn mị dân. Do đó tôi phải đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc trong đó có tôi, ĐCSVN đã phản bội lại dân tộc, phản bội lại nhân dân".

- Ông Mai Chí Thọ (cựu UVBCT, cựu bộ trưởng CA) phát biểu trong cuộc họp dự thảo cho hội nghị TW khóa 7 năm 2002: "Nói thật với các anh tôi thấy không còn bao lâu nữa đảng sẽ mất quyền lãnh đạo".

- Ông Trần Bạch Đằng (nhà văn, nhà báo): "Rốt cuộc đảng trở thành cái chế độ giành nhau để có địa vị, có quyền lợi chớ không phải vì lý tưởng nào cả….rốt cuộc tài năng là thằng nào nịnh giỏi, thằng nào bợ đít hay, dạ dạ vâng vâng thì thằng đó là tài năng".

- Ông Nguyễn Hữu Thọ (cựu chủ tịch MTGPMN, cựu chủ tịch nước CHXHCNVN) gởi cho con lúc lâm chung: "Bài học thất bại trong cuộc đời làm cách mạng của cha là chọn lầm lý tưởng CS và CNCS, nhưng điều đáng lên án nhất là tính cách phục tùng đến hèn nhát của cha là đối với những mệnh lệnh phi nhân, bất nghĩa của tập đoàn lãnh tụ độc tài chuyên chính đã mất hết tình tự dân tộc".

- Trung tướng Trần Độ (cựu UVBCT, chủ nhiệm UB/VHTW) viết trong cuốn nhật ký Rồng Rắn: "Đảng nói thì dân chủ vì dân, nhưng làm thì chuyên chính phát xít…. Chế độ này bắt mọi người phải đảng trị, họ đã thành hình một xã hội lừa dối, lãnh đạo lừa dối, cán bộ lừa dối, làm ăn giả dối, giáo dục giả dối, bằng cấp giả dối đến gia đình cũng giả dối".

Còn rất nhiều những lời phát biểu muộn màng của các nhân vật cao cấp trong hàng ngũ lãnh đạo đảng mà chúng tôi chưa nêu ra hết vì bài viết cũng hơi dài rồi. Nhiệt tình cộng ngu dốt thành phá hoại, kẻ nói dối sẽ không ai nghe nữa ngay cả khi nói thật. Hiện nay quý vị đang học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng thử hỏi tư tưởng của ông ta ngoài việc đem chủ nghĩa CS lỗi thời mà thế giới đang ruồng bỏ vào VN, ngoài việc ném đá dấu tay để tiêu diệt các thành phần quốc gia yêu nước không cùng chí hướng với mình, ngoài việc làm chết oan hàng triệu con người, ngoài việc viết sách tự ca ngợi mình rồi lấy tên tác giả là Trần Dân Tiên và T.Lan…v.v…thì có gì để mà học.

Chúng tôi rất mong tất cả những sự thật về cuộc đời gian dối của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ được phơi bày ra ánh sáng vào một ngày không xa để cho chính quý vị và nhân dân trong nước biết. Giờ đây với tất cả những chân tình của chúng tôi là những người đang đấu tranh cho tự do, dân chủ, cho chính nghĩa theo ý nguyện của toàn dân xin được gởi đến quý vị (đảng viên, cán bộ, công an, mật vụ, bộ đội và quan chức) đang trung thành với đường lối của ĐCSVN hãy suy xét lại hành động của mình có phù hợp với nguyện vọng của toàn dân không? Đừng vì bả lợi danh và miếng cơm manh áo mà tiếp tay cho bạo quyền để làm điều bất thiện, lịch sử sau này sẽ không bao giờ tha thứ cho những ai đi trên con đường phi nghĩa.

Kết thúc bài viết này, chúng tôi xin nhắc lại lời của ông Lý Quang Diệu (cựu thủ tướng Singapore) nói với chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết : “Cơ chế nào rồi cũng sẽ đi vào lỗi thời, bởi vì con người của cơ chế đó thường làm việc theo thói quen”. Tổng thống Bush cũng nói với ông Triết trong chuyến công du qua Mỹ ngày 22/6/2007 là: “Xã hội sẽ được giàu đẹp hơn khi người dân được phép bày tỏ tư tưởng của họ một cách tự do hay được tự do hành đạo.” Rất tiếc những lời vàng ngọc này không bao giờ được các cơ quan truyền thông và báo chí Việt Nam loan tải, vì sao vậy?

Việt Nam, ngày 15/08/2007
HOÀNG TRUNG VIỆT

Kế Sách Tuyên Vận của CSVN

Từ cổ chí kim, trong những cuộc tranh giành quyền lực từ cấp làng xã đến quốc gia, hay rộng lớn hơn là thế giới - ngoài lãnh vực sử dụng quân sự để chiến thắng đối phương - thì mặt trận tuyên truyền và vận động nói tắt là tuyên vận, hay là chiến tranh chính trị, chiến tranh tâm lý vẫn là một thứ vũ khí trí vận vô cùng quan trọng, đóng góp lớn vào sự chiến thắng đối phương trên cả hai mặt chiến thuật và chiến lược.

Trong lịch sử cận đại, đối với thế giới cộng sản quốc tế, trận chiến tuyên vận luôn luôn được đặt lên hàng đầu, không kém lãnh vực tình báo chiến lược. Ngân sách quốc gia to lớn đã được đổ vào quỹ này để điều nghiên, huấn luyện cán bộ trung kiên, móc nối, mua chuộc đối phương (bằng mọi giá nếu cần phải mua) để giành lấy chiến thắng.

Kế sách tuyên vận được thi hành trên hai mặt nổi và chìm dưới nhiều dạng thức tuyên truyền khác nhau. Tùy theo địa bàn hoạt động, tâm lý quần chúng từng vùng để thi hành sách lược. Tuyên vận (nổi) trên lãnh vực văn hóa, gồm các bộ môn thông tin, báo chí, văn nghệ, nghệ thuật để ru ngủ đối phương. Nếu có cơ hội là tung đòn trực tiếp, hoặc móc nối với thành phần “đứng giữa” vì ham lợi vật chất hoặc có đầu óc lập dị, - ưa làm những chuyện trái người khác để thỏa mãn tự ái riêng tư - để rồi lọt vào guồng máy tuyên vận của địch. Tuyên vận (chìm) là những vận động trong bóng tối, đôi khi vô thưởng vô phạt, nhưng có mục tiêu nham hiểm, lén lút như rỉ tai, bịa đặt, bêu rếu cá nhân, hăm dọa tung lý lịch đánh phá tổ chức hay chính quyền làm cho những hoạt động chính danh bị trở ngại.

Ðối với CSVN, lãnh vực tuyên vận vẫn là chiến dịch ưu tiên hàng đầu. Trong thời kỳ chiến tranh quốc-cộng, Cục Tuyên Vận CSVN đã tung ra các chiến dịch tuyên vận như chúng ta đã thấy.

Tại miền Nam Việt Nam trước đây thì họ tuyên truyền, bôi nhọ về mọi mặt để đánh phá chính phủ Việt Nam Cộng Hòa như: Tay sai Ðế quốc Mỹ; Ngụy quyền, ngụy quân, lính đánh thuê. Về mặt du kích văn hóa, văn nghệ thì họ cấy ngay trong hàng ngũ chúng ta những tay bồi bút chuyên môn giựt dây, phá hoại; về văn nghệ, nghệ thuật sân khấu thì có Trịnh Công Sơn, Miên Ðức Thắng, Kim Cương và hàng trăm cán bộ to nhỏ khác... không thể kể hết lên đây. Ðội ngũ du kích văn hóa, truyền thông chìm nổi này đã đâm sau lưng chiến sĩ QLVNCH nói riêng và chính quyền miền Nam Việt Nam nói chung một cách khoa học mà sau này ai cũng biết. Chính họ là thành phần đã góp công “to lớn” vào sự sụp đổ đau thương của chính thể Việt Nam Cộng Hòa.
Trên bình diện quốc tế thì họ tung những đòn tuyên truyền xuyên tạc, mua chuộc giới thanh niên thế giới thiên tả thời đó chống chiến tranh, làm lu mờ chính nghĩa chống cộng của quân dân miền Nam Việt Nam. Mua ngay cả những thành phần sinh viên du học, để họ quay lại chống cha anh đang ngày đêm chiến đấu mất còn với cộng sản xâm lăng.

Sau năm 1975, kể từ khi làn sóng người Việt tỵ nạn cộng sản ra đi trong đường tơ kẽ tóc để tìm tự do, tìm đất dung thân... thì CSVN cũng tung chiến dịch tuyên vận, móc nối, cấy người bằng mọi cách để xé lẻ khối người Việt tỵ nạn, vốn đã quá khổ đau vì đại họa cộng sản.

Những năm đầu sau 1975, mạng lưới tuyên vận CSVN còn e dè, chỉ hoạt động chìm, lén lút có tính cách lẻ tẻ ở một vài lãnh vực hạn hẹp. Nhưng từ khi chế độ CSVN cởi trói vào năm 1987 thì mạng lưới tuyên vận, giao lưu văn hóa và văn nghệ, dụ người về thăm quê hương (để cứu sống chế độ qua đồng đô la), đồng thời tung ra hải ngoại các sản phẩm văn nghệ, văn hóa, xoáy vào đề tài thương nhớ quê hương để ru ngủ những người nhẹ dạ qua chiến dịch mang tên “hoa hồng xám”.

Sau năm 1995 và cuối thập niên 90, lợi dụng dịp Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận và tái lập bang giao, CSVN hồ hởi ồ ạt tung ra hải ngoại chiến dịch tuyên truyền (nổi) bằng các phái đoàn thương mại, triển lãm tranh ảnh, văn hóa phẩm; đưa những đoàn văn công ra hải ngoại vừa kiếm lợi, vừa tuyên truyền xám mà những người không nắm vững âm mưu trong kế sách “thuốc độc bọc đường” rất dễ bị thu hút, vô tình tiếp tay cho mục tiêu tuyên vận của CSVN. Ðồng thời trên mặt trận thông tin, báo chí, CSVN cũng đã tung ra hải ngoại những tờ báo mang nội dung vô thưởng vô phạt, bê nguyên nội dung những tờ báo đảng trong nước với mục tiêu xoáy vào giới trẻ - rất mù mờ về chính trị - để ru ngủ thanh niên theo mục tiêu trí vận của họ. Họ nằm yên ở đó để chờ thời cơ là ngồi dậy hoạt động ngay. Những trang báo vô thưởng vô phạt ấy sẽ biến thành những lưỡi lê đâm lút cán chúng ta một cách hữu hiệu.

Mặt khác, họ mua chuộc một số báo chí mà người chủ trương chỉ xoáy vào lãnh vực thương mại, nhưng thỉnh thoảng lại cho đăng tải những bài viết ca ngợi CSVN, hoặc giả vờ cho đi những bài viết chập chờn mang đầy tính chất chia rẽ, gây hoang mang, thọc bên này, móc bên kia để gây hiềm khích trong tập thể người Việt quốc gia.
Ở trong nước thì đảng chủ trương hủy diệt mầm chống đối bằng cách đầu độc thanh niên thiên về vật chất, chỉ biết ăn chơi, rượu chè, thụ hưởng, trụy lạc, sa đọa. Còn ở hải ngoại thì những cán bộ trẻ trá hình dụ dỗ giới trẻ chống đối, ghét chính trị, tạo mâu thuẫn giữa hai thế hệ già trẻ, làm hao mòn tiềm năng của con em, đáng lẽ họ phải nối tiếp cha anh trên con đường đấu tranh giải thể chế độ CSVN.

Sau chuyến công du của Nguyễn Minh Triết, những khuôn mặt tay sai nằm vùng trong mục tiêu kiều vận của CSVN đang dần dần ra mặt hoạt động, trực tiếp gây phân hóa hàng ngũ của người Việt hải ngoại gần như công khai để đạt mục tiêu xích hóa cộng đồng. Hiện tượng Việt Weekly và các chiến dịch văn nghệ, văn hóa vận khác đang chĩa mũi dùi khắp hải ngoại, tuy không phải mới mẻ, nhưng những đợt tấn công này ít nhiều cũng tạo thêm khó khăn trong cuộc sống của người dân tị nạn cộng sản.

Ðể vô hiệu hóa, hoặc dẹp các phong trào đấu tranh cho dân chủ tự do ở quốc nội, CSVN, ngoài việc bắt bớ giam cầm những nhà đấu tranh, họ còn sử dụng kế sách tuyên vận một chiều để làm nhụt chí và khuynh đảo tinh thần dân chúng như chuyến công du của Nguyễn Minh Triết chẳng hạn. Bằng chứng rõ ràng là đa số người dân trong nứơc chỉ được nghe, được thấy hình ảnh dăm ba tên nô bộc đón rứơc Triết một cách trịnh trọng. Còn hàng vạn người chống đối y rầm rộ tại Hoa Thịnh Ðốn, New York và tại California thì không hề được nghe, được thấy! Y như hình ảnh khán giả vỗ tay rầm rộ chào đón các đoàn văn công “biểu diễn” trong một rạp hát sang trọng, mà không hề thấy cộng đồng khắp hải ngoại đang tẩy chay, đả đảo ở bất cứ nơi nào họ đến. Dĩ nhiên những khúc phim ráp nối, cắt xén ấy sẽ được trình chiếu ở quê nhà, vàợ rằng thì là “Việt kiều hải ngoại hồ hởi đón rước chúng ta (?).Vậy, thành phần đấu tranh cho dân chủ tự do ở trong nứơc đúng là bọn phản động!” Từ đó suy ra, làm sao người dân trong nứơc còn có tinh thần để tiếp tay cho phong trào đấu tranh dân chủ đang đứng trứơc vạn nỗi khó khăn?

Ðã đến lúc những chiến sĩ quốc gia, những quân dân cán chính, một đời đấu tranh, hy sinh cho tự do dân chủ phải nhận chân, phân biệt rõ ràng ai bạn, ai thù, không vì cảm tính, thành kiến cá nhân để rồi chính chúng ta chống lại chúng ta, hoặc vô tình che chở cho kẻ thù vì thiếu nhận định sáng suốt và cuối cùng lọt vào bẫy sập của cục tuyên vận CSVN.

Ðã đến lúc thế hệ đi trước phải chăm sóc con em trên lãnh vực tinh thần để vô hiệu hóa chiêu “vô thưởng vô phạt”, nhưng có mục tiêu tuyên vận của CSVN. Chính chúng ta phải nhắc nhở, giải thích, phân tích rõ ràng trắng đen để cho giới trẻ ý thức trách nhiệm nhằm đóng góp hữu hiệu vào đại cuộc giải thể chế độ cộng sản, xây dựng lại đất nước.

Ðừng quên, ngày trước chính CSVN đã gọi chúng ta là “bọn phản động chạy theo đế quốc”, nhưng ngày nay ở vào thế bí kinh tế, thế kẹt chính trị nên họ đã đổi thành cụm từ “khúc ruột ngàn dặm” để chiêu dụ chúng ta tiếp tục nuôi sống chế độ phi dân tộc.

Ðứng trước giai đoạn đấu tranh khó khăn, trước chiến dịch tuyên vận trắng trợn của tập đoàn cộng sản, đã và đang chĩa mũi dùi vào tập thể người Việt tỵ nạn về nhiều mặt, chúng ta phải nghiên cứu đối sách thật kỹ lưỡng để vô hiệu hóa những đòn tấn công này.

Trương Sĩ Lương

Những Mỵ Từ Của Bọn Ngụy Quyền

Như quý vị cũng đã biết những chuyện bê bối về những gian thương làm nước mắm và nước tương xãy ra ở trong nước, khiến cho chúng ta là người tiêu dùng thật bỡ ngỡ và bức xúc. Trước khi những vụ này được phanh phui ra ánh sáng, người tiêu dùng luôn tin tưởng ở những sản phẩm chế biến nước mắm, nước tương bởi những mỹ từ trên những nhãn hiệu: Đảm Bảo An Toàn, Thơm Ngon, Bạn Của Các Bà Nội Trợ, Chất Lượng Cao, Số Một, v.v… Nhưng rồi, nước tương, nước mắm cũng chỉ được phê chế mất vệ sinh, pha trộn hóa chất, không được bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng. Thế mà những sản phẩm này vẩn được bày bán khắp nơi, chiêu dụ người tiêu dùng bởi những mỹ từ hay và mẩu mã đẹp.

Đó chỉ là những chuyện nước tương, nước mắm thôi. Thật ra còn có một số mỹ từ mà chính bọn ngụy quyền “Đảng và Nhà Nước” VN đang dùng còn nguy hại hơn nhiều. Hiện nay, trên tất cả giấy tờ hành chánh, đơn từ đều có những mỹ từ: Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc để quảng cáo cho một đảng phái hiện đang hành trị đất nước Việt Nam chúng ta. Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) đã đưa ra những mỹ từ này hòng chiêu dụ được lòng tin yêu của những người tiêu dùng như bạn và tôi.

ĐỘC LẬP
Kể từ khi Hồ Chí Minh ra Ba Đình đọc bài “Tuyên Ngôn Độc Lập” mà ông ta đã vay mượn văn từ, ý nghĩa từ bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Mỹ, đất nước đã không còn bị thực dân Pháp đô hộ nữa. Tuy nhiên, cái nhà nước “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” quả chưa thực sự “Độc Lập” khi chính quyền Hồ Chí Minh như những con rối nước bị điều khiển bởi nhóm đàn anh CS ở Moscow và Beijing.

Mọi hành xử chính trị của Hồ Chí Minh đều được chỉ đạo từ bọn đàn anh Cộng Sản Đệ Tam. Từ những ý thức hệ Vô Sản, đánh Tư Sản, Cải Cách Ruộng Đất đến hình tượng, khẩu hiệu, lá cờ quốc gia đều được đúc khuôn từ cái lò Moscow mà ra. Từ lúc Đảng CSVN ra đời, người dân Việt Nam đi đâu, lúc nào cũng nhìn, nghe thấy ảnh tượng ông Tây, người Nga. Học sinh Việt Nam đã phải bị bắt học tiếng Nga, văn hóa Nga. Người ta cứ liên tưởng như một nước Nga trong lòng đất mẹ VN. Trong mọi ý tưởng của nhóm Hồ Chí Minh lúc nào cũng hướng về đất thánh Moscow.

ĐCSVN vốn là nhóm nô lệ ý thức hệ. Lúc thì họ tôn thờ, vinh danh Lênin, Carl Max thì không thân thiện với Trung Quốc. Vào những năm 1979 đến 1984, Việt Nam và người “anh em” Trung Hoa đánh nhau chí tử, mãi đến 1999 mới chính thức giãi hòa. Cuộc chiến này đều bị chính quyền hai bên giấu nhẹm như mèo giấu kứt vây. Sau khi, Liên Xô tan rã, ĐCSVN không còn chỗ dựa, trong khi đó, chỉ có Trung Quốc vững mạnh nhất trong nhóm CS còn lại, thế là ĐCSVN đi chơi lại với Trung Quốc.

Đài Loan, Nam Hàn tuy được Mỹ bảo hộ, nhưng Hiến Pháp của họ không hề vinh danh, lệ thuộc chính quyền Mỹ. Trong khi hiến pháp Việt Nam thì ngược lại, ĐCSVN vẩn lệ thuộc vào nhóm quan thầy Nga-Xô. Điều 4 hiến pháp Việt Nam vẩn ghi rỏ rằng:

“Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghia Mác - Lê Nin và tu tuởng Hồ Chí Minh, là lực luợng lãnh đạo Nhà nuớc và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”

Ngày nay, dân mình bị Trung Quốc bắn giết. Thác Bản Dốc, Ải Nam Quan, Hoàng Sa, Trường Sa bị TQ lấn chiếm, thế mà ĐCSVN chỉ nhẹ nhàng lên tiếng phản đối cho qua loa có lệ. Quả thật, ĐCSVN không dám chống đối được TQ, vì mọi an ninh quốc phòng, kinh tế, chính trị đều do TQ bảo kê hết. Hơn nữa, con số 2 triệu đảng viên chỉ biết tham nhũng, kinh doanh thu đô la vào túi, ăn to béo mập thì sao đối lại với 2 triệu quân đội Trung Quốc hùng hồ, mạnh liệt được?!

TỰ DO
Tháng 4, 1975, miền Nam Việt Nam bị “giải phóng”. Lại một mỹ từ thật đẹp, “Giải Phóng”. Sau ngày “Giải Phóng”, mọi quyền tự do cơ bản con người dường như dần mất hết và trở nên khan hiếm. Trước đó, người dân miền Nam còn được quyền tự do biểu tình, mà trong đó có rất nhiều người “Phản Động” đã được ân huệ này để làm náo loạn hệ thống chính trị miền Nam. Thế mà ngày nay, đồng bào người Thượng Tây Nguyên tổ chức biểu tình ôn hòa đòi tự do tôn giáo và phản đối chính quyền cướp đất tổ tiên của họ thì lại bị bắt, kêu án một cách nặng nề. Hiện nay, có rất nhiều người Thượng vẩn phải lẩn trốn trong rừng hay đã và đang vượt biên sang Miên vì bị ĐCSVN đang truy lùng, giam bắt vì họ có liên can đến vụ biểu tình hồi năm 2001.

Quyền tự do báo chí rất mơ hồ! Trong nước có hơn 600 tờ báo cầm tay và điện tử, nhưng đều phải bị sự chỉ đạo của ĐCSVN. Chỉ đảng viên CS mới được làm, ra báo. Mọi tin tức có liên quan đến chính trị, kinh tế đều phải thông qua Bộ Văn Hóa Thông Tin. Nếu đăng mà không đẹp lòng BVHTT thì sẽ bị đình chỉ, phạt vạ, đuổi việc, thậm chí bị bỏ tù. Hiện nay có rất phóng viên bị tra vắn vì đã viết về những vụ tham nhũng lớn ở VN. Thật tội nghiệp cho giới làm báo VN phải đi lề bên phải trên con đường một chiều!

Quyền tự do thông tin thì bị cấm đoán, ràng buộc. ĐCSVN bắt chước Trung Quốc tìm mọi cách ngăn chặn mọi thông tin hiện đang phổ biến lan rộng trên internet bằng những kỷ thuật tân tiến. Bắt buộc người chủ internet phải theo dỏi, nằm vùng người xử dụng truy cập và phải báo ngay với công an, nếu không sẽ bị rút giấy phép kinh doanh. ĐCSVN ngụy biện nói rằng làm vậy để ngăn chặn các trang web đồi trụy, nguy hại đến người dân. Hư thực thế nào, mà người ta lại cứ dễ dàng truy cập được các trang đồi trụy, khỏa thân, dành cho người lớn; còn những trang cung cấp tin tức, sự thật về ĐCSVN thì gặp nhiều trở ngại, khó khăn khi truy cập.

Quyền tự do đi lại rất cơ bản. Tuy nhiên nó cũng bị hạn chế. Đi đâu, ở chổ nào cũng phải khai báo Tạm Trú, Tạm Vắng với chính quyền sở tại. Ngoài giầy chứng minh nhân dân ra, nơi nào cũng phải có hộ khẩu gia đình, để cho ĐCSVN dể dàng kiểm soát. Hầu hết những dân lao động tứ xứ vào các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn đều bị coi như bất hợp pháp, bởi vì họ không có hộ khẩu ở nơi họ tạm cư. Nếu không có hộ khẩu, thì con em họ khó mà được đi học đoàng hoàng. Việt Kiều về thăm quê hương cũng phải đăng ký xin phép. Gần đây thủ tướng VN ra nghị quyết miển Visa cho Kiều bào về thăm quê hương. Tuy nhiên cũng phải làm đơn xin phép toà đại sứ trước khi về nước, thủ tục còn rồm rà hơn.

Chuyện tín ngưỡng, tôn giáo như thấy rất dể dàng ở cái thiên đường XHCN này. Tuy nhiên, muốn được chính quyền nhìn nhận, các tôn giáo đều phi đăng ký, xin mới được hợp pháp. Một số tôn giáo đợi mãi 20 năm, 30 năm mới được ĐCSVN nhìn nhận. Hiện nay, có nhiều giáo phái Tin Lành, Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất và các tôn giáo khác vẩn còn phải thờ phượng một cách lén lút. Mà dù cho có được ĐCSVN nhìn nhận, nhưng chuyện kỳ thị, ỷ quyền thế đàn áp người khác đức tin vẩn là chuyện thường. Các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo bị cấm đoán không được tưởng niệm ngày vị giáo chủ của họ lâm nạn. Những người sắc tộc theo đạo Tin Lành bị chính quyền kỳ thị cho là họ theo đạo của Mỹ, Tư Bản. Một số giáo phái thuộc đạo Mẫu thì bị chính quyền cho là mê tín do đoan, buôn thần bán thánh.

Những mỹ từ của điều 69 hiến pháp như chiêu dụ chúng ta nhận biết là VN cũng có những dân quyền, dân chủ. Thế nhưng ĐCSVN lại bắt bớ, đàn áp, kêu án giam cầm những người Đấu Tranh cho Tự Do và Dân Chủ. ĐCSVN không chấp nhận một đảng phái nào khác ngoài đảng CS. Hiện nay, có nhiều đảng phái ra đời, những chỉ dám hoạt động lén lút mà thôi. Hể ai dám lên tiếng đối lập với ĐCSVN, hoặc nói sự thậy thì bị gép vào thành phần “Phản Động”. ĐCSVN kêu án, giam cầm rất nhiều tù nhân có liên quan đến chính trị, thế mà ĐCSVN chối oang oang là VN không có giam giữ tù nhân chính trị.

HẠNH PHÚC
ĐCSVN lúc nào cũng vổ ngực khoe khoang rằng kinh tế VN phát triển và giàu có. Nhưng thực tế VN vẩn chưa là con rồng, con hổ ở vùng Châu Á. Hàng năm, ĐCSVN vẩn đưa hàng ngàn người dân đi Xuất Khẩu Lao Động. VN đã và đang nhận viện trợ từ Ngân Hàng Thế hàng tỉ đô la cho những việc Xóa Đói Giảm Nghèo. Không biết trong hàng tỉ đô la đó, dân nghèo nhận được nhiêu, hay bao nhiêu căn nhà Tình Nghĩa được xây lên cho họ. Chúng ta chỉ thấy khắp nơi, các cơ quan nhà nước, ỷ ban nhân dân, công sở chính quyền, nhà ở của các cán bộ thì được xây khang trang, đồ sộ, mới lạ và rất đẹp mắt.

Hàng năm, người dân phải đóng biết bao nhiêu là thuế: thuế bất động sản, thuế thương mại, thuế thu nhập, thuế xe, thuế vận tải giao thông, thuế mua bán, v.v.. Vậy mà người dân cũng phải đóng học phí 2 lần trong một năm để cho con em của họ được đi học. Người nghèo, già neo đơn khi bị bệnh thì chỉ có mong ở phép lạ hay ở các nhà hảo tâm vì không có tiền đi bệnh viện. Nghề giáo viên là cao quý nhất trong các nghề. Tuy nhiên, các giáo viên lại được nhận lương bổng thấp nhất so với những người khác làm cho chính phủ. Những cán bộ các cấp cuối năm còn được tiền thưởng, quà thưởng, còn các giáo viên thì thật đáng thương không được xu nào. Phải chăng ĐCSVN lại không nhớ là nhờ các giáo viên giảng dạy, ru ngủ, đầu đọc chủ nghỉa CS cho tuổi trẻ VN, mà ĐCSVN mới được tồn tại đến ngày nay?!

Đường xá giao thông thật nguy hiễm vì xây tạo thiếu chất lượng, cầu cống mới xây thì bị nghiêng, trệ xuống. Không biết chính quyền nhận tiền từ thuế giao thông vận tải ở mổi chiếc gắn máy, vận tải bao nhiêu, mà không trả đủ lương cho cảnh sát giao thông, họ phải “đứng đường” kiếm tiền đút lót từ những người vi phạm luật giao thông. Hàng ngày, khắp mọi nơi đều xãy ra những vụ tai nạn giao thông thảm khốc và chết người như cơm bửa.

Đừng để những tòa nhà cao ốc, cao sang, những chiếc xe gắn máy đẹp bắt mắt, những chiếc phone cầm tay đời mới làm lóa mắt bạn. Vì xen lẩn những cao sang hoa lệ đó, vẫn có rất nhiều người phải buôn thúng bán bưng, bán sức lao động, bán thân xác, bán lý trí để kiếm kế sinh nhai ở cái xã hội đổi mới VN bây giờ. Nhiều em bé vì cha mẹ nghèo không tiền nuôi các em ăn học, các em phải đi đánh bóng giày, bán báo, bán kẹo, bán vé số, ăn xin để có vài ngàn đồng mà tạm nuôi các em, hay nuôi gia đình các em, hay đưa cho những thành phần bất nhân bảo kê, coi giử các em. Nhiều thanh niên nam nữ bỏ quê nhà vào thành phố lớn kiếm sống từ những nghề bình thường cho đến những nghề thật đáng thương như: mát-xa dạo, bán thân xác của mình. Chuyện bán thân xác không còn độc quyền ở phái nữ ở thiên đường XHCNVN nữa. Mà các bạn nam giới cũng làm. Nhiều bạn nam đã phải cặp, ăn ở với những phụ nữ bằng tuổi mẹ mình giàu có, hoặc phải ăn nằm với những người đàn ông có tiền để nuôi thân, nuôi gia đình.

Truớc và sau 1975, ĐCSVN luôn tuyên truyền, chê bai chế độ củ bê tha, rằng con gái VN ham “Tư Bản” lấy Mỹ, lấy ngoại quốc. Nếu chúng ta nhìn lại cái thiên đường XHCNVN ngày nay thì còn tệ hại hơn trước giai đoạn 1975 nhiều. Con gái VN hiện bị bán ra nước ngoài, bị đưa vào các động mãi dâm, bị trưng bày trong lồng kín như những món vật cho người ngoại quốc mua vui. Các cô phải khỏa thân đứng xếp hàng để cho mấy ông “Tư Bản” ngắm, sò mó, lựa chọn. Nhiều cô vì gia đình nghèo phải chịu lấy mấy anh Nam Han, Tàu tàn tật, lớn tuổi bằng cha, chú các cô để hy vọng có một cuộc sống mới. Nhiều em bé tuổi chưa quá lớp 1 bị gạt, bán qua Miên để phục vụ tình dục cho người ngoại quốc. Đó là những vụ được đưa ra ánh sáng. Hiện nay, còn rất nhiều em bé, cô gái VN đáng thương đang là những món vật mua vui ở Miên, Thái Lan, Trung Quốc hay ở chính trên đất nước Việt Nam của họ.

Người dân bị chính quyền địa phương ỷ thế cậy quyền cướp đoạt đất đai, tài sản của họ làm cho họ phải vô gia cư, tài sản mất hết, lâm vào cảnh túng thiếu. Người ta đi khiếu kiện từ Bắc vào Nam, từ Nam ra Bắc, từ đời cha đến đời con, thế mà Công Lý vẩn trốn chạy, tránh né họ. Như những vụ biểu tình của những người dân oan xãy ra ở Sài Gòn, Bạc Liêu, Hà Nội vừa rồi. Họ kêu gào, than khóc, dầm mưa giải nắng, thế mà chính quyền vân mặc kệ họ. Cửa Tiếp Dân vân đóng kín. Công an bao vay họ, không cho người khác cứu trợ lương thực. Không một tờ báo, tin TV nào đặt nặng vấn đề này đến với công chúng. Không những thế, ĐCSVN vô tâm đánh đuổi những người biểu tình khiếu kiện, bắt giam họ.

Hàng năm biết bao nhiêu là cuộc đình công xảy ra trong giới lao động, giai cấp công nhân. Họ bị chủ là “Tư Bản” Nam Hàn, Trung Quốc đánh đập, bạt đãi, trả lương rẻ mạt, thậm chí bắt làm nhiều giờ mà vẩn không trả lương. Trong khi ấy, cái bọn bù nhìn “Công Đoàn” quốc doanh của ĐCSVN thì chẳng làm gì được. Thật trớ truê hơn là bọn lảnh đạo đất nước chính là nhóm người đại diện cho tầng lớp giai cấp công nhân mà chẳng đá động gì được đối với bọn đầu tư ngoại quốc. Ngày qua ngày người lao động vẩn cứ bị bóc lột sức lao động ngay cả trên cái thiên đường XHCN của mình.

CỘNG HÒA XẢ HỘI CHỦ NGHỈA VIỆT NAM
ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC

Âu chỉ là những mỵ từ quảng cáo cho một ngụy quyền chuyên ngụy tạo, tuyên truyền đánh lừa nhân dân Việt Nam. Nếu chúng ta đem bọn Ngụy Quyền này so sánh với đám gian thương làm nước mắm, nước tương thì đám gian thương nhẹ tội hơn nhiều. Không biết bao giờ đất nước Việt Nam mới thật sự có Độc Lập - Tự Do và Hạnh Phúc vậy bạn?

Vũ Quốc Tấn
(@ykien.net)

CSVN đã trắng trợn bóp méo lịch sử

Căn bản của chủ nghĩa Cộng Sản là sự hung tàn và bản chất lừa lọc xóa bỏ vết tích tội ác của chính mình. Theo đúng chủ trương này, Cộng Sản Việt Nam đã tung ra một nguồn tin là sẽ đúc tượng Ngài Thích Quảng Đức bằng đồng và cao hơn 6 thước ; sau đó sẽ được dựng ngay tại nơi mà ngài đã tự thiêu bên lề đừong. Như thế, một số người sẽ lầm tưởng rằng CSVN đã chú tâm đến Phật Giáo và muốn phục hồi sự hưng thịnh cho giáo hôi Phật Giáo như thời nhà Lý ngày xưa. Nhưng dã tâm của CSVN trong ý đồ dựng Tượng Ngài Quảng Đức chỉ là muốn dùng Tôn giáo để triệt hạ, gây chia rẽ các tôn giáo trong nước cũng như làm giảm tiềm năng đấu tranh của người Việt Quốc Gia hải ngọai.


Tưởng cũng phải nói thêm về việc Thương Tọa Thích Quảng Đức đã tự thiêu trước tòa Đại sứ Cao Miên trong thời kỳ đấu tranh của Phật giáo với nền đệ nhất Cộng Hòa dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Phật Giáo đòi hỏi những quyền bình đẳng cho Giáo Hội; biểu tình tuyệt thực đấu tranh. Đây là những quyền tự do tôn giáo mà các thể chế Dân chủ nào cũng có, vì đó là những quyền căn bản của người dân một nước Tự Do. Nhưng kể từ năm 1975 biết bao nhiêu tu sĩ của Phật Giáo, và Hòa Hảo, đã tự thiêu mà CSVN có bao giờ ngó ngàng tới, thậm chí xác của những người vì Đạo Pháp hy sinh còn không đươc mang về chôn cất. Tượng ngài Thích Quảng Đức mà tín đồ Phật Giáo coi như là một vị Bồ Tát mà chế độ CS vô thần đem ra lề đường, bêu xấu cho du khách thiên hạ đến xem như một di tích Tội Ác của chế độ cũ.

CSVN luôn đàn áp tôn giáo. Thế mà bây giờ CSVN sẽ xây tượng ngài Quảng Đức để khơi lại một biến cố lịch sử, ngõ hầu che dấu tội lỗi của họ và làm lu mờ đi chính thể Tự Do Dân Chủ mà người dân miền Nam Việt Nam đã có sau khi CS và Pháp ký hiệp định Genève chia đôi đất nước. Cũng trong ý đồ bóp méo lịch sử để chạy tội, CS sẽ giáo dục cho thế hệ con cháu của chúng ta tại VN là những chế độ Cộng Hòa ngày trước không có chính nghĩa, đàn áp Tôn Giáo, theo đế quốc Mỹ và do đó nhân dân Miền Nam đã vùng lên theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và dân chúng Miền Nam đã hình thành Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời tại miền Nam Việt Nam; chứ không phải chính những tên đồ tể này là công cụ cho Đế Quốc Xâm Lược dùng CS Hà Nội đem đoàn quân viễn chinh (sinh Bắc tử Nam) đem xe tăng đại pháo vũ khí hỏa tiễn Nga Hoa, Đông Âu vào xâm chiếm miền Nam và đã giết hại hàng triệu thanh niên ưu tú VN trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn. ( Vì lý do này mà nhiều nhà văn nhiều cán bộ CS đã tỉnh ngộ chống lại Đảng khi họ vào đến Sài Gòn.)

Tại hải ngoại những nơi có vết tích thuyền nhân, CSVN đã dùng mọi thủ đoạn để xóa đi những vết chân Tỵ Nạn. Cuộc di tản bi thảm và vĩ đại nhất trong lịch sử với hơn 500 ngàn người Việt Nam đã hy sinh vì hai chữ Tự Do là một trong những chứng tích hùng hồn nhất về tội ác Cộng Sản. Vì thế bằng bất cứ giá nào, những chứng tích này phải được triệt hủy. Chỉ khoảng một vài năm nữa, danh từ Tỵ Nạn CS không còn từ trong nước mà chỉ còn danh từ Việt kiều, máu mủ Việt Nam…và từ đó những người Việt về VN bằng bốn chân (những người về Việt Nam hành lạc ngay trên quê hương khốn khổ của mình) sẽ đuợc đi xem tàng tích Mỹ Ngụy, đi xem những công trường Liệt sĩ, những ngôi chùa, nhà thờ quốc doanh được sửa chữa tu bổ bằng chính tiền của những người Việt hải ngoại gửi về.

Vẫn theo chính sách Xoá Mờ Tàn Tích Mỹ Ngụy, chắc chắn không còn bao lâu nữa, có thể trong khi hoặc sau khi đúc Tượng Ngài Thích Quảng Đức thì Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa của Quân Lực VN Cộng Hòa cũng sẽ bị CSVN dùng mọi thủ đoạn để phá hủy như CSVN đã thi hành chính sách tiêu diệt Mặt Trận Giải Phóng và chính phủ cách mạng Lâm thời ngay sau khi họ đặt chân vào dinh Độc Lập ngày 30/4/75.

Mưu sự tại nhân thành sự tại thiên, sự di hài các ngôi mộ tại Nghĩa Trang Mạc Đĩnh Chi, CSVN đã không bị một phản ứng, nhưng chắc chắn khi đụng đến nhưng nơi an nghỉ của những anh hùng vi quốc vong thân của người dân Miền Nam, những người đã đổ xương máu cho Tự do, để bảo vệ non sông bờ cõi nhất là máu của họ đã đổ ra để bảo vệ từng tấc đất ven biển Hoàng Sa. Anh Linh của những đấng Tiên Liệt, hồn thiêng sông núi và oan hồn uổng tử nạn nhân của CSVN chắc chắn sẽ không để cho bọn tham ô, bán nước hại dân tiếp tục dày ải dân tộc, chắc chắn hơn 3 triệu người Việt tại hải ngọai sẽ không tha thứ cho tập đoàn lòng lang, dạ thú bôi bác lịch sử và ngông cuồng đưa dân tộc đến chỗ diệt vong. (LLQDVN)

Hà Văn Hải

Đọc Báo VẸM 20