Thứ Ba, 26 tháng 6, 2007

Lịch Sử Chiến Tranh Việt Nam và Vinh Danh Người Lính VNCH








Chủ Nghĩa Mậu Dịch Cộng Sản


Chủ Nghĩa Mậu Dịch có hai loại là Chủ Nghĩa Mậu Dịch Tư Bản và Chủ Nghĩa Mậu Dịch Cộng Sản.


Chủ Nghĩa Mậu Dịch Tư Bản có một lịch sử rất dài bắt đầu từ những đội thương thuyền của các nước Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,...và Chủ Nghĩa Thực Dân. Trãi qua thời gian, Chủ Nghĩa Mậu Dịch Tư Bản tồn tại và phát triển rất mạnh mẽ cho tới hôm nay nhờ vào Cái Xương Sống cứng cáp của nó là Thị Trường Tự Do và tư tưởng tự do cá nhân.




Chủ Nghĩa Mậu Dịch Cộng Sản có một lịch sử dài ba mươi năm, nó hình thành sau ngày thầy phù thuỷ chính trị Kissinger đã thuyết phục được Mao-Chu mở cửa Trung Quốc để đón tiếp Tư Bản Mỹ, mà người đại diện chính thống của Tư Bản Mỹ là Nixon. Chủ Nghĩa Mậu Dịch Cộng Sản mới thoạt nghe qua lại tưởng lầm là Mậu Dịch Quốc Doanh của Cộng Sản. Thực chất lại không phải như vậy.


Mậu Dịch Quốc Doanh của Cộng Sản là những hoạt động thương mại do nhà nước Cộng Sản đầu tư vốn 100% và quản lý điều động phân phối tiêu thụ ở cả hai phương diện nội thương và ngoại thương trong một nền kinh tế hoạch định chỉ huy. Mậu Dịch Quốc Doanh của Cộng Sản đã không thành công vì không có tính sáng tạo và tính cạnh tranh thương trường. Người khách hàng tiêu thụ của thị trường hoạch định trong hệ thống mậu dịch quốc doanh không được có quyền tự do lựa chọn hàng hoá để tiêu thụ. Mậu Dịch Quốc Doanh của Cộng Sản cung cấp cái gì thì khách hàng tiêu thụ cái đó, và do thị trường hoạch định không có tính cạnh tranh đã bóp nghẹt sáng kiến phát triển thị trường cũng dần dần làm chết khô héo nền kinh tế chỉ huy hoạch định của Cộng Sản.


Chủ Nghĩa Mậu Dịch Cộng Sản không phải là Mậu Dịch Quốc Doanh của Cộng Sản, nhưng nó đã lột xác biến thể từ Mậu Dịch Quốc Doanh của Cộng Sản hoàn toàn để trở thành Mậu Dịch Tư Doanh với một tỷ lệ phần trăm của Cộng Sản tham dự trong một nền kinh tế thị trường vừa mới được mở ra ở một xã hội còn do người Cộng Sản cai trị.


Lịch sử cho thấy rõ ràng là những người lãnh đạo Cộng Sản Trung Quốc đã rất tin tưởng vào công cuộc đầu tư Quản Lý Doanh Nghiệp (Entrepreneurship) và các Tư Bản Mỹ ở Wall Street đã đang là người bạn dẫn dắt Trung Quốc trên đường hiện đại hoá đất nước Trung Quốc. Tư Bản Mỹ đã đang đổ vốn hàng tỷ tỷ Mỹ kim và chuyển nhượng kỷ thuật đầu tư vào Trung Quốc. Người CSTQ xây dựng hàng loạt nhà máy xí nghiệp gia công sản xuất và cung cấp một lực lượng rất đông lao động được trả lương thấp để tạo ra hàng loạt đủ loại hàng hoá tiêu dùng cho thị trường tiêu thụ khổng lồ ở Mỹ. Cán cân mậu dịch giữa TQ và Mỹ đã bị chênh lệch quá mức bình thường có lợi nhiều cho TQ cũng là một yếu tố hấp dẫn những người lãnh đạo CSVN học tập làm theo CSTQ.


Hơn nữa, sau cái chết của Chủ Tịch Mao, những người lãnh đạo CSTQ đã dẹp qua một bên Tư Tưởng Chủ Nghĩa Mao (Maoism), để mạnh dạn xây dựng thành công Chủ Nghĩa Mậu Dịch Cộng Sản TQ, và có chủ trương hướng dẫn cho giới trẻ TQ vào con đường lập nghiệp đầu tư quản lý doanh nghiệp với lòng tràn đầy ước muốn làm giàu. Người CSTQ có chủ trương như vậy là để cho giới trẻ TQ với ước muốn làm giàu sẽ xao lãng tâm trí không còn đòi hỏi cải cách chính trị, yêu cầu tự do dân chủ nhân dân gì nữa. Kể từ biến cố Thiên An Môn, ở TQ có hiện tượng mạnh người nào người nấy lo kiếm tiền để làm giàu, hoặc tối thiểu để trở thành Tiểu Tư Sản Mới với ước muốn phải có được Thập Đại Vật Dụng ở trong nhà như sau: một máy truyền hình màu, một dàn máy khuếch đại âm thanh nổi, một bộ bàn ghế tủ giường hợp theo mốt thời trang, một bộ máy giặt sấy quần áo, một cái tủ lạnh, một chiếc xe gắn máy, môt máy chụp hình hay quay phim, một chiếc quạt máy, một máy vi tính, một cái điện thoại di động. Nói theo Antonio Martins là ở Trung Quốc "bất luận bạn thuộc vào thành phần giai cấp nào, nếu bạn có tiền, thì bạn được tốt đẹp - In China regardless of class, if you have money, you're fine". Và hiện nay, những người lãnh đạo CSTQ chấp thuận cho tư nhân sở hữu đất đai bất động sản, và tư nhân được phép khai phá sản, thì Trung Quốc không còn là một quốc gia thực sự theo chủ nghĩa CS nữa. Thực tế cho thấy những người lãnh đạo CSTQ đã từ bỏ chủ nghĩa CS để mạnh dạn xây dựng chủ nghĩa Mậu Dịch Cộng Sản TQ ngay sau cái chết của Chủ Tịch Mao.


Nhưng tại sao TQ chưa trở thành một quốc gia thực sự hiện đại với chủ nghĩa mậu dịch tự do trong một nền kinh tế thị trường tự do?


Bởi vì CSTQ cho phép người dân TQ tiêu thụ được tự do lựa chọn những món hàng tiêu thụ, và CSTQ còn thúc đẩy người dân TQ tiêu thụ mạnh hàng hoá nội địa để phát triển nội thương. Nhưng CSTQ không cho phép người dân TQ có ý kiến đối lập chính trị. CSTQ không cho phép người dân TQ có quyền tự do lựa chọn những người thực sự đại diện cho dân. Vào năm 1990 sử gia Jonathan Spence đã có một nhận định rất sâu sắc như sau, "Nếu Trung Quốc có mục đích phát triển trở thành một quốc gia hiện đại . . . . . . . . . Sẽ KHÔNG có được một Trung Quốc thực sự hiện đại cho tới khi nào người dân Trung Quốc được trả lại tiếng nói của họ - If China was to develop as a modern nation . . . . . . . . .There would be NO truly modern China untill the people were given back their voices".


Người CSVN đang theo bước chân của người CSTQ để xây dựng Chủ Nghĩa Mậu Dịch Cộng Sản (Communist Mercantilism) ở Việt Nam. Tầng lớp ưu tú lãnh đạo chính trị của đảng CSTQ và giới chỉ huy thương nghiệp TQ rất tin tưởng vào công cuộc đầu tư quản lý doanh nghiệp TQ (Chinese Entrepreneurship) để phát triển xã hội hơn là tin tưởng và chủ nghĩa CS mà hiện giờ hầu như không còn một người TQ nào muốn nhắc tới nó nữa. Ở TQ đã hình thành rõ rệt một tầng lớp Tư Bản Đỏ giàu sụ và một số Tiểu Tư Sản Mới hàng ngày say mê làm ra tiền để xây dựng thành công Chủ Nghĩa Mậu Dịch Cộng Sản Trung Quốc, mà nó còn có một ý nghĩa rất xấu khác nữa là Chủ Nghĩa Hám Lợi của Con Buôn do từ ngữ Mercantile và Mercantilism mà ra. Sự cách biệt giữa Giàu và Nghèo của người TQ càng ngày càng sâu rộng ở khắp cả nước trong khi những người cầm quyền TQ vẫn không tỏ ra có một dấu hiệu nào cho thấy họ muốn cải cách chính trị mở rộng dân chủ nhân dân ra toàn dân TQ, và họ cũng vẫn không muốn tìm kiếm tính cách chính thống cho chính quyền do họ dựng lên từ mấy chục năm nay qua công cuộc cởi mở thực sự cho người dân TQ được quyền tự do thực sự bầu cử ứng cử và thực sự có quyền lựa chọn người đại diện chân chính cho người dân TQ.


Ở Việt Nam, để xây dựng thành công Chủ Nghĩa Mậu Dịch Cộng Sản theo rập khuôn của CSTQ, người CSVN chẳng những cần có Tư Bản Mỹ đầu tư vốn đô la Mỹ vào VN, mà người CSVN cũng rất cần phải nhập cảng kỷ thuật của Mỹ. Tương tự như CSTQ đã nhờ các Đại Học Mỹ đào tạo một số rất đông chuyên viên quản lý các ngành, họ đã tốt nghiệp và trở về TQ làm việc hoặc tổ chức các công ty của TQ, và góp phần giúp phát triển nền kinh tế của TQ ngày nay.


Cũng giống như người CSTQ, người CSVN chỉ chú trọng tới công cuộc Đầu Tư Quản Lý Doanh Nghiệp (Entrepreneurship) để bù lắp vào khoảng trống của khâu quản trị các doanh nghiệp sản xuất quốc doanh của nhà nước quản lý trước đây còn tồn tại. Các tập đoàn lãnh đạo của CSVN ở các cấp từ Trung Ương xuống tới địa phương của Tỉnh, Thành Phố, Quận Huyện, Xã, Ấp vân vân đều tham gia vào công cuộc đầu tư quản lý doanh nghiệp bằng chính danh nghĩa của bản thân họ, hoặc xuyên qua những người thân trong gia đình, bà con dòng họ của đảng viên đoàn viên đều được chia cho số cổ phần trong công cuộc đầu tư quản lý doanh nghiệp, và được chia chác các phần lợi tức của doanh nghiệp. Tất cả họ đều tìm kiếm những cơ hội làm giàu nhanh chóng và người CSVN lại có chủ trương là các doanh nghiệp do nhà nước quản lý sẽ từ từ được tư nhân hoá qua việc cổ phần hoá để chắc chắc những đảng viên đoàn viên đã từng có được một số lớn cổ phần của doanh nghiệp sẽ tiếp tục vai trò chủ chốt trong khâu quản lý, hay trở thành những người chủ mới của doanh nghiệp hợp pháp lâu dài trong tương lai qua một hệ thống cha truyền con nối bà con dòng họ nối vòng tay lớn bảo vệ quyền lợi cho nhau, và ổn định xã hội VN!!??


Người CSVN rất tin tưởng vào công cuộc đầu tư quản lý doanh nghiệp để tất cả các đảng viên đoàn viên CSVN được lột xác trở thành con người mới, Tư Bản Đỏ và Tiểu Tư Sản Mới trong xã hội VN mới, với nhiều hy vọng vẫn còn nắm giữ được quyền chỉ huy các doanh nghiệp sau khi đã được cổ phần hoá và tư nhân hoá hoàn toàn. Lúc đó các tập đoàn chỉ huy các doanh nghiệp tư nhân này sẽ liên kết chặt chẽ với tập đoàn lãnh đạo chính trị của CSVN để duy trì ổn định chính trị và quyền thống trị đất nước VN. Như thế là đảng CSVN sẽ tồn tại trăm năm hoặc ngàn năm cho dù phải lột xác thay da đổi thịt tuỳ theo hoàn cảnh thực tế, nhưng cốt lõi vẫn là CSVN.


Có một sự kiện mà người ở ngoài đảng CSVN không thể biết được là tỉ lệ người lãnh đạo doanh nghiệp tư nhân thực sự là đảng viên CSVN là bao nhiêu người sau khi công ty xí nghiệp được tư nhân hoá. Có thể là 100% còn là đảng viên vẫn duy trì sinh hoạt đảng ở chi bộ địa phương. Và đã có hiện tượng của một số đông thương gia hoặc người quản lý doanh nghiệp tư nhân lại muốn xin gia nhập đảng CSVN để dễ bề làm ăn mua bán ở thương trường VN. Để bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp của họ tại VN, các người quản lý đầu tư doanh nghiệp tư nhân đều muốn thoả hiệp với người CSVN tới một mức độ nào đó mà người ngoài cuộc không thể hiểu được. Và đa số các doanh nghiệp tư nhân này, nếu không do người CSVN đã lột xác làm chủ nhân, thì một cách kín đáo gián tiếp không muốn có một cuộc cải cách chính trị dân chủ nhanh chóng ở VN. Và như thế là lại rất hợp với ý muốn của người CSVN khi họ muốn đào tạo nhanh chóng một tầng lớp Tư Bản Đỏ và Tiểu Tư Sản Mới làm giới chỉ huy hoặc là chủ nhân của các doanh nghiệp tư nhân mới sau khi tiến trình tư nhân hoá cổ phần hoá hoàn tất. Những người này sẽ rất trung thành với chế độ, và họ sẽ liên kết với tập đoàn lãnh đạo chính trị của CSVN quyết liệt bảo vệ quyền lợi của bản thân cũng như quyền lợi của đảng CSVN.


Trên đây chỉ là một phân tách sơ lược Chủ Nghĩa Mậu Dịch Cộng Sản.


Chủ Nghĩa Mậu Dịch Cộng Sản cần phải được nghiên cứu thêm nhiều hơn để cho thấy rõ một hệ thống mậu dịch quốc doanh của một nền kinh tế hoạch định chỉ huy của một nước cộng sản đã lột xác thay hình đổi dạng ra sao khi muốn hoà nhập vào nền kinh tế thị trường với sự trợ giúp của Tư Bản Mỹ. Và tư tưởng, luân lý, đạo đức cộng sản nếu có, đã bị huỷ hoại như thế nào khi người CS đã lột xác trở thành tư bản đỏ. Bản chất của tư bản là tham lam. Có lẽ khi người cộng sản lột xác thành tư bản đỏ thì tham lam nhiều lần hơn!?


Nhân đây, do tính cách những người CSVN tin tưởng vào công cuộc đầu tư quản lý doanh nghiệp theo bước chân người CSTQ xây dựng chủ nghĩa mậu dịch cộng sản với sự giúp sức của tư bản Mỹ, và mong muốn đô la Mỹ làm một vị thần hộ mạng cho chế độ CSVN, tôi bày tỏ ý kiến của cá nhân tôi khi vẽ lại Lá Cờ Chủ Nghĩ Mậu Dịch Cộng Sản Việt Nam.


Lá cờ Chủ Nghĩa Mậu Dịch Cộng Sản Việt Nam có thêm một ý nghĩa mà Antonio Martins đã từng phát biểu dành cho người TQ, bây giờ đem áp dụng cho người dân VN cũng là rất đúng. Ở VN, đại khái có 5 thành phần xã hội là Sĩ-Nông-Công-Thương-Binh được thể hiện bằng ngôi sao vàng năm cánh, và 5 thành phần này hiện nay tất cả đều được khuyến khích ra sức làm kinh tế thị trường kiếm đô la Mỹ để làm giàu. Ý nghĩa kiếm đô la Mỹ để làm giàu được thể hiện bằng hình ảnh Dấu Hiệu Đô La Xanh của Mỹ bao bọc Ngôi Sao Vàng Năm Cánh ở chính giữa lá cờ. Như vậy, "Bất luận anh thuộc vào thành phần giai cấp nào của xã hội ở VN, nếu anh có Tiền Đô La Mỹ, thì anh sẽ được rất tốt đẹp - Regardless of your Class in VN, if you have the U.S Dollars, you will be very fine"


Lá cờ Chủ Nghĩa Mậu Dịch Cộng Sản Việt nam có thể nhìn thấy từ cả hai phía: Một phía là nhìn từ ngoài vào trong, thì Ngôi Sao Vàng ở phía sau Dấu Hiệu Đô La Xanh của Mỹ. Một phía kia là nhìn từ trong ra ngoài thì thấy Ngôi Sao Vàng nằm trên Dấu Hiệu Đô La Xanh của Mỹ. Thực chất của Đô La Mỹ là có tác dụng đôi, cả hai chiều xấu và tốt của nó!


Trân trọng kính xin ý kiến đóng góp phê bình của tất cả Quí Vị.

Dr. Tristan Nguyễn
San Francisco, USA

Ðấu Tố, Cải Cách Ruộng Ðất

Thư không niêm thứ 2 gởi ông Nguyễn Minh Triết, Chủ Tịch Nước CHXHCN Việt Nam

Thư gởi
ông Nguyễn Minh Triết
Chủ Tịch Nước CHXHCN Việt Nam.

Đây là thư không niêm thứ 2 mà tôi gởi đến Ông. Trong thư ngày 23/6/2007, tôi có tự giới thiệu rồi nên thư này tôi vào thẳng vấn đề cần nêu lên với ông Chủ Tịch.

Trong bữa ăn tại khách sạn Saint Regis Resort thành phố Dana Point cũng thuộc Quận Cam nhưng cách “thủ đô tị nạn” của chúng tôi khooảng 40 cây số, mà truyền thông trên đất nước của ông tuyệt đối cấm truyền thông tư nhân lại khoe là ông tiếp xúc với kiều bào hải ngoại (!). Lãnh đạo cộng sản Việt Nam gian trá thì cả nước biết, Cộng Đồng chúng tôi tị nạn cộng sản càng biết rõ hơn, và truyền thông lẫn những nhà chính trị thế giới cũng biết, nhưng cũng vừa vừa phải phải thôi chớ trắng trợn như vậy người ta cười ông và “đồng chí” của ông đến thúi đầu ông à!
Xe chở Triết không dám cắm cờ ở Dana Point, Nam California

Cũng trong bữa ăn đó khi nói chuyện với những người có mặt trong phòng ăn mà khoảng một nửa thực khách do ông dẫn theo từ Việt Nam, ông ra vẻ bình tĩnh, lại thêm tí ti nụ cười làm dáng, nhưng thật ra trong thâm tâm ông bối rối lắm. Tôi nói ông bối rối, bằng chứng là cả đoàn xe mà ông dẫn một phái đoàn cấp quốc gia dù là quốc gia cộng sản độc tài, lại không dám cắm lá cờ máu của ông để tránh bị Cộng Đồng tị nạn cộng sản đang dàn chào không nhận ra ông ngồi trên xe nào. Ông bảo Đại Sứ của ông tại xứ này “báo cáo” cho ông biết, “trên thế giới có vị lãnh đạo nào từ quốc gia gốc đến thăm kiều bào của mình tại Hoa Kỳ mà lại sợ kiều bào của mình như ông không”. Trong phần nói chuyện của ông, có đoạn ông nói: “… bà con hải ngoại hãy quên quá khứ mà đoàn kết xây dựng đất nước …”

Nhóm chữ “quên quá khứ” mà ông Chủ Tịch sử dụng, đồng nghĩa với nhóm chữ “khép lại quá khứ” mà hai ông cựu Thủ Tướng cộng sản Võ Văn Kiệt với Phan Văn Khải sử dụng, trong thời gian ông Khải chuẩn bị thăm Hoa Kỳ hồi tháng 6 năm 2005.

Thưa ông Chủ Tịch,

Tôi không hiểu tại sao đến nay là 32 năm sau khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đánh chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa, ông và “đồng chí” của ông trong nhóm lãnh đạo cộng sản nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, lại dụ dỗ Cộng Đồng tị nạn cộng sản quên quá khứ đau thương của mình để đoàn kết xây dựng đảng cộng sản của ông vững mạnh mà ông nói là xây dựng đất nước?

Về phần tôi, tôi rất muốn mọi quá khứ trôi vào quên lãng, nhưng không được ông à! Vì cái quá khứ mà ông và các “đồng chí” của ông gây ra trên quê hương Việt Nam, trên thể xác lẫn tâm hồn của mọi người dân Việt, độc ác quá, tàn bạo quá, cay đắng quá! Đây là sự thật khách quan mà các ông không thể nào phủ nhận được. Tôi vẫn hiểu rằng, lịch sử là không thể thay đổi, nhưng có những điều sai trong lịch sử vẫn sửa được trong hiện tại, để có điều kiện hướng đến một tương lai tốt đẹp. Nghĩa là chính ông và các “đồng chí” của ông, phải làm ngược lại những gì mà các ông đã làm sai từ những ngày đầu năm 1975 và sau đó, mà rõ ràng nhất là 6 vấn đề sau đây:

- Vấn đề thứ nhất. Vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những ngày trước đó, hằng chục ngàn thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa đang trong các Tổng Y Viện và Quân Y Viện, các ông đã vô cùng tàn nhẫn khi quẳng Họ ra ngoài đường sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa, rồi các ông bảo “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ các ông có trách nhiệm bồi thường tổn hại vật chất lẫn tinh thần cho Họ. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ.

- Vấn đề thứ hai. Các ông đã cướp đoạt nhà cửa ruộng vườn cùng những tài sản khác của chúng tôi, mà các ông sử dụng nhiều nhóm chữ khác nhau để che đậy cái gian trá lọc lừa của các ông. Tài sản của chúng tôi bị các ông chiếm đoạt, rồi bảo chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ các ông phải hoàn trả tất cả những tài sản ấy lại, đồng thời bồi thường thiệt hại đúng mức trên những tài sản ấy. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ.

- Vấn đề thứ ba. Các ông không thông qua một cơ quan luật pháp nào khi bắt giam 222.809 quân nhân viên chức cán bộ Việt Nam Cộng Hòa cũ, đưa vào hơn 200 trại tập trung trong mục đích tẩy não mà các ông gọi là “cải tạo”, và hành hạ tinh thần lẫn thể xác cho đến 17 năm mới thả hằng trăm người cuối cùng, rồi bảo chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ các ông phải bồi thường thiệt hại vật chất lẫn tinh thần cho ngần ấy tù nhân chính trị chúng tôi, trong ngần ấy thời gian bị giam giữ. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ!

Vấn đề thứ tư. Chắc ông Thủ Tướng không thể nào quên trong 10 năm đầu kể từ những ngày cuối tháng 4 năm 1975, khi mà những công dân Việt Nam Cộng Hòa cũ không thể sống nổi sự kềm kẹp chính trị, nên đành phải liều chết tìm đường đến bến bờ tự do với cái giá phải trả thật là khủng khiếp! Lúc ấy, các ông gọi chúng tôi là bọn ngụy quân ngụy quyền, bọn phản quốc, bọn ôm chân đế quốc, bọn ăn bơ thừa sữa cặn, bọn đĩ điếm lưu manh rác rưởi của xã hội, ..v..v... Thôi thì các ông dùng tất cả những chữ nghĩa nào mà chửi rủa được là mang ra sử dụng để sỉ vả nhục mạ chúng tôi, rồi bảo chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ Bộ Chính Trị của ông phải chánh thức xin lỗi Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn cộng sản tại hải ngoại, và rút lại những lời sỉ nhục đó. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ!

- Vấn đề thứ năm. Nghĩa trang quân đội Biên Hòa, nơi an nghỉ của hơn 16.000 người Việt Nam đã tròn bổn phận công dân với quốc gia dân tộc. Tưởng được yên bình vĩnh cửu trong lòng đất nơi đây, nhưng với bản chất vô nhân của các ông đã “thêm một lần tàn sát thi thể Họ” qua hành động đào xới mồ mả, vừa thỏa lòng thù hận của kẻ chiến thắng do bản chất gian trá vi phạm những điều mà các ông đã ký kết, vừa chiếm đoạt đất đai làm tài sản riêng, rồi bảo chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ các ông phải hoàn chỉnh lại phần cấu trúc toàn cảnh như lúc các ông tàn phá, kể cả tượng Thương Tiếc. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ!

- Và vấn đề thứ sáu. Ông và các “đồng chí” lãnh đạo của ông, phải trả những quyền căn bản của con người và những quyền được sống tự do cho 83 triệu công dân trên quê hương Việt Nam, mà bản Hiến Pháp của các ông thừa nhận.

Nếu các ông hành động được như vậy, tôi tin rằng Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại sẽ vui lòng khép lại cái quá khứ kinh hoàng đó! Chớ các ông nói theo cái ngôn ngữ mà ông Hà Sĩ Phu gọi là thứ “ngôn ngữ lộn ngược trong xã hội xã hội chủ nghĩa” ngày nay, làm sao Cộng Đồng chúng tôi tin các ông được, nói gì đến cái việc quên quá khứ! Còn nếu ông và các “đồng chí” cùng lãnh đạo với ông vẫn cho rằng, sáu vấn đề nêu trên là các ông không sai, thì đừng bao giờ các ông nghĩ đến bất cứ phương thức nào để cầu mong mà các ông gọi là “vận động” Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại quên đi cái quá khứ đắng cay tàn bạo do các ông gây ra.

Xin ông Chủ Tịch vui lòng nghiền ngẫm kỹ sáu vấn đề vừa nêu, rõ ràng là không hề chứa đựng điều gì ngoài sự thật, cũng không chứa đựng những gì mà ông có thể xem tôi mang lòng thù hận cả. Và tôi nhấn mạnh rằng, ở đây tôi đòi lại những gì mà Cộng Đồng tị nạn chúng tôi và 83 triệu dân trong nước đã mất vềchính trị lẫn vật chất, do tính gian trá lọc lừa cướp đoạt của các ông, chớ không phải tôi xin các ông đâu nhé!

Xe chở Triết không dám cắm cờ ở New York

Thưa ông Chủ Tịch,

Dưới đây là tôi ghi lại quan điểm của vài đảng viên cộng sản lão thành mà nay những vấn đề đó vẫn còn nguyên ý nghĩa.

- Tiến sĩ Lê Đăng Doanh. Trong buổi họp mật tại Bộ Chính Trị ngày 2/11/2004, sau phần phát biểu ứng khẩu, những vị quyền lực nêu câu hỏi: … Và câu hỏi phụ, Bác là nhà khoa học, đi đó đi đây ở ngoại quốc rất nhiều, vậy điểm yếu của giới khoa học của mình khi giao lưu với quốc tế là gì?

Ông Lê Đăng Doanh trả lời. …Những cán bộ khoa học Việt Nam công tác ở ngoại quốc, rõ ràng là Việt Nam có phát triển, nhưng chỉ là phát triển so với chính mình ở giai đoạn trước đây chớ không có nghĩa là phát triển so với các quốc gia khác, nhưng cũng lộ ra nhược điểm rất lớn: Đó là “cái mũ kim cô” trên đầu. Cho nên lúc nào cũng ngập ngừng, muốn nói mà không dám nói vì sợ đủ điều khi trở về nước. Vừa rồi tôi sang Singapore, ông Viện Trưởng Trường Đại Học Quản Lý hỏi tôi: “Việt Nam của ông có được tự do phát ngôn hay không”. Tôi trả lời: “Tại Việt Nam chúng tôi tự do phát ngôn thì có, nhưng quyền tự do sau khi phát ngôn thì tôi không bảo đảm”. Cái câu hỏi của ông Viện trưởng trường đại học trên đây cho thấy mức độ tự do cởi mở, mức độ trách nhiệm của các nhà khoa học Việt Nam khi ra ngoại quốc, đã làm cho họ trở nên thấp kém so với kiến thức của họ.

- Ông Trần Độ, cựu tướng cộng sản của ông. Trong tập nhật ký Rồng Rắn của ông, khi nói đến những trường hợp điển hình về thối nát, ông viết: “Những điều đó lác đác báo chí có tường thuật, nhưng phải nghe được người dân nói với nhau ở hè phố, ở góc chợ, ở khắp mọi nơi, mới thấy rõ được bức tranh thật của xã hội. Một xã hội mà ta mơ ước và lý tưởng hóa, lại tồn tại trong hiện thực như vậy, thì có thể coi là ta xây dựng được một xã hội tốt đẹp hay chưa?”

Ông nêu câu hỏi: Cuộc cách mạng Việt Nam đã đem lại được cái gì cho nhân dân Việt Nam? Rồi ông tự trả lời: Cứ xem xã hội Việt Nam hiện nay, cuộc sống Việt Nam hiện nay, ai cũng thấy một nét lớn rất là đau lòng, là “tất cả những gì xấu xa, tàn bạo, mà cách mạng đã có lúc xóa bỏ và đập tan, thì nay, chẳng những nó được khôi phục lại hoàn toàn, mà còn khôi phục mạnh hơn, cao hơn, do những người nhân danh làm cách mạng!”

Ông cho rằng: Đảng tự đưa ra điều 4 của Hiến Pháp rồi bắt nhân dân phải chấp nhận sự lãnh đạo duy nhất của đảng. Trong Hiến Pháp có những điều khoản nói về quyền dân chủ của dân, nhưng 3 điều dân chủ căn bản là tự do ngôn luận, tự do bầu cử, và tự do lập hội, thì bị chôn vùi bởi những đạo luật rất ư là phản động với những thủ đoạn bỉ ổi! Với khẩu hiệu “sống theo pháp luật”, nhưng thực tế thì đảng sống trên pháp luật, chỉ có dân đen mới sống trong pháp luật, với lại pháp luật thì trái ngược với Hiến Pháp. Xã hội Việt Nam ngày nay là một xã hội vô pháp luật, mà thành phần đầu tiên gây ra là lãnh đạo đảng. Không thể nào chống tham nhũng được, vì lãnh đạo đảng là độc tài toàn trị, là nguồn gốc của mọi tiêu cực trong xã hội, dẫn đến tình trạng một xã hội phản dân chủ, nếu đảng chống tham nhũng cũng là đảng tự chống đảng sao!

Ông viết tiếp: Từ lâu nay, đảng cộng sản quan niệm xây dựng chủ nghĩa xã hội là mang lại hạnh phúc cho nhân dân, vì vậy chống chủ nghĩa xã hội là chống lại hạnh phúc của nhân dân, và như thế là phản động. Rồi ông tự nêu câu hỏi: Có thật là chủ nghĩa xã hội mang hạnh phúc cho nhân dân không? Hiện thực ở Việt Nam từ năm 1979 về sau, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước đã mang lại kết quả như thế nào? Tại sao đại hội lần thứ 6 đổi mới lại cứu được nhân dân? Tại sao Liên Xô xây dựng chủ nghĩa xã hội hơn 70 năm mà không thể đứng vững? Các quốc gia vùng Đông Âu theo Liên Xô cũng đều thay đổi, phải chăng là nhân dân các quốc gia đó bất bình với chế độ xã hội chủ nghĩa? Tại sao chỉ có từ các nước xã hội chủ nghĩa và đặc biệt là từ Việt Nam, đến hằng mấy triệu người bất kể hiểm nguy sống chết khi ra đi tìm đường sống ở các nước khác? Bộ máy tuyên truyền nói là toàn thể nhân dân đã lựa chọn thể chế xã hội chủ nghĩa, nhưng thực chất có ai hỏi ý kiến dân đâu mà nói là dân chọn lựa!

- Tiến sĩ Trần Thiện Tâm. Trong thư đề ngày 1/12/2004, ông nhắc đến ông Trần Đại Sơn, cựu Đại Tá quân đội cộng sản của ông. Trong cuộc phỏng vấn của đài Á Châu Tự Do ngày 15/11/2004, ông Sơn phát biểu: “Việt Nam chúng tôi dưới sự lãnh đạo của cộng sản thì làm gì có pháp luật. Lệnh của Bộ Chính Trị muốn bắt ai thì bắt, muốn tha ai thì tha, muốn xử ai bao nhiêu năm thì ra lệnh cho tòa án xử. Tòa án tại Việt Nam chúng tôi, không bao giờ xử theo luật mà xử theo lệnh của lãnh đạo. Lãnh đạo càng cao càng tham nhũng mạnh, làm gì có người lãnh đạo tử tế. Bây giờ đảng cộng sản Việt Nam nát lắm rồi, đừng để nó nồng lên mũi không ai ngửi được”.

Nhắc đến đây, giáo sư Tâm chợt nhớ đến tiên sinh Hoài Nam Tử có dạy rằng: Đức ít mà ân sủng nhiều, tài ít mà địa vị cao, công nhỏ mà bổng lộc lớn, chính là ba đại họa. Những nhà lãnh đạo cao nhất của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chúng ta, có đủ ba cái đại họa này, vì vậy mà nó trở thành đại họa cho dân tộc Việt Nam là cái kết quả đương nhiên!

Giáo sư Tâm như tự trách trong nỗi lòng đắng cay chua xót : “Như vậy là chúng ta đã xây dựng một xã hội mà mọi giá trị đều bị đảo lộn: “Tốt thành xấu, xấu thành tốt, có công thành tội, có tội trở thành có công.

Tôi xin hỏi nhỏ ông Chủ Tịch: “Ông nghĩ gì về nhận thức từ những đồng chí của ông mà tôi nêu trên?”

Các ông ấy là những đảng viên nhiều tuổi đảng hơn ông, là những người có bằng cấp ngang ông và cao hơn ông, cũng là những cán bộ hàng lãnh đạo đã cùng ông quyết tâm đánh chiếm “Việt Nam Cộng Hòa” chúng tôi mà các ông gọi là “giải phóng”. Bây giờ những đảng viên ấy nhận ra điều sai lầm không thể tưởng tượng được, thì cuộc đời đã phí vào điều mà các ông ấy “tưởng đi làm cách mạng hóa ra đã đi lộn ngược”. Trong nhật ký Rồng Rắn của ông Trần Độ, sau khi ôn lại chặng đường dài gần hết cuộc đời mà ông “tưởng là làm cách mạng”, tác giả vừa tự trách với nỗi đắng cay vô tả: “Vậy là, chính ta lại xây nên cái mà ta đã đập tan nó ...”.

Xin chào ông Nguyễn Minh Triết, Chủ Tích nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam./.

Houston, 24 tháng 6 năm 2007

Người Dân Việt Nam Đang Phải Chật Vật Để Kiếm Miếng Cơm Manh Áo Qua Ngày

Tin Saigon - Tại Việt Nam, những tỷ phú giàu sụ của đảng Cộng sản Việt Nam vẫn chưa lọt vào được danh sách của tạp chí Forbes, nhưng những người nghèo khổ khốn đốn thì rất nhiều, như bản tường trình về những phương cách mà người dân Việt Nam đang phải chật vật để kiếm miếng cơm manh áo qua ngày, từ những người buôn bán trái cây cho đến những người bán sách bên lề đường, mời quý vị cùng theo dõi trong phóng sự đặc biệt một ngày qua ống kính SB-TN do Thanh Toàn thực hiện sau đây (video 3 phút).

Những Trẻ Em Nghèo Khó Tại Mũi Né

Tin Phan Thiết - Trở lại với những hình ảnh mà các thông tín viên Ðăng Minh, Thanh Toàn và Hồng Thủy đã quay được tại Việt Nam, sau đây là câu chuyện của những em bé ở vùng biển Phan Thiết, nghèo đến đỗi không được đến trường, và phải giúp cha mẹ bằng cách làm hướng dẫn du lịch bất đắc dĩ đưa khách đi thăm viếng vùng Mũi Né. Mời quý vị cùng theo dõi phóng sự đặc biệt Một ngày qua ống kính SB-TN sau đây (video 3 phút).

Âm Mưu Ðộc Quyền Mua Bán Ðiện Trên Toàn Việt Nam

Tin Saigon - Thông tín viên SB-TN từ trong nước gởi ra bản tin đặc biệt về âm mưu khai thác điện độc quyền của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam, đã gặp những chỉ trích mạnh mẽ từ phía các tổ chức thế giới kể cả Ngân hàng thế giới tức World Bank. Mời quý vị cùng theo dõi phóng sự đặc biệt từ trong nước sau đây (video 3 phút).

Tình Trạng Giá Thuốc Tây Ở Trong Nước

Tin Hà Nội - Trong khi đó trở lại với những hình ảnh từ Việt Nam, hôm nay Thanh Toàn gởi đến quý vị một phóng sự đặc biệt về tình trạng giá thuốc tây ở trong nước, mà những người dân nghèo khó đã phải chật vật lắm mới có thể có đủ tiền mua, nhưng vẫn phải lo sợ là còn gặp nạn thuốc giả, thuốc ma. Mời quý vị cùng theo dõi phóng sự đặc biệt sau đây (video 3 phút).

TÀI LIỆU 35 NĂM CHIẾN TRANH VIỆT NAM

Cám Ơn Anh Người Thương Binh VNCH


Kính gởi quý vị khán giả Montréal và các vùng lân cận thân ái

Theo thông lệ hàng năm, The Handicapped and Orphans Fund xin được vạn hạnh giới thiệu đến tất cả quý vị khán thính giả của Montreal, cùng các vùng lân cận một chương trình đại nhạc hội hết sức đặc sắc và hiếm có.

Từ hơn một năm qua, chương trình đại nhạc hội này đã được chuẩn bị công phu với tất cả tâm thành và nhiệt tình của ban tổ chức với mục đích cống hiến đến quý vị khán giả một kết hợp nghệ thuật đầy tình nhân ái trong nét đặc thù của bản sắc dân tộc.

Số tiền quyên góp trong ngày đại nhạc hội sẽ được trao đến từng gia đình thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa đang quẫn bách khốn khó tại quê nhà.

Cũng xin kính thông báo cùng quý vị khán giả thân ái, lần đầu tiên, dưới sự bảo trợ của đài truyền hình SBTN và nhạc sĩ Trúc Hồ, chương trình CẢM ƠN ANH tại Montreal sẽ được trực tiếp thu hình và phát hình đến khắp cộng đồng người Việt trên toàn thế giới.

Đây là một chương trình văn nghệ hát cho lính, và vinh danh những người lính anh dũng, hào hùng, bất khuất Việt Nam Cộng Hòa, đã chiến đấu, và đã hy sinh cho nền tự do dân chủ của Miền Nam Việt Nam.

Kính mời quý vị khán giả hãy cùng với gia đình, cùng với bằng hữu, cùng với chúng tôi đến tham dự buổi đại nhạc hội CẢM ƠN ANH, cùng thưởng thức một chương trình văn nghệ phong phú, lôi cuốn, quy mô chưa từng có với những tiết mục vô cùng ý nghĩa, thật cảm động và tràn đầy kỷ niệm của một thời chinh chiến, một thời bỏ xứ ra đi.

Sự có mặt của mỗi một quý vị khán giả không chỉ là sự biểu lộ tấm lòng yêu thích nghệ thuật đơn thuần , mà còn sâu sắc hơn, sự có mặt của mỗi quý vị khán giả đến với buổi đại nhạc hội CẢM ƠN ANH, chính là những lời tri ân trân trọng chan hòa tình nhân ái nhất đến với từng mỗi người lính Việt Nam Cộng Hòa đã bỏ mình trong cuộc chiến vì hai chữ Tổ Quốc, phải hy sinh một đời vì xả thân bảo vê Quê Hương để cho mỗi chúng ta ngày hôm nay có cơ hội sống còn nơi này hít thở bầu trời tự do xanh thẳm.

Sự có mặt của mỗi quý vi khán giả trong ngày đại nhạc hội CẢM ƠN ANH cũng chính là những tiếng nói bắt nguồn từ mỗi trái tim nhân ái, thao thức và quan tâm hoài vọng đến cuộc sống của các thương binh Việt Nam Cộng Hòa đang khốn khổ bị bỏ quên tại quê nhà.

Ban tổ chức xin được trân trọng tỏ bày lòng biết ơn đến thời gian và tấm lòng của từng mỗi quý vị khán giả Montréal và các vùng lân cận thân yêu trong nhiều năm qua đã không ngừng ủng hộ và bảo trợ cho cho tất cả chương trình của The Handicapped and Orphans Fund thực hiện. Chúng tôi rất kính mong được gặp lại tất cả quý vị khán giả trong ngày đại nhạc hội CẢM ƠN ANH, một đại nhạc hội vinh danh và tri ân ông, cha, chú, anh, em, bằng hữu, và những thương binh Việt Nam Cộng Hòa.

Vô cùng trân trọng

Ban tổ chức của đại nhạc hội CẢM ƠN ANH

ĐỪNG QUAN TRỌNG HÓA MỘT CON ZERO !


Radio V.O.V Câu Chuyện Trong Ngày

Tiếp xúc với Tổng thống Bush, vào tận Quốc hội Hoa Kỳ vận động ủng hộ tôn trọng nhân quyền ở Việt Nam, tổ chức biểu tình chống Nguyễn Minh Triết khi phái đoàn của ông này vừa chân ướt chân ráo tới New York, rồi tiếp tục biểu tình trước Bách Cung, rồi đến hai cuộc biểu tình rầm rộ ở Nam California mỗi ngày 5,000 người tham dự. Đó là phản ứng của ngươì Việt tỵ nạn Cộng sản đối với chuyến đi thăm Mỹ quốc của ông Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nước Việt Nam Cộng Sản.

Nếu chuyến đi của ông Triết có thể thành công về mặt ký kết thương mại với tư bản Hoa Kỳ hay bất cứ một hiệp ước gì gì đó với chính phủ George W. Bush, thì về mặt nhân tâm đối với cộng đồng Việt tỵ nạn Cộng Sản ở Mỹ quốc ông Triết thất bại hoàn toàn.

Thất bại hơn cả chuyến thăm Hoa Kỳ trước đây của ông Phan Văn Khải. Nguyên nhân cũng vì đảng và nhà cầm quyền Việt Cộng tin vào những báo cáo sai lạc từ nhân viên của họ đang hoạt động chìm trong các cộng đồng tỵ nạn Cộng Sản ở hải ngoại, và từ một số nhà báo cùng những cựu chính trị gia Việt Nam Cộng Hòa đã quy thuận phủ Bắc bộ.

Thí dụ điển hình nhất là lời ông Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố khi về Việt Nam , ông nói đa số thầm lặng ở hải ngoại có chung lối nghĩ như ông ấy. Phản ứng của người Việt tỵ nạn Cộng Sản qua chuyến đi Mỹ vừa qua của ông Nguyễn Minh Triết cho thấy câu nói của ông Nguyễn Cao Kỳ xa sự thật tới vài trăm cây số. Nghĩa là … cà nông bắn hổng tới! Nghĩa là … tưởng bở!

Không phải một mình cá nhân ông Nguyễn Cao Kỳ mắc bệnh tưởng bở, lối viết của tờ Việt Weekly trong cả năm qua cũng là một thí dụ điển hình nhất về tưởng bở. Rồi sự xuất hiện công khai của một số thương gia gốc Việt ở Little Saigon trong hai buổi tiếp tân của ông Triết tại St. Regis Resort thuộc thành phố Dana Point, Orange County, cũng là một thí dụ hùng hồn về tưởng bở.

Tâm tình và lối nghĩ của đa số thầm lặng trong khối người Việt tỵ nạn Cộng Sản chắc chắn là có thay đổi, nếu so với thời kỳ những năm sau 1975. Nhưng sự thay đổi đó không hề là đầu hàng để trục lợi, đầu hàng vô điều kiện. Mỉa mai thay, chính những con người bình thường thường được gọi là đa số thầm lặng, những người sáng sớm tinh sương đã phải chui vào sở cày liên tiếp tới khi nắng chiều đã tắt mới được trở về nhà, người con người quần quật làm lao công trong chợ búa, nhà hàng, tiệm quán, mới là những con người thật sự mong muốn tương lai tổ quốc được giải quyết đặt căn bản quyền lợi tổ quốc trên hết, và trên căn bản đồng thuận công bình giữa tất cả các thành phần trong khối dân Việt từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau.

Rất đông người trong hai ngày qua gọi đến VOV Radio để tỏ sự bực mình đối với việc ông Nguyễn Cao Kỳ tự xưng là đại diện của của cộng đồng gốc Việt để nịnh bợ ông Nguyễn Minh Triết. Thật ra ông Kỳ không xứng đáng cho chúng ta bực mình, bởi vị thế của ông đối với cộng đồng tỵ nạn chúng ta là con zero to tướng, tiếng nói của ông cũng là một con số không khổng lồ, và chính Việt Cộng cũng biết rõ như thế. Họ dùng thứ chức tước “xưa rồi diễm” của ông Kỳ chỉ để lòe dân trong nước, con bài Nguyễn Cao Kỳ chỉ có khả năng tuyên truyền đối với trong nước mà thôi. Ông Kỳ tự xưng đại diện cộng đồng gốc Việt là để Việt Cộng mang cái “đại diện dổm” của ổng vào nước trình diễn cho nhạt bớt vụ phái đoàn ông Triết bị người Mỹ khinh, người Việt chống. Chúng ta không nên bất bình, vì có thể lọt bẫy Việt Cộng, họ cố tình gài cho chúng ta chống báng một cá nhân không là gì cả để quên những mục tiêu thật sự quan trọng sau chuyến ông Triết đến Hoa Kỳ.

Những người có coi đài truyền hình Hà Nội hai ngày qua đều biết việc họ ca tụng “sự thành công” của chuyến ông Triết đi Mỹ, dấu nhẹm hoàn toàn việc ông Triết bị dân tỵ nạn Cộng Sản rượt dài dài khắp nước Mỹ; vào Quốc hội, vào Tòa Bạch ốc thì bị dằn mặt - vặn vẹo đủ điều về nhân quyền. Họ chiếu hình ông Triết, nói rằng họ luôn luôn sẳn sàng mở vòng tay để đón những kẻ lầm đường lạc lối trở về, rồi họ chiếu hình … ông Nguyễn Cao Kỳ!

Ý đồ chọc tức của đám bị quê xệ, rất rõ ràng.

Trong những ngày tới, sức mạnh của cộng đồng phải được xử dụng cho đúng mục tiêu. Ông Nguyễn Cao Kỳ không có một chỗ đứng tí tẹo nào trong bất cứ mục tiêu nào của chúng ta. Chiều nay thì được tin Tòa Bạch ốc lại mời những vị gốc Việt đã từng được mời gặp Tổng thống Bush trước khi ông Triết tới Hoa Kỳ, lần này ngoài bốn vị khách cũ tòa Bạch ốc còn mời thêm một số khách khác. Điều này khiến cho sự suy đoán rằng có một cái gì đó xãy ra giữa Tầu Cộng - Việt Cộng – và Hoa Kỳ khiến Hoa Kỳ phải mạnh tay để giải quyết càng có vẻ đúng hơn.

Chưa biết là chuyện gì, quan trọng đến đâu, nhưng lợi dụng thời điểm này để đẩy mạnh phong trào đòi hỏi nhân quyền – dân chủ - tự do cho dân Việt trong nước là điều vô cùng quan trọng.

ĐỖ SƠN

Bệnh thiển cận của chủ tịch: Lãnh đạo tại Việt Nam và Trung Quốc chỉ nhìn ra những gì họ muốn thấy

Có mắt cũng như mù, có tai cũng như điếc

Presidential Myopia: Leaders in Vietnam and China Only See What they Want to See
by John Carey . http://johnib.wordpress.com . Trung Cang Lược Dịch

Các Tổng Thống thường bị tố là bị bệnh tuyển thị (1). Anh hùng của cuộc nội chiến Hoa Kỳ Tướng Grant trở thành Tổng thống Hoa Kỳ và gần như mọi người cùng thời, kể cả Mark Twain, là người xuất bản hồi ký của Tổng Thống, xem ông là một người đáng kính. Tuy thế, ông Grant nhét vào chính quyền của ông ta toàn là những kẻ tham ô và lừa đảo đến độ suýt làm hủy hại ông ta.

Vào thế kỷ trước, một số các lãnh tụ hoan hô Adolph Hitler trong thập niên 1930 vì đã xây dựng một nền kinh tế phục hưng, một phần giống như một phép lạ tại Đức quốc. Sau 1945 họ phủ nhận cuộc hủy diệt holocaust, hoặc nói rằng họ chỉ làm theo lệnh.

Chủ Tịch đương thời của của Việt nam, Nguyễn Minh Triết, trải qua một tuần tại Hoa Kỳ, hòng gửi một thông điệp về kinh tế thịnh vượng và tăng trưởng đến những ai làm ăn với Việt nam. Nhưng những gì mà ông ta được Tổng Thống Bush và các nhà lãnh đạo Quốc Hội (HK) bảo cho phải lưu tâm, là vấn đề mà Ân Xá Quốc Tế (ÂXQT) gọi là sự lan rộng việc ngược đãi nhân quyền tại Việt nam. Sự "Xách nhiễu và đe doạ đối với các nhà đối kháng hàng đầu đang gia tăng, và các biện pháp đã được thực thi để đảm bảo họ không thể gặp gỡ hay trò chuyện với người ngoại quốc," theo báo cáo của ÂXQT ngày 23 tháng Năm 2007.

Chủ Tịch Triết chẳng nghe những điều này gì cả.

Hơn 70% ký giả truyền thông Hoa Kỳ và Tây phương đưa tin về chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của Chủ Tịch Triết, đã bàn về vấn đề nhân quyền tại Việt nam. Chủ Tịch Triết và các cố vấn của ông ta chẳng nhìn thấy những điều này gì cả.

Chúng ta biết rõ chuyện này vì sáng nay tờ Washington Times, Chủ tịch Triết đã giải thích minh bạch quan điểm cận thị của ông ta về tương lai của mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt nam. Đây là huyễn tưởng tuyệt vời của nền kinh tế phồn vinh, không khác gì các lời hứa của Adolph Hitler trong thập niên 1930. Nó chẳng đề cập chi đến sự xấu xa, mà đa phần là được che dấu, của các áp bức tự do tôn giáo, phủ nhận tự do ngôn luận và tự do bầu cử, gần như là diệt chủng đối với các sắc tộc thiểu số như Hmong, và các ngược đãi nhân quyền khác, chẳng hạn như nạn buôn người.

Tổng Thống Hoa Kỳ phát biểu rằng ông ta đã đề cập các vụ ngược đãi này với Chủ Tịch Triết. Nhưng đọc lời thuật lại của Chủ Tịch Triết về chuyến đi Hoa Kỳ đi của ông ta thì lại phát hiện ra thêm một tội ác nữa là tội tuyển thính (2)

Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào của Trung Quốc cũng bị cùng một chứng bệnh thái tâm thần đã xẩy ra cho Chủ Tịch Triết tại Việt nam.

Chủ Tịch Hồ và Trung quốc đã nhất trí hoàn toàn lãng quên điều mà Tổng Thống Bush và những người khác trên thế giới gọi là cuộc diệt chủng tại Dafur."

Tuy thế, cũng có vài sơ xuất, sự thiển cận của Chủ Tịch Hồ, cái mà Tổ Chức Hoà Bình Và Tự Do gọi là "Sự Mù Quáng Dafur" trong sách lược. Liên Hiệp Quốc kết án vụ này. EU kết án vụ này. NATO kết án vụ này. Mọi người kết án vụ này. Cả hai Thủ Tướng Canada, Vua Thụy điển và Thủ Tướng nói chuyện với Hồ trong mười ngày trong tháng Sáu 2007. Nhưng Chủ Tịch Hồ lại thuận đà muốn thổi bay cả thế giới, là điều ông ta đang làm lúc gần đây. (Chẳng may) có con ruồi bé tí trong ve dầu: Các minh tinh Hollywood bắt đầu đặt tên cho Thế vận Bắc Kinh 2008 là "Cuộc Tranh tài Dafur."

Chủ Tịch Hồ cũng theo dõi một chuỗi các vụ thị phi có ý nghĩa đang bùng lên tại Trung quốc trong những tháng qua. Trung quốc dấu lao nô trong các khu vực xa xôi, xa khỏi tầm mắt soi mói của truyền thông Tây phương. Trẻ em bị xử dụng như các nô lệ trong các hầm mỏ và trong các lò gạch. Lao động vị thành niên cũng là một vấn đề. Người ta tìm thấy trẻ em sản xuất các kỷ nệm phẩm phục vụ cho Thế vận Bắc Kinh 2008. Trung quốc xuất khẩu đến Hoa Kỳ hằng tấn thực phẩm, thực phẩm dành cho động vật gia dưỡng, và các sản phẩm chăm sóc sức khoẻ , tiêu hoá được, như kem đánh răng có các phụ gia độc hại cấm xử dụng tại Tây phương. Trung quốc nô dịch hoá Tây tạng một cách tàn bạo. Trung quốc trang bị cho khủng bố thông qua Iran. Trung quốc đã lấn chiếm tất cả các nước để trở thành là đất nước ô nhiễm nhất trên thế giới.

Danh sách các chiến thuật và các chính sách đáng hổ thẹn của Chủ Tịch Hồ tăng tiến đến nỗi nó trở thành sự kết án vô tận cái chế độ Cộng sản mà ông ta tán thành.

Cả hai chế độ Cộng Sản của Chủ Tịch Triết ở Việt nam và Chủ Tịch Hồ ở Trung quốc còn chia sẻ nhiều thứ khác hơn là thịnh vượng kinh tế: Thiếu tự do tôn giáo, thiếu tự do bầu cử, thiếu tự do ngôn luận và truyền thông, có xu hướng ngược đãi nhân quyền bao gồm lao động vị thành niên, lao nô, và buôn người.

Do vậy, cũng như Ân Xá Quốc Tế , Tổ Chức Theo Dõi Nhân QUyền, và những người như chúng tôi tại Tổ Chức Hoà Bình Và Tự Do, chỉ muốn nêu lên với các lãnh tụ thiển cận tại Việt nam và Trung quốc: Thế giới sẽ không chịu nhịn những lời láo khoét ngạo mạn của các ông mãi mãi đâu. Nhân quyền có ý nghĩa và quan trọng. Các ông không thể xả rác trên thế giới và ngược đãi đồng bào của mình mà không bị gánh chịu hậu quả.

Dù cho Chủ Tịch Triết của Việt nam và Chủ Tịch Hồ của Trung quốc bị mù một phần; thì kẻ khác trên thế giới có thể nhìn tương đối rõ.

__________________
John Carey là cựu Chủ Tịch của Tổ Hợp Tư Vấn Quốc Phòng.
(International Defense Consultants, Inc.)

(1) Chỉ chịu thấy những gì muốn thấy.
(2) Chỉ chịu nghe được những gì muốn nghe.



Presidential Myopia: Leaders in Vietnam and China Only See What they Want to See
By John E. Carey
Peace and Freedom
June 25, 2007

Presidents are often accused of selective blindness. Hero of the U.S. Civil War General U.S. Grant became President of the United States and was considered by most men of his time, including Mark Twain who published the President’s memoirs, an honorable man. Yet Grant filled his government with corrupt and crooked men who almost destroyed him.

In the last century, some leaders hailed Adolph Hitler during the 1930s for building an economic resurgence of miracle proportions in Germany. After 1945, they claimed to deny the holocaust or said that they were just following orders.

The current President of Vietnam, H.E Nguyen Minh Triet, spent last week in the United States transmitting a message of economic prosperity and growth for those that do business with Vietnam. But what he was told, by the President of the United States and several congressional leaders, was that he had to address what Amnesty International has called widespread abuse of human rights in Vietnam. “Harassment and threats against leading dissidents increased and attempts were made to ensure that they could not meet or talk with foreigners,” Amnesty International reported on May 23, 2007.

President Triet didn’t hear any of this.

More than 70% of the U.S. and western media reporters that filed stories on President Triet’s visit to the U.S. discussed the issue of human rights in Vietnam. President Triet and his advisors did not see any of this.

We know this because in this morning’s Washington Times, President Triet spelled out his myopic vision of the future for the Vietnam and U.S. relationship. It is a wonderful fantasy of economic wealth not unlike Adolph Hitler’s 1930s promises. It makes no mention of Vietnam’s ugly, largely unseen, repression of religious freedom, denial of free speech and free elections, near genocide of ethnic minorities such as the Hmong, and other human rights abuses like human trafficking.


The President of the United States says he mentioned these abuses to President Triet. But reading President Triet’s account of his trip to the U.S. reveals an additional crime of selective listening.

President Hu Jintao of China suffers from the same psychiatric ailments that inflict President Triet of Vietnam.

*******************

President Hu and the rest of China have agreed to be completely oblivious to what President Bush and others in the world community call the genocide in Darfur.

There are a few small glitches, though, in President Hu’s current myopia which Peace and Freedom calls the “Blindness to Darfur” strategy. The U.N. condemns it. The E.U. condemns it. NATO condemns it. Everybody condemns it. Both the Canadian Prime Minister and the King of Sweden and his PM spoke to Hu about it in the course of ten days in June 2007. But President Hu is on a course to blow off the entire world, which he has been doing for some time. One small fly in the ointment: Hollywood stars that are starting to refer to the Beijing 2008 Summer Olympics as the “Genocide Games.”

President Hu also watched a series of interesting scandals erupt inside China during the last few months. China has slavery hidden in the outlying regions far from the prying eyes of the western media. Children are used as slaves in mines and in brick making. Child labor is a problem too. Children were found manufacturing Beijing Olympics 2008 memorabilia. China has exported to the United States and the world tons of food, pet food and digestible health care products like toothpaste which are laced with poisonous substances prohibited for such uses in the west. China has brutally subjugated Tibet. China arms terrorists via Iran. China has overtaken all other countries to become the world’s number one polluter.

The list of President Hu’s and China’s embarrassing tactics and practices is growing to become an endless condemnation of the communist system he espouses.

And the two communist regimes of President Triet’s Vietnam and President Hu’s China share many things besides economic prosperity: a lack of freedom of religion, a lack of free elections, a lack of freedom of speech and the media, and a propensity for human abuses including child labor, slavery and human trafficking.

************************

So, like Amnesty International, Human Rights Watch, and others like those of us at Peace and Freedom, just wanted to mention to the myopic leaders of Vietnam and China: the world will not swallow your arrogant lies forever. Human rights are meaningful and important. You cannot trash the earth and abuse your fellow man without consequences.

Đồng bào Tiền Giang vẫn còn tiếp tục biểu tình trước Quốc Hội 2 sang ngày thứ 5



Sáng nay lúc 10 giờ sáng ngày 26 tháng 6 năm 2007, chúng tôi đã trao đổi với chị Hoa và được biết hiện nay số đồng bào Tiền Giang ở lại trước Quốc Hội 2 được tăng cường thêm và tổng số lến đến gần 300 người, tinh thần đồng bào vẫn quyết tâm tiếp tục biểu tình dù ngày hôm qua phải dầm mưa để cố gắng "bám trụ" cho đến khi nào nguyện vọng của họ đụợc giải quyết thích đáng. Dù có những hứa hẹn sẽ giải quyết nhưng đòi hỏi chính đáng của đồng bào Tiền Giang cho đến hôm nay vẫn chưa ... thấy động tỉnh gì và đồng bào vẫn tiếp tục dầm mưa dãi nắng để chờ. Với nguyện vọng chính đáng và sự ôn hòa bất bạo động của đoàn biểu tình nên áp lực bắt buộc giải tán của công an cũng giảm tuy rằng họ tăng cường để theo dõi và kiểm soát chặt chẽ hơn.

Được biết vào khoảng hơn 2 giờ chiều ngày hôm qua (25/06/2007) một đoàn người gồm 2 xe bus khoảng 100 người đã đến từ Vũng Tàu và Bà Rịa với mục đích kết hợp với đồng bào Tiền Giang để thỉnh cầu Quốc Hội can thiệp với chính quyền trả lại tài sản đất đai của họ đã bị cưỡng chiếm bởi quan chức địa phương. Nhưng khi họ mới đến thì được đại diện chính quyền tiếp xúc "khuyên bảo" họ trở về với lời hứa hẹn Ủy Ban Nhân Dân tại địa phương sẽ giải quyết nguyện vọng của họ nên họ đã lên xe trở về lại địa phương.

Cuộc biểu tình của đồng bào Tiền Giang vẫn tiếp tục qua ngày thứ 5.
Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi và thông báo diễn tiến.

Người đưa tin từ Sài Gòn
10:00 giờ sáng ngày 26/06/2007 tại trước Văn Phòng Quốc Hội ở Sài Gòn

Dân chủ nhân quyền và vấn đề con người không là chuyện nhỏ


Bản đồ đế chế Nhật

“… khi có dân chủ tự do thật sự thì CSVN phải sợ chính vì không có bất cứ đảng hại dân hại nước nào có cơ may tồn tại …”

Tổng thống Mỹ George W. Bush và ông Nguyễn Minh Triết (đại diện đảng CSVN) thảo luận về nhân quyền. Đây là cách nói chánh trị hoa mỹ của những con người được cơ may làm việc trong mội trường uy quyền tối cao và trong văn hóa ngoại giao luôn có cách nói thật nhỏ nhẹ về một vấn đề ảnh hưởng lớn, có khi nghiêm trọng đến chết ngàn vạn con người.

Ý nghĩa thật sự thì không hay ho gì, nếu không muốn nói là nên lấy làm xấu hổ. Vì sao VN để người ngoài từ Cộng đồng Châu Âu đến cả quốc tế phải nhắc nhở rằng người VN cần đối xử với nhau tốt hơn? Chánh quyền không đàn áp bắt bớ giam cầm, dân chúng biểu tình không bạo động xúc phạm thân thể, phải văn minh, tiến bộ hơn lên, ít bạo hành, cần đối thoại...Tại sao tầm vóc VN cứ thấp kém, cứ thiếu khả năng trí tuệ, thiếu óc nhân bản, thiếu lòng hoà hiếu như vậy ? Câu trả lời là tại Đảng CSVN nhất thiết không chịu bỏ việc được hưởng đặc quyền!

Đa đảng ngày càng trở thành nhu cầu thiết yếu, khẩn cấp.

Thật khó thể không xao lòng nghĩ điều gì tốt để chờ đợi khi nói về trách nhiệm, nói về lòng yêu nước, bảo vệ đất nước mà đảng CSVN còn cứ âm thầm không dám công bố sợ bị phản ứng, nhưng cứ tự quyết định dành ngân sách đảng cực kỳ cao. Thật chán chường khi thấy chuyện ưu đãi, mua chuộc, đòi chức và ban chức tước, chia ghế diễn ra thường xuyên trong đảng giữa những người tài hèn đức bạc! Hàm ân sự biệt đãi đã biến đảng viên trẻ hay đơn giản nhất là trong giới quân sự an ninh thành ra rất giống “cọp rằn” thời Pháp hay người máy bảo vệ đảng CSVN, đàn áp dân chúng, không cần biết đúng sai, chỉ cần biết sẽ được khen thưởng, cất nhắc vào chức vụ nào! Chừng nào chi xài ngân sách đảng CSVN chưa dám công bố, chưa được quốc hội báo chí công luận công khai phân tích thông qua thì không thể tin vào đảng.

Chính những đặc quyền ban phát kiểu này gây hại cho chân lý khiến chân lý khó nảy sinh, đình trệ công cuộc phát triển nhân tài, lơ là chăm sóc giáo dục sức khoẻ, phương tiện sinh sống của dân. Cũng chính tình hình này khiến đa đảng ngày càng trở thành nhu cầu thiết yếu, khẩn cấp.

Không còn có thể tin cậy đảng CSVN vì lý lẽ một đảng và cơ chế giám sát đã tỏ ra thất bại vì có cấu kết chặt chẽ của hai bộ phận vốn phải hạn chế nhau này, tay phải không thể tự chặt tay trái. CSVN cần tiến hành quá trình có lộ trình đa đảng loại bỏ toàn trị, sớm chừng nào tốt cho dân chừng đó.

Ủng hộ mạnh mẽ đa đảng, chủ yếu và trước tiên để có sức mạnh đấu tranh, giành lại ngân sách tiền thuế của dân bị đảng CSVN lạm dụng. Buộc phải dành ngân sách chi cho đào tạo con người, bảo vệ sức khỏe, chăm sóc người tàn tật trẻ mồ côi v.v...Có vậy tuổi trẻ VN phải có năng lực, được làm người một cách tự lập tự tin. Tuổi già VN tối thiểu cũng có công viên nghỉ chân, có nhà trú thân khỏi mưa nắng và ăn miếng cháo miễn phí.

Đàn áp không thể coi là chuyện đúng, chuyện bình thường. Ông Triết nói “Năm ngoái tiếp xúc với Tổng thống Bush, tôi cũng nói vấn đề này. Trong những năm chiến tranh, bao nhiêu người Việt Nam đã bị bắt bớ, tra tấn, tù đày. Chúng tôi đấu tranh đòi độc lập không hề có vũ khí, vậy mà cũng bị bắt bỏ tù”. Nhưng không hề có gì giống giữa đảng Dân chủ của cụ Hoàng Minh Chính khối 8406 hay đảng đoàn do các nhà hoạt động dân chủ lập ra hôm nay và MTGPMN ở miền Nam lúc đó chút nào !

2007 đấu tranh không vũ khí, bị bắt là rất tệ hại, tệ hơn nhiều so với VNCH trước đây. VNCH trước đây làm rất đúng vì MTGPMN là tổ chức quân sự gồm du kích khủng bố nông thôn và đặc công khủng bố thành thị.

“Chúng tôi” mà ông Triết nói đến là ai, và ai không hề có vũ khí? VC nào đặc công nào không có vũ khí ? Không vũ khí thì có vẻ chỉ là nói về phong trào sinh viên đòi chấm dứt chiến tranh, đòi không dội bom miền Bắc và đòi đàm phán hoà bình là không có vũ khí thật. Nhưng sinh viên bị bắt và tù đày không nằm trong nhóm này! Sau 1968 Mậu Thân MTGPMN mở đường cho quân Bắc Việt và cùng nhau tạo ra cuồng sát nên không được ủng hộ nữa. Sau đó, CSBV cho ra đời “Liên minh Dân tộc dân chủ và hòa bình VN”, tổ chức nhiều phe phái đa đảng không Cộng Sản, nhưng đấu tranh dưới chiến dịch pháo kích vào tất cả thành phố đông dân cư. Đấy là tình trạng đấu tranh không vũ khí ông Triết muốn nói chăng ?

Cho dù thật sự ông Triết hay ai đó chưa có vũ trang mà liên lạc chỉ điểm để pháo kích đặt bom khủng bố bị bắt là phải vì thuộc tổ chức quân sự vũ trang MTGPMN. Xin xác định cho rõ. Nếu mơ hồ chỗ này, không nắm nổi thực chất vấn đề, thì ông Triết đã vì sợ, vì bị quá khứ bạo hành gây sát thương cho người khác của chính mình ám ảnh mà hành động quá trớn đối với công cuộc đấu tranh dân chủ thật sự của hôm nay trong môi trường quốc tế ủng hộ phải đấu tranh dựa vào tự chuyển biến hoà bình( peace evolution)!

Sài gòn sau 1954 sinh viên tham dự biểu tình, thường bị kẻ xấu và CS lợi dụng hết mực. Bạo động đập phá đốt xe Mỹ (như ở Pháp) bọn côn đồ quấy phá, cướp và quẳng hết sách của nhà sách Khai Trí ra đường v.v... CS lợi dụng nêu biểu ngữ ủng hộ CS, bình luận biểu tình chống dội bom miền Bắc thành chống Mỹ xâm lược ! Chánh quyền VNCH sàng lọc công bố hẳn danh sách sinh viên đã tham gia Cộng Sản. Những nguời này mới bị xử tù. Cũng không có ai bị cấm hành nghề vì quan điểm chánh trị như Đỗ Nam Hải đang bị nhà nước CSVN trù dập gây mất việc... Người có cha mẹ từng ở tù vì là Việt Minh trong giai đoạn 1945-1954 vẫn có thể đi học nước ngoài tự túc, trong đó được hưởng chánh sách đổi tiền đô la giá rẻ, do chánh phủ trợ giá.

Người bị bắt là sinh viên y khoa Dương Văn Đầy, sinh viên y khoa Huỳnh Tấn Mẫm, sinh viên văn khoa Nguyễn Ngọc Phương-Cao thị Quế Hương... Chị Quế Hương ra tù, nằm dài trong giảng đường đại học để tố cáo đàn áp sinh viên, sinh viên tới thăm thương cảm hình hài tiều tụy mong manh của chị. Nhưng chúng tôi đều không có ý kiến hay phẫn nộ chánh quyền vì chị Quế Hương được thả có thể thật sự chưa phải VC nhưng bị sử dụng tính hợp pháp của chị để làm giao liên như Anh Phương khai nhận còn Nguyễn Ngọc Phương, là VC trí vận v.v...Các anh chị này quả không chỉ là sinh viên biểu tình bày tỏ ý nguyện hoà bình độc lập thống nhất. MTGPMN là một tổ chức quân sự bộ chỉ huy ở bên kia sông Sở Thượng giáp biên giới Campuchia, với mạng lưới du kích đặc công hoạt động kiểu “khủng bố” theo đúng định nghĩa hiện nay, pháo kích đặt bom, ám sát. MTGPMN hay Liên minh Dân tộc dân chủ và hòa bình VN không phải tổ chức chánh trị đấu tranh bất bạo động hay đấu tranh nghị trường như những gì người dân chủ hôm nay đang làm .

Xin ông Triết nhìn lại vấn để đừng ngộ nhận, không có gì giống nhau để so sánh ! Ai chỉ là sinh viên, ai đã theo CS có cơ sở hiểu rõ ví như Trịnh Công Sơn, là bạn khá gần gũi của chị Cao Thị Quế Hương. Anh không hề bị bắt dù nhiều bài hát bị cấm.Lý lẽ học lý thuyết không cần thiết không thuyết phục sinh viên các ngành Khoa học thực nghiệm. Sinh viên theo truyền thống biết phải làm Trần Minh đỗ Trạng nguyên trước, có nghề nghiệp đàng hoàng , rồi mới đủ kiến thức đủ trưởng thành, để tham gia chánh trị một cách đúng đắn.

Việc bắt bớ tra tấn VC nhất là chiến dịch Phượng Hoàng với nhân sự là người Thượng để không có quan hệ dân tộc nên rất không đáng hoan nghênh. Chỉ có chấm dứt chiến tranh mới chấm dứt mọi điều bất hạnh cứ nhân lên theo từng năm tháng .

Sẽ có đoàn kết sau khi hai phía củng hiểu rõ sự thật lịch sử. Chính tầm vóc và kiến thức hạn chế khiến VN có chọn lựa lịch sử sai lầm.
Không phù hợp, không đủ uy tín để được Mỹ ủng hộ, ông Nguyễn Tất Thành quay ra theo CS là lầm lạc lớn nhất do bị dẫn dắt bởi tham vọng lãnh tụ cá nhân. Tham vọng lãnh tụ không là điều xấu nhưng chính sự che giấu sự thật mới là trọng án sẽ xem xét khi nào lịch sự cần chính thức phán xét ông Nguyễn Tất Thành. Có vẻ chúng ta nên gác lại và suy nghĩ về nhận xét của ông Putin là người CS Liên Xô còn chìm trong ngộ nhận đánh đồng mình với CS, chắc chắn VN cũng có tình trạng này cho nên tránh nói đến như một điều nhạy cảm . Điều khác với VN là CS ở Nga đã được xác định là sai lầm cấm hoạt động. Ở VN chưa ai nói CS sai lầm, chỉ mới dám nói có “lỗi hệ thống” nhưng chắc chắn mai sau cũng sẽ là như vậy, không khác hơn .

Tôi vui mừng khi thấy trước là Ông Kiệt và nay ông Triết có vẻ chân thành muốn kêu gọi đoàn kết, nhưng trước hết hãy tôn trọng sự thật và công bình để mới có thể đi vào lòng người. Sự thật ở đâu thì xin cho tôi nói ra như trên. Không có sự lừa dối lịch sử nào được diễn ra, những kẻ cơ hội làm chỉ vì quyền lợi cá nhân mình không có chổ trong công cuộc hàn gắn vết thương lòng bi thiết này !

Tầm vóc tư duy con người VN thấp bé đến đau lòng. Tang thương hôm của đất nước hôm nay quả là không phải chỉ có một phía sai lầm mà cả ba phía đều sai hay do không đủ tầm cao để với được. Chỉ có một kẻ hưởng lợi duy nhất là Cộng Sản Bắc kinh do Hà Nội dẫn lối đưa đường !

MTGPMN từng ngộ nhận độc tài toàn trị là đoàn kết đại đoàn kết nên bỏ mặc miền Nam sau khi tranh giành quyền đại diện miền Nam. Ông Nguyễn Thành Trung, cả ông Phạm Xuân Ẩn hay sinh viên Sàigòn đã suy luận thiển cận và hết sức sai lầm khi nghĩ giữa hai đối thủ hể đối thủ này (VNCH) chưa tốt thì phía bên kia ( CS ) tất tốt để chạy theo. Thật sự đã thấy rõ phía bên kia CS càng xấu hơn VNCH !

Xin khoan nói chuyện... đoàn kết dân tộc khi ông Triết còn nhận ra còn khác biệt cần đối thoại để hiểu nhau hơn ! Xin trong đảng hãy đối thoại và san bằng cách biệt trước !
Ông Triết nói về chuyện bắt bớ người bất đồng chính kiến như sau:
"Những người này vi phạm pháp luật Việt Nam và phải được xử lý theo pháp luật Việt Nam. Họ hoạt động có tổ chức, kết nối trong nước, ngoài nước, nhận tiền, lập đảng này đảng khác, lên kế hoạch lật đổ chế độ. Hành động như vậy không thể chấp nhận được".

Lý lẽ ông Triết biện hộ có tầm quan trọng vì chính là kết quả một “tập hợp trí tuệ” làm thành nhận định thống nhất trong Đảng CSVN. Điều nhận định đánh giá này là thêm một sai lầm trầm trọng.

Có khác nhau rất xa giữa một tổ chức đảng chánh trị không vũ trang hiện nay và bộ máy quân sự MTGPMN lúc đó. Cần phân biệt rõ tổ chức đảng phái có lực lượng quân sự như MTGPMN, Hòa Hảo, Cao Đài và tổ chức đảng phái chánh trị không vũ trang. Đảng chánh trị của người VN trong nước và liên kết hải ngoại không vũ trang hiện nay phải là không gian hợp pháp. Hành động như vậy phải được chấp nhận.

VN đang cho lập đảng lập hội là phạm luật hình sự trong khi các nước cho là “quyền của dân”. Như vậy đảng CSVN cố tình hiểu sai, nhà nước và luật pháp cố tình làm sai, đa số đảng viên dễ dãi ngộ nhận theo. Phải khẳng định như Luật sư Đài, luật sư Công Nhân là các nhà dân chủ lập đảng làm Hội làm báo bày tỏ ý kiến cá nhân trên phương tiện đại chúng hiện nay là ... không sai.

Đảng CS có mục tiêu chung là dùng bạo lực cách mạng chiếm chánh quyền cùng với triết lý sai lầm mục đích biện minh cho phương tiện mà CS đã dùng phương tiện thảm sát diệt chủng để đạt mục tiêu cách mạng. Ông Triết rất sợ đảng khác sẽ làm giống CS, ông lo âu sợ hãi người khác làm giống mình ! Đúng không ?

Thôi xin đừng suy bụng CS-thế giới đại đồng hoang tưởng ra bụng người quốc gia- dân chủ- tự do và quy kết các đảng phái của Việt Kiều đang âm mưu dùng bạo lực cách mạng giành chánh quyền ! Con đường bạo lực hiếu chiến từng không quyến rũ được dân Sàigòn trong khi chính là con đường CSVN từng gây ra cái chết cho 3,8 triệu dân VN và khiến Nam VN mất cơ hội tiến bộ bằng Nhật Bản, Singapore hay Hàn quốc ngày nay!

Không ai được để sai lầm này tái diễn, không chất thêm xương trắng máu đào và nước mắt khóc chồng khóc con thương vợ trên đất nước VN mà lòng người nào cũng đã quá thê lương !

Cần biết, trước khi bang giao, khi VN còn trong danh sách nước thù địch thì các tổ chức vũ trang chống VN là hợp pháp tại Hoa Kỳ. Nhưng khi đã bang giao thì thông lệ quốc tế không cho phép nước Mỹ dung chứa các tổ chức quân sự lật đổ chống lại một nước đã bình thường hoá quan hệ ngoại giao mà phải theo khuôn khổ ngoại giao thương lượng. Khi nào Mỹ đưa nước nào vào danh sách nước thù địch như Iraq thì ở Mỹ mới cho phép có tổ chức chánh phủ lưu vong, có quân đội, có vủ khí tồn tại hợp pháp tại Hoa kỳ. Đó là con đường minh bạch phải thực hiện đúng .

Qua phát biểu của ông Triết nay CSVN không còn đưa ra lý lẽ dân chủ tự do gây bất ổn vì đã được thấy dân chúng sống trong dân chủ tự do hạnh phúc ra sao, thấy những chứng minh là các nước dân chủ tự do không Cộng sản hay từ CS chuyển qua dân chủ như Liên Xô thành nước Nga đa đảng không hề có bất ổn chánh trị vì có dân chủ đâu !
Nước Nga chỉ mất đi óc chiếm đoạt mà người CS Liên Xô nhất là giới quân sự cho là hào quang là anh hùng ! Dân quân Hồi giáo dí súng vào đầu buộc con tin bị trói đọc kinh Coran là khủng bố chứ ai cho đó là anh hùng ?

Dân chủ nhân quyền và vấn đề con người
không là chuyện nhỏ mà là căn bản cho một quốc gia

CSTQ, Liên Xô, Khmer đỏ Campuchia...luôn mê say bạo lực cách mạng lo dành chánh quyền và sẳn sàng gây ra chiến tranh biển người, thảm sát, diệt chủng... “Ý đảng” của CSVN từng cũng mang cùng một triết lý bạo hành này. Ông Triết ắt phải theo “ý đảng” chứ ...“lòng dân” luôn là chuyện nhỏ ở VN. Chính như thế mới có phong trào đấu tranh dân chủ vì người dân VN đã hiểu biết về quyền công dân quyền làm người của mình .

VN cứ lò dò học bổ túc dân chủ nhân quyền chậm chậm, trong một thế giới mà sáng tạo diễn ra hàng giờ thì nói CSVN là viên đá cản đường không hề quá lời ! VN muốn Mỹ bình thường quan hệ, muốn không ai chống VN trong khi tiến hành một chánh thể tồi tệ với chính dân VN là khó thể không phê phán.

Với cách chọn người của CSVN thì ông Triết không được chọn lựa như người giỏi nhất, khôn ngoan nhất, mà chỉ là người tin đảng nhất, bảo vệ đảng nhất do đó không thể có tầm cỡ hoạt động độc lập, không hề có quyền như Tổng thống Mỹ. Ông thực chất chỉ là người phát ngôn của đảng. Ông sẽ không có quyền nói gì khác hơn điều nhận định của đảng. Người phát ngôn Bộ ngoại giao Việt Nam can thiệp thẳng thừng :

Bộ trưởng Nguyễn Trọng Nhân chỉ giải thích về vấn đề giáo dục thôi, đừng hỏi (các vấn đề khác) mất thời gian ! Ở VN cá nhân bộ trưởng cũng không có quyền bày tỏ chánh kiến dù chỉ là ủng hộ hay chưa ủng hộ về một chánh sách dân chủ nhân quyền của nhà nước nhân danh là một trí thức, một công dân và với một cách thiện chí cũng không được ... là sao ?

Bất cứ ai cũng thấy nước Mỹ có một hành trình lập quốc khôn ngoan, phương thức kiến quốc vượt trội, tiến bộ hàng đầu, qua hơn ba mươi đời Tổng thống ! Các nước đông âu có hành trình dân chủ hoá. Hãy học các bài học về cơ chế này để nâng VN lên khỏi cách biệt thế giới tiến bộ.

Bài học dân chủ có kiểm soát ( managed democracy) của Putin là bước lùi dân chủ như bà Rice đánh giá. Trung Quốc bốn ngàn năm chưa có gì đáng học, nay bài học mời gọi độc tài giữ vững chánh trị toàn trị, chỉ mở cửa kinh tế không có gì hay cho dân VN .

Tất cả cái hay của nước Mỹ hay của nên dân chủ tự do là đã chú tâm đào tạo năng lực con người chăm lo hạnh phúc cho từng cá nhân . Các nước khác như Trung quốc đẻ nhiều để làm đội quân trong đó con người được coi như vũ khí sinh học trong chiến tranh biển nguời. Trung Đông giàu có cũng lầm lạc chỉ lo củng cố quân sự hay sở hữu vũ khí nguyên tử giết người, không phát triển khoa học công nghệ...

Nước Mỹ giải phóng sức sáng tạo của con người, nhanh chóng thay đổi từ các kết luận khoa học nhỏ đến thay đổi chủ trương chánh trị ngoại giao. Thí dụ khi kết luận, hai giờ sau bửa ăn, lượng đường trong máu hạ xuống gây ra cảm giác mệt mỏi, nước Mỹ lập tức có cải thiện cách điều hành quản lý nhân viên ở công sở hay công ty. Hai giờ có nghỉ giữa giờ vài phút để ăn uống, nạp lại năng lượng !

Kinh tế đang phát triển, cả bộ máy chóp bu VN ồ ạt hồ hởi đi làm ngoại giao coi như thành quả . VN thành công ở ngoại thương, làm hàng xuất khẩu kiểu gia công sử dụng lao động giá rẻ, trong tay các chủ nhân nước ngoài thay vì trong tay người VN như miền Nam trước 1975. Nguời dân nay chỉ làm công nhân lao động đơn giản, nông dân cày cấy, chăn nuôi bấp bênh nghèo khó. Cái vẻ phồn vinh của VN quả là phồn vinh giả tạo. Nam VN vì không chịu sự phồn vinh giả tạo mà lo đào tạo con người .

Có khoảng cách VN với các nước kể cả Mỹ

Nước Mỹ có nhiều điều để học nhưng mặt khác cái lợi của nước Mỹ cũng quan trọng với dân Mỹ không hề kém. Saddam Hussein nếu không gây ra những hành vi xúc phạm nước Mỹ thì nền độc tài của Saddam Hussein cứ an nhiên tồn tại, dân Iraq cứ bị tước đoạt . VN may mắn là có Việt Kiều ở nước ngoài tác động và có dân biểu như Bà Loretta Sanchez. Nếu không thì không có tiếng nói nào, không có yếu tố kích hoạt nào để thoát khỏi chủ nghĩa độc tài toàn trị CS cho dù có vài trăm năm. Tuy nhiên Việt Kiều còn khó khăn khi hội nhập, nhưng từ nay về sau, khi con cái ổn định và bắt rễ sâu vào xã hội Mỹ Pháp anh Úc thì VK là tiếng nói có đầy trọng lượng !

Đô hộ, phong kiến rồi CS độc tài, người tự thấy mình giàu lòng yêu nước như ông Kiệt ông Triết ông Dũng nghĩ gì và làm như thế đủ hay chưa để cho dân VN được “giải phóng” ?

Sự non kém chánh trị của CSVN không tạo ra uy quyền quốc gia nhưng tạo ra nhiều mối lợi cho quốc tế. Nhật vì tư lợi đó mà lặng im . Chánh phủ Mỹ khá hơn do các dân biểu thúc đẩy. Góc nhìn của người VN khác hơn Mỹ-Nhật-Pháp-Châu Âu trong lãnh vực phát triển kinh tế. Người Việt thấy quyền lợi VN bị đánh mất trong khi các nước có thể có lợi. Myanmar đang rơi sâu vào tình thế đó đang được Trung Quốc nước có chung đường biên như VN bảo hộ chặt chẻ để khai thác ! Khi nói VN là xứ sở để thu hút đầu tư chánh phủ VN đã không nói các hơp đồng hai bên có lợi thật ra có giống hợpđồng Việt-Xô Petro không ? Hay việc ký kết mua máy bay sai kỷ thuật an toàn của VietNam Airlines trước đây, hệ thống nhà máy đường với 5.000 tỉ nợ khó đòi ? VN có quên đi nhu cầu phát triển giáo dục để chính con người VN có khả năng đầu tư trong nước cũng như nước ngoài hay là vẫn phải ôm số phận làm công nhân dốt nát nghèo khó lao động đơn giản, tại quê hương mình và trên xứ người ?

Trước 1975 VNCH có quy định những nhà đầu tư đều phải thuê VN làm giám đốc. Công ty là người có quốc tịch VN cho nên không có chuyện giám đốc Singapore mở lớp học thu tiền xong bỏ trốn được . Nay không quản lý người có quốc tịch nước ngoài. Thông lệ này nếu có thay đổi cũng phải thay bằng cách quản lý toàn cầu nào khác để dân VN không bị gạt. An ninh bộ đội cứ làm chuyện tào lao là bắt người VN khiếu kiện hay đòi dân chủ không hại gì cho đất nước trong để cáp biển công trình ảnh hưởng an ninh quốc gia bị khai thác hàng chục tấn, chở bằng xe tải chở container kình kình trước mủi. CA, an ninh để con buôn, du côn nước ngoài cướp gạt lấy tiền bạc đi dễ như không ! Quản lý gì mà như vậy ? Phải đặt lại vấn đề xem An ninh bộ đội VN nay có còn yêu nước không! Đây chính là điều làm người Việt viễn xứ đau lòng, làm người trong nước chua xót thân phận lưu vong trên chính đất nước mình !

Còn tệ hơn nữa là kêu gọi đoàn kết chỉ làm chiếu lệ, là thủ pháp để chuyến đi chuyển giao quyền khai thác đất nước cho tư bản ngoại quốc không quá lộ liễu. Không có hội đoàn chuyên môn phát triển ngành nghề thì ai thẩm định các hợp đồng để biết là có lợi hay không ?
Ông Kiệt ông Triết hay một số đảng viên dù có đạo đức cá nhân, nhưng cơ chế chánh trị một đảng không có xã hội dân sự thì không thoát khỏi độc tài toàn trị. Nhà lãnh đạo chân chính sáng suốt phải có kỹ năng cải thiện xã hội.

Hành trình quốc gia phát triển phải dựa vào cơ chế tốt và uy quyền luật pháp công bằng chứ không thể dựa vào đạo đức cá nhân mà cứ đổ tiền ra học đạo đức HCM, làm chuyện không có tác dụng. Khi chỉ có số ít người trong đảng tốt, khi không có cơ chế tốt, không có luật pháp nghiêm minh, số đảng viên không năng lực không phẩm hạnh đang khiến cho đâu đó, hàng ngày, đều có chuyện bi hài xảy ra như cạo đầu dân, bịt miệng bị cáo, doạ con nít đến tâm thần, ngoài cả sự tưởng tượng của đảng CS cầm quyền kia mà ! CSVN không nhận ra nguyên nhân lỗi hệ thống này để tìm hệ thống khác thay thế sao ? Dân chủ nhân quyền đâu thể coi là khác biệt nhỏ ?

“Lộ trình giải quyết hậu quả chiến tranh”
và “điều chỉnh lệch lạc”

Khi nói dân chủ nhân quyền, giam cầm bắt bớ là chuyện khác biệt nhỏ, Ông Nguyễn Minh Triết đang ngượng ngùng chống chế hay thật sự coi việc CSVN vi phạm dân chủ nhân quyền và coi số phận con người bị hành hung, giam cầm, sỉ nhục là “chuyện nhỏ” thật ? Hai khả năng đều có thể xảy ra. Không ai đọc được tư tưởng ai, nói dối hay nói thật cũng khó biết cho nên tâm hồn của ông Triết không ai biết, chưa thể dám vội tin, vội đánh giá.

Điều công dân VN cần là luật pháp đảm bảo, quyền thảo luận minh bạch của đại diện dân cử, quốc hội ra quyết sách hiệu quả. Việc công bố miễn thị thực hay quyết định về Nghĩa trang Biên hoà là dấu hiếu tích cực đúng và cụ thể hơn ngàn vạn lời nói hô hào. Cần có các sự kiện như thế tiếp theo và tốt nhất là xác định một Lộ trình giải quyết hậu quả chiến tranh và điều chỉnh lệch lạc. Thí dụ tiếp theo có thể nghĩ đến việc giúp quy tập mộ phần, lập bia công đức an ủi tâm linh người chết biển chôn rải rác xa xôi khắp các trại tị nạn trên thế giới !
Dành một số ghế dự thính và thời lượng trên diễn đàn Quốc Hội cho dân chúng có vấn đề bức xúc đăng ký phát biểu, cho các nhà dân chủ tham gia ý kiến và cho Việt Kiều để tham dự quốc hội đã bị... lệch pha 90% dảng viên !

Hiện nay dân không có tổ chức nào bảo vệ, đi thưa bị bắt ngay trụ sở thanh tra nhà nước vì tội tụ tập quá số người quy định ! Dân cần được bảo vệ, cần được có tiếng nói chính thức trong phương tiện truyền thông trong nước thì ông Nguyễn Tấn Dũng đã vội vã ngăn không cho báo chí tư nhân ! Tại sao không để ra báo và khi nói sai thì đưa ra toà phạt? Tại sao phải dùng hạ sách là cấm ? Singapore là nước được đánh giá chỉ có “tự do một phần” và Singapore đã dùng cách phạt khi nói không chứng cớ để buộc chỉ có quyền nó sự thật.

Hô hào, kêu gọi, phát biểu, quay phim, chụp hình, giống như dàn dựng phim truyền hình, có nhiều khi chỉ là...màn kịch trên sân khấu chánh trị. Nền tảng “không dân chủ“ vừa mới được hồi hộp dàn xếp xong qua bầu cử quốc hội không ai tin là chính xác. Dân chủ đâu có thể nảy sinh khi mà quốc hội có 90% đảng viên phải thực hiện chủ trương của đảng. VN còn là quân quản và đảng trị trá hình tất cả cấp bộ trưởng hay chủ tịch mặt trận đều hành xử kiểu đảng trị, luật pháp có điều 4 cũng là đảng trị, có nói gì khác hơn cũng không ai tin . Ông Triết, ông Dũng, Ông Kiệt nghĩ gì khi CIA Mỹ được yêu cầu phải là người dân sự. Cả ba ông có thấy mình không thể là người phù hợp mà tự trở về hoạt động quân sự thôi không ?

Ngộ nhận lịch sử

Đảng viên có lòng chỉ mới chỉ có “nửa nguời” là ông Võ văn Kiệt ? Một nửa ông Kiệt vẫn là bảo thủ tin đảng sáng suốt dù lịch sử cho thấy đảng CSVN liên tục sai lầm, sai lầm nào cũng lớn và kéo dài ! Ông Kiệt biết hơn ai hết cách đảng trị trá hình này vì khi cần thì thủ tướng ban hành nhiều quyết định không cần qua Quốc hội làm gì cho phiền ! Quốc hội cũng không thắc mắc vì là đảng viên với nhau !

Trí thức Trung Quốc nói ở Trung Quốc chỉ có ông Mao đứng còn tất cả phải quỳ, dân VN chỉ có một số đảng viên sống phát triển cực kỳ giàu có, còn tất thảy là cuộc sống tiềm sinh, tồn tại lếch thếch qua cõi nhân sinh đầy chua xót trong khó nghèo. Một tỉ lệ không nhỏ, ít nửa là nhiều hơn trước 1975, một thế hệ tuổi trẻ không quý cuộc đời, không có mục đích sống phong phú lành mạnh, đã sa vào cuộc sống thác loạn mê cuồng. Các thiếu nữ nhà nghèo lo bán thân xoá đói giảm nghèo !

Người CS còn sai lầm nhiều như vậy là do ngộ nhận lịch sử cần phải học lại đọc thêm. Tôi muốn lấy một ví dụ làm điển hình ngộ nhận từ dân trí thức XHCN đến tận cấp phó thủ tướng !

Ông Trần Quỳnh, nguyên phó thủ tướng, viết trong hồi ký như sau: “Lực lượng thống trị lúc bấy giờ là quân đội Nhật đã bị quân đội Liên Xô đánh tan, nước Nhật đã đầu hàng quân Đồng Minh, quân đội Nhật ở Việt Nam thấy chống cự lại cách mạng Việt Nam vô ích. Song sau khi ta giành được chính quyền rồi thì lập tức quân Pháp nhảy vào hòng lập lại chế độ đô hộ thực dân của Pháp, buộc ta phải tiến hành chiến tranh cách mạng ròng rã 9 năm mới đuổi được thực dân Pháp ra khỏi một nửa nước.” Chắc chắn đó là bài học lịch sử đã được chế tác lại, đơn giản hóa một cách có chủ ý đề cao Liên Xô.

Có nhiều khả năng ông Trần Quỳnh ít óc suy luận không óc phản biện để tự đặt ra câu hỏi tìm kiếm sự thật. Vì sao bị Liên xô đánh tan mà Nhật đầu hàng đồng minh chứ không phải đầu hàng Liên Xô? Có nhiều khả năng ông không biết rõ đế chế Nhật trước 1945 và mặt trận Nhật trãi rộng ở các phần Châu Âu, Châu Á ra sao nên nói Liên xô đánh tan quân Nhật trong khi chỉ đánh để ngăn Nhật tiến lên mạn Bắc khỏi Mãn Châu để vào Liên Xô ! Một bình luận trong “Ký sự Hỏa xa” của một nhân viên truyền hình VN thì nói là hai trái bom nguyên tử chỉ có tác dụng là để tranh công đánh thắng Nhật chấm dứt thế chiến với Liên Xô. Người CSVN thật là ngộ nhận lịch sử đến mức ...khó tin !
Diễn biến là Quân đội Nhật bị Úc chặn ở đảo Tân Guinea, nếu Nhật chiếm Tân Guinea, Úc sẽ bị đe dọa.

Tại Đông Nam Á, Nhật chiếm các thuộc địa của Anh bị kháng cự mãnh liệt tại Miến Điện. Quân lực Anh, Ấn Độ đã đẩy lùi quân Nhật tại trận đánh Kohima-Imphal khiến không đe dọa được Ấn Độ và đe dọa các đường tiếp tế cho quân Trung Quốc đang đánh các lực lượng Nhật tại đó.

Quân đội Liên Xô sau khi kết thúc chiến tranh ở Đức đã tuyên bố chiến tranh với Nhật và đánh bại cánh quân đang đóng ở Mãn Châu có đường biên chung với Liên Xô để ngăn Nhật đánh vào Liên Xô. Quân Đồng Minh có kế hoạch đổ bộ vào Nhật nhưng nhờ Mỹ có bom nguyên tử tại Mỹ nên đã thay đổi kế hoạch. Hai quả bom đã được thả xuống hai thành phố Nagasaki và Hiroshima để tránh thương vong thêm cho quân đồng minh. Nhật đầu hàng quân Đồng Minh vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 . Điều này không dễ mà chỉ có được sau khi Nhật thất bại trong việc thử nghiệm bom nguyên tử .

Bàn về hậu quả của hai vụ ném bom này thì cho đến gần đây, những người dân Nhật vẫn phải gánh chịu. Vậy mà, đọc lại ý kiến Mao Trạch Đông người thầy của ông Nguyễn Tất Thành, vị thánh của đảng CSVN nghe ra thật là kinh khủng và không có óc nhân bản để... làm người .

Ông ta nhìn cuộc chiến nguyên tử thật thản nhiên và nói: “Nếu có chiến tranh nguyên tử thì Trung Quốc sẽ chết 400 triệu người và với khả năng “mắn đẻ” của phụ nữ Trung Hoa chỉ một hai thập kỷ là có lại 700 triệu dân còn dân các nước khác sẽ chết hết ! “ Thật coi mạng người chuyện nhỏ như con sâu con kiến !

VN hãy làm cho “tự chuyển biến hoà bình”
trở thành một thành công thời đại của thế kỷ 21

VN hãy làm cho nguyên tắc “tự chuyển biến hoà bình” trở thành một thành công ngoạn mục của thế kỷ 21. Có lẻ chưa có tiền lệ nào, Liên Xô cũng phải vất vả làm cách mạng, Đông Tây Đức phải nhờ biến cố Liên Xô tan rã, Nhật Ý chỉ từ bỏ phát xít sau thua trận. Campuchia biết từ chối CS là khôn ngoan. Đó là nhờ can thiệp quốc tế và biến cố cuộc thảm sát diệt chủng. VN có thể tự chuyển biến hoà bình bỏ độc tài toàn trị hay không là do nhận thức ở tầm cao thấp nào .

Ông Triết cần có logic, hai sự vật-sự việc trong phương trình so sánh phải tương đồng mới có thể so sánh. Và phải có tầm nhìn bao hàm được trong ngoài nước . Khi nói rằng: “Tại sao lại bắt Việt Nam phải theo một khuôn khổ cố định nào đó?” thì đáng thất vọng vì chứng tỏ ông thiếu kiến thức căn bản nhập môn của nhà ngoại giao nghiệp dư chứ chưa nói chuyên nghiệp. Lẽ nào ông không biết vận hành thế giới đang tồn tại lý tưởng công bằng chung nhưng phương thức hết sức linh hoạt ở từng quốc gia và từng lãnh vực, còn luôn khuyến khích sáng tạo ? Giải Nobel hòa bình năm nay dành cho một người thiết lập ngân hàng cho người nghèo như là phương thức tạo công ăn việc làm , xóa nợ nặng lãi, xóa đói giảm nghèo, thu hẹp khoãng cách giàu nghèo mang đến cuộc sống tốt hơn cho hàng nhiều triệu người Ấn độ vô sản ít học phấn đấu xây tạo công ăn việc làm. Người nghèo bao đời không có tài sản thế chấp từng phải chịu vay nặng lãi nên chất chồng đau khổ ? Cách mạng Cộng Sản từng không làm được điều này và nhất là ý tưởng này chỉ mang đến niềm tin chứ không ai đau khổ kinh hoàng vì bị giết do ...giai cấp !

Thế giới cũng có một khuôn khổ văn minh bắt buộc phải theo vì đó là những chân lý là quyền sống căn bản của nhân loại, đã lên vượt trên mọi bất đồng và được các nước đầng tình thông qua. Không theo thì đứng phải ngoài nền văn minh nhân loại. Cộng đồng các bộ lạc thiểu số chưa có trong danh sách LHQ, khỏi theo quy chế, cứ... ăn thịt người . Chưa ai biết phải làm sao để chuyển biến cộng đồng chạy trốn văn minh đòi sống giữa thiên nhiên như một trong các loài động vật của rừng này ! CSTQ- Liên Xô từng lánh mặt không chia xẻ nền văn minh chung khi buông bức màn sắt, CSVN cũng bế môn toả cảng !

Khuôn khổ bắt buộc theo đó là các công ước LHQ quy chế của WTO v.v...là những khuôn khổ văn minh phải theo khi đã tự nguyện xin tham gia các tổ chức này. Không lẽ ông Triết quên sao kìa ? Hay VN muốn cùng các nước Hồi giáo dọa rút khỏi LHQ ? Tuy nhiên , ông Triết ơi, không giống tôn giáo khuôn khổ không bao giờ cố định ngàn đời, chân lý cũng có bước phát triển cao hơn. Khuôn khổ sẽ được thay đổi sau khi thảo luận và bộc lộ được điểm ưu việt hơn. Đó là lộ trình và ý thức tránh sai lầm, không phải tối nay nghĩ vậy, làm vậy, mai nghĩ khác, tự ý làm khác như Lênin của Liên Xô và Lê Duẩn của VN khiến cho CSVN liên tục sai lầm ... (theo hồi ký của Trần Quỳnh)

Thí dụ: Thảm sát, diệt chủng như Campuchia, bắt bớ giam cầm, ra toà vừa bị còng vừa bị bịt miệng như VN quả là không được làm. Làm ra thì bị xử như Khmer đỏ, bị chất vấn chê bai... Còn ai “điên” hơn bà Khieu Ponnary, vợ của Pon Pot để hai vợ chồng dám diệt chủng dân tộc mình chỉ để trở thành CS một mình một góc rừng cơ chứ ?

Ông Triết cần phải thấy ra chuyện vi phạm nhân quyền là chuyện lớn, là tư duy thấp kém, là khoảng cách mông mênh về trình độ của CSVN và thế giới văn minh mà CSVN chưa có được. CSVN với Mỹ còn món nợ chống CS nhưng không phải Mỹ mà chính Liên Xô nói CS ... là tai họa.

Trong thế kỷ 21 này Tổng thống Bush liên kết hòa bình thế giới và mở rộng tự do toàn thế giới. Quả tình khi có dân chủ tự do thật sự thì CSVN phải sợ chính vì không có bất cứ đảng hại dân hại nước nào có cơ may tồn tại.

Đảng CSVN cần phải thấy, lịch sử chứng minh là phong kiến Trung Quốc lạc hậu không mở rộng tự do mà quyết tồn tại dai dẳng . Thời CS thì buông bức màn sắt đã làm cho Trung Quốc không thể trở thành cường quốc chỉ thành nước đe đọa gây chiến tranh cho thế giới. Nền văn minh Trung Đông đã phát triển năm ngàn năm trước Công Nguyên nay có nguy cơ đứng trên bờ vực diệt vong vì chủ nghĩa thần quyền phân biệt chủng tộc và khủng bố.

Người dân Mỹ cũng phê phán nhắc nhở chánh phủ tăng cường đối thoại, truyền bá dân chủ nhân quyền nên là chuyển biến hòa bình. Nhưng chưa chắc mong ước tròn trịa đó của người Mỹ là đúng và thực hiện thành công. Phải có một “ngòi nổ” kích hoạt như Hồng Kông phải từng bị chiếm, Đài Loan bị cắt ra mới có được biến đổi tích cực. Cả nhiều thiên niên kỷ, dằng dặc vài ngàn năm mà Trung Hoa không thể học được bài học dân chủ, không rời bỏ được lối mòn tư duy phong kiến. Không biết CSVN trãi qua 60 năm lầm lạc có đủ chưa để nhanh chóng thay đổi . Phải nhận ra là lịch sử đã để lại bài học phong kiến gây ra thua sút cay đắng cho dân Trung Hoa đầy bất hạnh và một Trung Đông tự giam giữ mắc đọa trong “thần quyền” mà “giải phóng” cho VN khỏi bị giam nhốt trong chủ nghĩa CS độc tài toàn trị.

Sàigòn may mắn từng được học, nhưng cũng tiếc là chưa thuộc rành bài học dân chủ. Dở nhất là chưa biết đó là thời khắc đổi đời quý như vàng để giữ lấy ! Thôi thì, nay phải cùng nhau tích cực đòi. Dùng diễn đàn Liên Hiệp Quốc, Toà án Quốc tế và cả biểu tình để kích hoạt thay đổi cần thiết ...

Chắc chắn người dân VN luôn có ý muốn thiết tha là phải tìm cách trao chánh quyền vào tay người tốt người giỏi bằng con đường bầu cử. Nếu coi đây là kế hoạch lật đổ chế độ để cấm thì nhà nước đi ngược lại ý dân và đang vi phạm công ước quốc tế cần bị xét xử. Không gian ông Đại sứ Marine muốn nói và muốn thuyết phục chính quyền CSVN chấp nhận chính là không gian lập đảng lập hội và liên kết các tổ chức không vũ trang trong ngoài nước !

Hoa Kỳ hùng mạnh nên tự nhiên ảnh hưởng chính trị và văn hoá đến các nước khác, cho nên được ngưỡng mộ học hỏi, nhưng cũng có nhiều người ghét một cách phi lý. Pháp ghét Mỹ chê Mỹ chính vì Mỹ chống đô hộ tàn ác bóc lột của Pháp. Mỹ ủng hộ nhà nước thế tục chống các nước “thần quyền” áp bức dân nên từ lâu giáo chủ Khomeini bị chê bai đã căm thù gọi Mỹ là "Quỷ chúa Satăng" hiện nay Iran cũng còn hay lập lại. Sẽ khôn ngoan nếu CSVN không mang tâm trạng lệch lạc thế này để lo sửa thay vì lo chống lại lời cảnh báo của Mỹ về dân chủ nhân quyền !

Có quá nhiều bài học hay để học như Công ước Liên Hiệp Quốc để xây dựng dân chủ nhân quyền. Lễ Tam Hợp của Liên Hiệp Quốc là dấu hiệu tốt đẹp vinh danh sứ mệnh hòa bình của Phật giáo, và trên hết là mở lộ trình cho nền triết học và tư duy hay Phật pháp của một chánh đạo. VN còn thiếu tự do dân chủ và coi khinh tôn giáo là đi ngược lại xu thế tiến bộ.

Trần Thị Hồng Sương
25.6.2007
© Thông Luận 2007

Cuộc đối thoại giữa hai ba - con người Việt tại Mỹ

“… Ông Triết nói ở Hoa Kỳ: “ Chúng tôi không nỡ đối xử không tốt với nhân quyền. Chúng tôi bảo vệ nhân quyền...”…”



- Gọi họ là con người gì đây hả Ba?
Con người nói xạo?
- Không con ơi!
Nói xạo chỉ gây bực mình
không chết người!

- Gọi là con lươn hả Ba?
- Không con ơi!
Lươn sống dưới bùn đen
bị săn đuổi cũng không thay màu áo

- Gọi là thú kín mình chờ mồi hả Ba?
- Oan cho hổ,
Hổ bị đói không chia phần đồng loại

- Gọi là rắn hổ mang đi!
- Không!
Rắn hổ mang...
có con,
nghe tiếng sáo
biết làm vui phiên chợ!

- Vậy gọi họ là gì?
- Là...
Mấy ông cộng sản!

Nguyễn Xuân Nghiã

Thuyền, hay chữ và nghĩa




Nguyễn Hồi Thủ
“… hình như Đảng và nhà nước ở Việt Nam đã có chỉ thị phải kiểm duyệt nó, tiêu diệt nó trong những sách chính thức …”

Thuyền về xuôi mái sông Hương,
Hỡi ai tâm sự đôi đường đắng cay
(Ca dao miền Trung)

Có những chữ ngoại lai một khi trở thành tiếng Việt rồi thì nhuần nhuyễn đến độ không ai còn nghĩ nó đến từ tiếng nước ngoài nữa. Khó mà nhận dạng được một gốc tích nào dù gần, xa của nó, nó tròn trịa, trơn tru như một hòn bi. Mà ngay cả chữ hòn bi chẳng hạn, bây giờ số người biết rằng đó là một từ gốc tiếng Pháp ở Việt Nam chắc cũng không phải là nhiều. Còn nếu nói đến chữ Hán trong tiếng Việt thì thôi khỏi bàn. Có một lần tôi thử nhẩm tính những chữ Việt Nam bắt đầu bằng vần kh chẳng hạn thì thấy có lẽ đến 8 trên 10 từ đã là tiếng Hán Việt rồi, mà lại là những từ rất cơ bản như kiểu khát, khách, khám, khoái, khổ, khóc, khốn, không, khu,…

Hồi trẻ, tôi vẫn nghĩ thuyền là một từ tiếng Việt vì thấy nó được ghép với rất nhiều chữ gốc việt như thuyền bè, thuyền chài, thuyền mành, thuyền mủng, thuyền nan, thuyền thúng, rồi đi thuyền, ngồi thuyền, chèo thuyền… Cho đến một lúc lớn hơn, học thơ chữ Hán (thế hệ tôi còn được học một hai tiết tiếng Hán vào những năm đầu trung học ở trường tỉnh, mà ông thầy tài tử của chúng tôi chỉ dạy tiếng Hán qua thơ Đường), tôi mới vỡ lẽ là cái từ nhuần nhuyễn tiếng Việt này cũng như biết bao chữ khác nữa đã là một từ tiếng Hán trước khi trở thành tiếng Hán Việt.

Như trong bài Trường can hành của Thôi Hiệu:
Đình thuyền tạm tá vấn
Hoặc khủng thị đồng hương.
(Dừng thuyền lại xin hỏi
Biết đâu người đồng hương)
Hoặc trong Tây tái sơn hoài cổ của Lưu Vũ Tích:
Vương Tuấn lâu thuyền há Ích châu
Kim lăng vương khí ảm nhiên thâu
(Thuyền lầu Vương Tuấn xuống Ích châu
Tiêu điều vương khí ở Kim lăng)
Rồi: Thuyền kiên pháo lợi (Tàu sắt súng đồng) là thành ngữ các cụ nhà ta dùng để chỉ cái nghề giỏi riêng của người phương Tây, thật ra vì ta thua trận bị đô hộ nên nói thế chứ ngoài nghề đóng tàu sắt và đúc súng đồng họ còn có biết bao nghề khác lúc ấy cũng giỏi hơn ta nữa chứ?

Thế mà lâu lắm sau này, vào cuối những năm 70 và đầu năm 80, khi nghe từ thuyền nhân thì tôi rất lạ tai, đó là một từ đối với tôi thật mới mẻ vì tôi chưa hề nghe qua nó bao giờ. Đọc qua nó bao giờ trước đây trong văn học hay trên báo chí Việt Nam và trong một thời gian khá dài nó đã theo đuổi, ám ảnh tôi như một hệ lụy cùng với những hình ảnh khó quên đi kèm. (Hình ảnh rõ ràng nhất là chiếc tàu Hải Hồng, rồi sau đó là bao nhiêu những thuyền nhỏ ọp ẹp khác, chồng chất lúc nhúc những người mặt mày xanh mướt, hốc hác, bơ phờ, đói khát, bệnh tật, bị cướp, bị hãm hiếp…). Cái gì đang xẩy ra ở Việt Nam? Họ đâu chỉ là những người gốc Hoa, mà cho dù có gốc Hoa đi nữa ? Cái gì đã đẩy họ vào con đường chọn sự ra đi giữa cái chết và cái sống? Thủ Tướng Việt Nam vừa sang Pháp năm 78 mà cái tàu Hải Hồng cũng từ Việt Nam ra khơi năm 78… Biết bao câu hỏi, bao hoang mang trong giai đoạn đó không ai trả lời được.

Tôi loay hoay với mấy quyển từ điển Hán Việt và sách vở cũ tỉ mỉ mở ra thử xem nó đã hiện hữu bao giờ chưa thì đúng là không thấy ở nơi nào có từ thuyền nhân này. Đối với tôi rõ ràng có một cái gì đó không ổn. Cái từ này nó lạ lắm, có vẻ hơi đầu Ngô mình Sở. Bây giờ nghĩ lại, tôi còn lạ hơn nữa là ngoài các từ điển tiếng Việt, tiếng Hán Việt cũ thời ấy tôi không tìm được nó đã đành; ngay cả trong mấy quyển xuất bản gần đây (thậm chí trong quyển gọi là Đại từ điển Tiếng Việt của Bộ Giáo dục và Đào tạo in ở Hà Nội) tôi vẫn không hề thấy bóng dáng nó (chỉ có từ thuyền chủ là gần với nó nhất mà thôi). Tôi nghi hình như Đảng và nhà nước ở Việt Nam đã có chỉ thị phải kiểm duyệt nó, tiêu diệt nó trong những sách chính thức. Chỉ có cách suy diễn này là tạm ổn để giải thích tại sao một từ có tính lịch sử quan trọng đến như vậy, có tính thời sự lâu dài đến như vậy, cụ thể và dễ nhớ đến như vậy mà lại bị cấm cửa, cấm sinh tồn, hiện diện.

Tuy đây là hai từ Hán Việt đi với nhau rất hoàn chỉnh nhưng tôi nghi ngay từ đầu nó chỉ là một từ được người ta vội vàng đặt ra để đáp ứng cho một nhu cầu cấp bách: dịch chữ boat people đang ầm ĩ trên đài báo của thế giới lúc bấy giờ, mà chính cái từ tiếng Anh boat people này hình như cũng vậy (tôi không hề tìm thấy nó trong một số từ điển tiếng Anh vào thời đó), hình như nó cũng đã ra đời riêng chỉ để gọi những người trong cái thảm cảnh này mà thôi. Nó như một ngọn lửa chỉ nhoáng một cái mà đã cháy bùng lên trong tất cả các ngôn ngữ và tâm tư con người thời đại đó cái thảm kịch của người Việt ở biển Đông này. Rồi hầu như mọi thứ tiếng khác cũng đều dùng từ tiếng Anh đó để nói về cái thảm cảnh nọ và thậm chí cho đến bây giờ khi nhắc lại thảm cảnh quá khứ này vẫn chỉ là từ tiếng Anh đó, vẫn chỉ là từ tiếng Việt đó, vội vàng sinh ra để đáp ứng tình hình, thời cuộc lúc bấy giờ mà không ngờ lại không hề bị chết yểu.

Sau này từ năm 1980 đến đỉnh cao là năm 1994, báo chí lại dùng một từ tiếng Tây Ban Nha khác, balseros, để nói về thảm cảnh những đợt trong đó 130.000 bè nhân Cuba (Cuban rafter) rời đảo ra đi. Có những người chỉ với một chiếc xăm xe ôtô đã quyết định vượt gần 150 cây số đường biển để đến Miami. Rồi không biết từ bao đời những chiếc pateras (tàu nhỏ không boong) mỏng manh, vá víu, chồng chất những người Phi châu trẻ tuổi, nếu không bị chìm đắm trong lòng Địa Trung Hải thì vẫn tiếp tục đổ họ vào các đảo, các bờ biển của Ý, Tây Ban Nha, của miền nam Âu châu cho đến ngày hôm nay và sẽ còn tiếp tục chưa biết đến bao giờ. Mỗi một từ, mỗi một tên gọi âm vang một thảm cảnh riêng, mang lấy hình ảnh của thời đại và bối cảnh của con người, đẹp đẽ hay bi thương, vui vẻ hay buồn bã. Nói như các nhà ngôn ngữ học thì ngôn từ là một phương tiện, công cụ biểu đạt với bản chất xã hội và thẩm mĩ của nó.

Có lần tôi cũng đã tự hỏi tại sao người ta lại dùng chữ thuyền thay vì chữ tàu, bởi vì vượt biên thường ngày nay người ta dùng tàu hơn là dùng thuyền, vốn là một loại công cụ chuyên chở đường thủy nhỏ hơn và hay dùng ở trong sông ngòi. Nhưng trong thâm tâm tôi hình như vẫn có một cái gì nằm ngủ trong tiềm thức nói với tôi rằng chữ thuyền nhân này không chỉ gần gũi về mặt tình cảm mà cả về lý tính. Điều đó hoá ra vì ai đấy tôi không còn nhớ rõ từng nói với tôi đã lâu sở dĩ ta gọi người Trung Quốc, Minh Hương là người Tàu bởi vì thuở cập bến vào xứ Đàng Trong để xin chúa Nguyễn cho tá túc, họ đến bằng tàu. Tôi chưa biết có ai kiểm chứng được điều này không. Nhưng có điều chắc chắn là cái loại người vượt biên bằng đường biển này đã có một lịch sử lâu đời, từ thời Tống, thời Minh, từ thời Trịnh Hoà đã đóng được những tàu đi biển lớn đi được đến cả những bờ biển Phi châu chứ không phải chờ đến những năm bẩy mươi của thế kỷ trước. Những Người Tàu đi tàu từ miền bắc xuống, người Việt Nam năm 54 di cư vào trong Nam bằng tàu há mồm rồi cũng từ đó năm 75 tung đi khắp thế giới bằng ghe, bằng thuyền, bằng tàu, thì cũng giống nhau lắm. Có thể nói cùng chung một thân phận. Nhưng đối với người Việt Nam hôm nay, người ta không thể gọi họ là Tàu nhân được, lại cũng không gọi được là ghe nhân, cho nên chắc chắn không có chữ gì thích hợp hơn là thuyền nhân để dịch từ boat people rồi. Còn chuyện tại sao người ta không gọi theo kiểu tiếng Việt là người thuyền thay vì thuyền nhân thì điều này vẫn còn là một bí mật đối với tôi. Chắc có lẽ vì sợ nó nôm na, làm mất vẻ trang trọng của “người vượt biên”?

Rồi không hiểu từ bao giờ từ này cũng đã được chấp nhận một cách ổn định, trong tri thức, trong tâm lý, tâm hồn, trong văn học hải ngoại. Nói chung nó đã được bình thường hóa, mất dần đi cái vẻ dị dạng của buổi ban đầu. Năm 1980 tôi được dịp quay về thăm lại Việt Nam sau gần 15 năm ra đi như nàng Kiều. Lúc ấy phong trào vượt biên vẫn còn đang đương độ lắm. Ở trong Nam tôi thường nghe giới thanh niên hay nhắc đến câu tuyên bố đầu lưỡi:

- Nếu đi được thì cái cột đèn nó cũng đi!

Để nói lên cái quyết tâm vượt biên của họ, có chàng còn dùng một câu đượm mầu triết học hơn:

- Có vượt biên thì mới nên người, nên người đứng thẳng được .(Ý muốn nói là Homo erectus, chứ không phải loại đi bằng hai tay hai chân)

Phong trào ra đi rầm rộ có thể nói cũng như đoàn quân xuất trận, đến độ bọn trẻ thời ấy đem một bài hát quân sự “Cùng nhau đi hùng binh” ra để nhái:
Cùng nhau đi vượt biên,
Mười hai cây vàng lá
Cùng nhau xuống Rạch Giá
Ta quyết chí đi Tây
Anh em cùng đinh!

“Cùng đinh” ở đây dĩ nhiên không chỉ nói về mặt vô sản, mà còn nói về mặt tinh thần: là những kẻ cùng đường, mạt lộ, thúc thủ, không nhìn thấy một tương lai nào trong một xã hội mới với mọi giá trị đều bị đảo lộn, đổ nhào. Lúc này khái niệm yêu nước là một khái niệm vô cùng lạc lõng đã vắng bóng từ lâu trên vũ đài. Con người cá thể đa phần chỉ còn chút bám víu gần gũi, cụ thể: gia đình.

Nhiều người ở miền Nam đều biết câu ca dao cũ dùng để gói ghém tình tự đậm đà giữa mẹ và con:
Không gì bằng cơm với cá
Không gì bằng má với con
Có lẽ cũng từ câu trên mà trong dân gian thuở ấy mới sinh ra câu sau này để cho những người trẻ tuổi thổ lộ tâm sự của mình với mẹ già lúc bước chân đi làm thuyền nhân, với tâm trạng của kẻ lâm hành nhất khứ bất phục phản, vì biết mình đang dấn thân vào cõi 50% (sống) - 50% (chết):
Một là má nuôi con, hai là con nuôi cá, ba là con nuôi cả nhà
(Một là nếu con đi không lọt mà bị bắt thì má nuôi con, vì con sẽ đi tù, cải tạo; hai là nếu con đi ra lọt mà không tới được bến bờ nào thì con đành nuôi cá, nghĩa là vào bụng cá giữa biển khơi; nhưng ba là nếu tới được nơi nào đó thì rồi nhất quyết thế nào con cũng sẽ nuôi được cả nhà).

Mà tại sao con lại phải ra đi ? Muốn làm chứng nhân lịch sử của dân tộc, câu trả lời lại trở nên khôi hài rằng:
Chung quy cũng tại vua Hùng,
Sinh ra một lũ khùng khùng điên điên,
Thằng khôn thì đã vượt biên,
Những thằng ở lại điên điên khùng khùng.
Khảo dị:
1. Chung qui chỉ tại vua Hùng
Đẻ ra một lũ vừa khùng vừa điên
Thằng khôn thì đã vượt biên
Thằng ngu ở lại không điên cũng khùng !

2. Bác Hồ chết đúng giờ trùng
Nên bầy con cháu nửa khùng nửa điên
Thằng tỉnh thì đã vượt biên
Những đứa ở lại hổng điên thì khùng !
Chú giải:

- Cũng chỉ vì ở đất này bây giờ chỉ còn toàn những kẻ khùng điên thôi, mà con lại không muốn bị trở thành những kẻ điên điên khùng khùng như họ, nên con đã buộc lòng phải ra đi. Nhưng trong thực tế chưa chắc những kẻ đó đã là khùng điên hẳn đâu, vì người điên thì đâu biết đếm tiền mà cũng chẳng bao giờ thèm đếm tiền, vì vậy cũng lại có câu:
Thằng ngu thì đã vượt biên
Thằng khôn ở lại đếm tiền như điên !
(Và điều này nghiệm lại cho đến bây giờ càng thấy đúng, nhưng chỉ buồn rằng số thằng khôn đang «đếm tiền» tại quê nhà bây giờ lại không phải là tất cả những người ở lại, mà trong số tiền chúng đếm rất nhiều khi lại lẫn tiền của kẻ vượt biên gửi về !).

Lại cũng có lúc người ta đưa ra lý do để giải thích chuyện bỏ nước liều chết ra đi của mình một cách khá tỉnh bơ: chỉ giản dị là vì bị «tụi nó» dí rát quá:
Đồng-chí mà dí đồng-bào
Đồng bào xin chào đồng-chí !
Hay chỉ giản dị vì … đói quá:
Năm điều Bác dạy đã thông
Nhưng vì đói quá tạm mượn ông chiếc xuồng
(Năm điều bác Hồ dạy học-sinh : yêu tổ-quốc, yêu đồng-bào, học tập tốt...)

Hoặc một cách bông đùa hơn:
Vì tại bác Hồ

Một hôm Phạm Văn Đồng hỏi Lê Đức Thọ : «Không hiểu sao bọn dân miền Nam bây giờ bỏ đi di tản nhiều như thế ? » Lê Đức Thọ trả lời : «- Tại Bác Hồ lúc trước không để ý nên viết : « Mười bốn triệu đồng bào trong trái tim tôi , bây giờ tăng lên 60 triệu, chúng nó thấy mình là số không nằm trong tim Bác nên phải tìm cách bỏ đi là hợp lý rồi!».
Về cái điên dại và khôn ngoan thì như thế, còn về chuyện gan dạ và liều lĩnh thì cũng có chuyện vui kể như sau:
Ai gan hơn ai ?

Đài BBC phỏng vấn một người vượt biên bằng mấy cái thùng phi kết lại với nhau thành chiếc bè mong manh:

-Thưa ông, sao ông gan như vậy, ông dám vuợt biển bằng những cái thùng phi mong manh như thế này?

-Tôi chưa gan lắm đâu, những thằng ở lại còn gan hơn tôi nhiều !
Nghĩ ra không phải là không có lý, nhưng những thằng ở lại là ai nhỉ ?

Rồi trong số thuyền nhân ra đi đó, người ta cũng chỉ đoán chừng một con số không chính xác lắm những kẻ trời cho đến được bến bờ, còn những kẻ không may mắn thì không ai có được một số liệu nào cả. Các tổ chức nhân đạo quốc tế một dạo, lúc vạch mặt, tố cáo mấy chính quyền địa phương vùng Đông Nam Á đã thả lỏng cho cướp biển hoành hành như một biện pháp không chính thức nhằm ngăn chặn và làm nhụt chí những thuyền nhân tiềm ẩn ở Việt Nam, có đưa ra con số là từ 500.000 đến 600.000 thuyền nhân đã trở thành nạn nhân bất hạnh mà mồ chôn là đáy đại dương. Nhưng nhiều người bảo con số thật sự còn lớn hơn nhiều. Không biết rồi một ngày nào đó chúng ta có được một cuộc điều tra về vấn đề này để đi đến một con số tương đối chính xác hơn trước khi quá muộn màng để điều tra ?

Ở nước ngoài đôi khi đón những người ở đảo đến nhập cư, chúng tôi còn được nghe những câu về thuyền nhân rầu rĩ hơn:
Galăng tình xù
Anh đi anh để cái dù cho em
Vì trên đảo buồn, mưa nhiều và mù mịt chờ mong cho đến lúc được bốc đi nước thứ ba.

Nhưng cũng có dị bản giải thích cái dù là:
Galăng tình xù
Anh đi anh để cái dù (bầu) cho em!
Than ôi!

Bidong có lít (liste) thì đi ! (chơi chữ giữa bidon, pulau Biđông (tên một đảo ở Đông Nam Á, từng là trại tiếp nhận người vượt biên từ Việt Nam) và lít)
Vượt biên không tới Bi-Đông thì đi bi đát!

Có một điều rất ít ai để ý là rất nhiều người Trung Quốc nghèo khổ ở các tỉnh vùng ven biển (Hải Nam, Phúc Kiến, …) cũng đã lợi dụng “nạn kiều” Việt Nam để đi làm thuyền nhân, tổ chức thâm nhập di dân vào nước Nhật làm dân tị nạn trong thời gian này, nhất là khi phong trào vượt biên lan ra miền Bắc với định hướng là phao số không hoặc Hồng Kông, họ tổ chức ra đi thành từng tàu rất lớn mang theo hàng trăm thuyền nhân; trên tàu chỉ đem một, hai người biết nói tiếng Việt để đứng ra đại diện khi đến nơi, có người chỉ biết nói lơ lớ vài câu tiếng Việt. (Một người bạn Nhật biết nói tiếng Việt đứng ra làm thông dịch trong thời gian này đã kể lại chuyện trên)

Ngày 31-05-2000, Hồng Kông đã đóng cửa trại tị nạn cuối cùng, 137 người còn sót được giúp định cư tại Hoa Kỳ, chấm dứt 25 năm lịch sử thuyền nhân Việt Nam, chấm dứt một thảm cảnh như một nỗi ô nhục còn mãi trên cả dân tộc chúng ta. Nỗi ô nhục này càng hằn lên chúng ta vì bây giờ đào bới lại lịch sử thời đó, nhiều người đã xác định rằng thảm cảnh này thật ra không phải là một sự kiện tình cờ, một tai nạn lịch sử mà là một chủ trương, một chính sách hẳn hoi! (Xin xem bài: “Mấy suy nghĩ về tiền đồ phát triển đất nước Việt Nam trong đầu thế kỷ XXI” của Lê Hồng Hà, một quan chức trong Đảng đã về hưu).

Và cũng để đối chiếu với từ thuyền nhân, hoặc lấy nó làm một hệ quy chiếu mà sau này dần dần người ta đã đặt ra nhiều từ khác. Có một từ ra đời sau từ thuyền nhân, nghe cũng khá khôi hài, là phi cơ nhân. Đó là từ để chỉ những người may mắn hơn nhiều so với thuyền nhân, đã được vượt biên chính thức trong sự an toàn dưới nhiều diện, hoặc ra đi theo kiểu đoàn tụ gia đình, theo dạng con lai, HO… cũng có thể chỉ là người được đi ra ngoài làm công vụ gì đó mà bỏ trốn tị nạn được… Nói chung, cái chính là phương tiện di tản của những người này đều bằng máy bay nên họ được gọi là phi cơ nhân, hoặc nhiều khi chính họ dí dỏm tự vỗ ngực xưng mình như thế để phân biệt với thuyền nhân. (Tiện đây cũng xin nhắc lại để tưởng niệm một loại phi cơ nhân mới, những trẻ em người châu Phi bị chết cóng mà người ta tìm thấy xác ở cầu sau - chỗ gập chân bánh máy bay- của một máy bay chở hành khách như hai em người Guinê ngày 2-08-1999 tại phi trường Bruxelles, và một em khác cũng bám càng phi cơ rồi đã bị rơi xuống ruộng ở Đức. Ngoài ra có một em người Mali đã sống sót được khi máy bay đáp xuống một phi trường Pháp, nhưng cuối cùng lại vẫn bị gửi trả về châu Phi !)

Đến danh từ Phi cơ nhân này là ta nghe đã thấy có cái gì đó có vẻ hơi “tếu” trong chuyện đặt từ rồi. Nhưng sau đó và vẫn còn tồn tại đến bây giờ những từ khác càng ngày càng mang tính tếu nặng nề hơn, mặc dù chúng có ưu điểm là cụ thể và chuyên môn hơn: Du nhân, Lao nhân, Học nhân, Tường nhân, Rừng nhân, Suối nhân, Giả nhân… Những từ sinh sau đẻ muộn này thì cuộc đời của chúng sẽ ra sao, trong tương lại sống được bao nhiêu lâu, có khả năng được chấp nhận đến mức độ nào, bình thường hóa được hay không ? Đó là một chuyện có lẽ chưa ai trả lời được đối với một loạt từ có cùng chung một phạm trù bỏ nước ra đi này.

Nhưng tôi cũng xin giải thích rõ ràng về chúng:

Sau khi phong trào vượt biên chấm dứt, những người mạnh tiền, quen biết, xin được phép làm một chuyến du lịch ra nước ngoài rồi nhân dịp đó mà “dù…” luôn thì theo từ ngữ hiện nay sẽ được gọi là du nhân. (Có lẽ chỉ giản dị là để đỡ rườm rà hơn từ du lịch nhân).

Những người trong diện đi lao động rồi lân la, nấn ná đến lúc hết hạn lại lưu vong, “bộ đội hóa” (trốn lại) luôn thì được gọi là lao nhân (thay vì lao công nhân) thường ở các nước XHCN cũ.

Để chỉ chung các sinh viên đi học rồi bằng cách này cách nọ xin đi làm và chuyển đổi giấy tờ trở thành thường trú ở nước sở tại một cách chính thức thì được gọi là học nhân (Tôi có bàn với một người về chữ này, tôi hỏi tại sao không gọi là lưu nhân- Lưu học sinh mà lưu lại luôn, nhưng người đối thoại với tôi bảo coi chừng từ lưu đây có thể bị người ta dễ hiểu nhầm là từ lưu vẫn đi với manh, vả lại chữ học còn ám chỉ sự khôn ngoan của những người chọn cách vượt biên này và chính sách khôn ngoan của nước muốn lấy chất xám). Nhiều nước như Pháp gần đây đã siết chặt về mặt thủ tục, mặc dù đang áp dụng một chính sách “Tuyển chọn di dân - immigation choisie” với mục đích thu hút chất xám của các nước nghèo, đã trở thành chọn lọc hơn đối với học nhân, vì nhận thấy chuyện đi học đối với rất nhiều thanh thiếu niên các nước nghèo đôi lúc đã không phải là động cơ chính.

Sau khi bức tường Bá Linh bị vỡ (Xây năm 1961 và bắt đầu vỡ năm 1989, cuối năm 1990 thì hoàn toàn bị phá bỏ), ngay những đợt đầu tiên đã cũng có rất nhiều người Việt đi lao động ở Đông Đức chưa về nước, mặc dù đã lấy được tiền “bồi thường” của chính phủ sở tại, lợi dụng khe hở của các bức tường ấy để làm tường nhân. Sau đó lúc các trại tị nạn mọc lên như nấm khắp Tây Đức thì tất cả người Việt ở các nước XHCN Đông Âu cũ, bất cứ diện nào, nếu được, đều đã lợi dụng dịp này tìm cách trốn chạy sang, làm tường nhân để nhập trại. Sau này việc thâm nhập vào Đức càng ngày càng trở nên khó khăn, rất nhiều người đã phải vượt rừng biên giới, nhất là rừng biên giới Đức-Tiệp, lại có người đã phải cởi cả quần áo lội qua sông, suối miền biên giới buốt lạnh vào mùa đông, đặc biệt phía biên giới Đức-Ba-lan, những người xuyên biên giới Đức tìm tự do trong các đô thị ánh sáng văn minh này oái om thay lại bị gọi là rừng nhân, suối nhân. Tiếp đến vì biên giới bị kiểm tra quá ngặt nghèo, lại đến những đợt người phải chui cả vào trong các thùng, cóp xe để vượt biên nên được gọi là ô-tô nhân.

Sau này, để thoát ra khỏi được cái hình chữ S và để thành “…nhân” (nghĩa là để “nên người” như bọn trẻ thời nay hay nói), nhiều người, đàn ông hoặc phụ nữ, nhưng nhiều nhất vẫn là các cô gái, từ các gia đình khá giả hoặc có người thân khá giả ở nước ngoài mà cha mẹ muốn cho xuất ngoại đã phải dùng đến con bài làm hôn thú giả (“đám cưới trắng” như người Pháp gọi) với một người ở nước ngoài, thậm chí có khi phải cược rất nhiều vàng (một thời đã có quy định cả biểu giá). Dù sao cũng chỉ là những đám cưới giả, sang đến nước ngoài rồi thì ai về nhà nấy, nên mấy người này bị gọi là giả nhân (chuyện làm đám cưới giả, lấy vợ lấy chồng giả để đi các nơi, tuy rằng hiện nay đang gặp nhiều quy định khá gắt gao, nhưng vẫn còn tiếp tục khởi sắc và có trường hợp bắt đầu tuy là chuyện giả nhưng sau lại thành thật!).

Song song với những con đường vượt biên kiểu mới này, lối vượt biên cổ điển bằng tàu thỉnh thoảng vẫn còn tiếp diễn (tháng 06/2002 hai chiếc thuyền từ Việt Nam còn đến Phi và Nam Dương, tháng 4/2003 theo tin của AFP từ Sydney 42 thuyền nhân Việt Nam đã được chính phủ Indonesia cho lên một chiếc tàu gỗ chật chội và không an toàn để lên đường sang Úc-Việt Báo, Orange County, 23/04/2003). Nhưng vì các trại tị nạn Á châu đã bị xem như vĩnh viễn đóng cửa và các nước Đông Nam Á, Úc đã có kinh nghiệm và quyết tâm chặn đứng nạn vượt biên để làm nản lòng những thuyền nhân tiềm ẩn đã có những biện pháp cực mạnh. Vì vậy hiện nay vượt biên chỉ còn lại vỏn vẹn mấy con đường chính thức: đi lao động, đi lấy chồng nước ngoài và vài vụ lẻ tẻ do đường dây buôn bán hộ chiếu có thông đồng với các Đại sứ quán Việt Nam tại nước ngoài và chủ yếu để đến một số nước đặc biệt ở đó nghề “trồng cỏ” (cần sa) của người Việt Nam (đa số gốc Hải Phòng) rất phát triển, có thể giúp họ kiếm được tiền nhanh chóng để hoàn số vốn lớn lao đã phải bỏ ra cho bọn buôn người. Dù sao đi nữa, cái giá phải trả cho bọn đưa người, buôn người tại Việt Nam bây giờ đã trở nên đắt đỏ đến độ nhiều người sau khi hết hợp đồng xuất khẩu lao động cũng không kiếm đủ tiền để trả nợ, và tình cảnh này đã đưa họ vào con đường bán thân ở Đài Loan, Nam Hàn, Mã Lai, Nhật Bản… hoặc trốn lại sống một cách bất hợp pháp để tiếp tục lao động cho đủ tiền trả nợ. Điều đau đớn là dù vẫn biết tin về những thảm cảnh của nhiều người đã ra đi, nhưng vì bức xúc bởi hoàn cảnh cuộc sống trong nước, nên phong trào bỏ nước ra đi vẫn không hề giảm xuống mà còn có khả năng trở thành một “định hướng” phát triển kinh tế của thị trường lao động Việt Nam hình thành do chế độ hiện nay.

Người ra đi đến bến bờ vô định đã đau đớn là thế, người ở lại thì sao? Chỉ cần nhắc lại một câu người ở dặn người đi một thuở nào đã xa xôi và ngẫm nghĩ thì thấy tình cảnh bây giờ vẫn chẳng khác là bao, có lẽ còn đau lòng hơn nữa vì đất nước đã hoà bình độc lập hơn 30 năm nay rồi:
Em đi anh nắm cổ tay
Anh dặn câu này em chớ có quên
Đôi ta đã có lời nguyền
Lấy ai thì lấy đừng quên gửi đồ!
Em ơi, lấy ai thì lấy, Đài Loan, Hồng Kông, Đại Hàn, Tàu lục địa… gì cũng được, cứ miễn là đừng quên gửi kiều hối về để cho anh đóng góp nuôi các dã nhân (Có lẽ chỉ giản dị là để đỡ rườm rà hơn từ dã man nhân), nuôi các đại nhân, các đảng nhân mà người trong nước bây giờ lại gọi là các “đại gia” để họ nuôi “con nuôi”, nuôi các “em chân dài”, để họ đánh bạc... !

Một thắc mắc nhỏ cuối cùng của người viết bài này chỉ còn là không biết bao giờ, trời lại làm một trận lăng nhăng và trong một cuộc đổi thay nào đó, thì các loại dã nhân từ Việt Nam sẽ bay đi hết, sống ở nước ngoài, thay vì “hạ cánh an toàn” ngay tại Việt Nam như hiện nay, để cho dân Việt Nam đỡ khổ ? Bởi vì nói như kiểu Việt Nam bây giờ thì bọn này ở bên nhà hiện đang hơi bị đông (nghĩa là ít nhất cũng đang ngồi đầy trong các guồng máy Đảng và Nhà nước). Mặc dù bọn chúng đã gửi con cái đi khắp nơi trên thế giới mua nhà cửa, hàng quán để đầu tư, kinh doanh rồi, nhưng khổ nỗi chúng vẫn còn nấn ná lại chưa muốn đi đâu cả, vì hiện thời đang giữ được trong tay bao nhiêu đặc quyền, đặc lợi và còn đang hốt được khẳm lắm, không chỉ trong công cuộc tham nhũng, rút ruột, mà nhất là trong dịch vụ lành nghề bấy lâu nay gọi là xuất khẩu lao động, nghĩa là bán công nhân, phụ nữ ra nước ngoài để làm khổ sai, lấy chồng, làm ôshin và đủ các ngành nghề khác, kể cả đi làm nô lệ tình dục để cho người mặc tay phỉ nhổ, hành hạ, đánh đập, giết chóc.

Ôi, Mong thay!
Nguyễn Hồi Thủ
Paris ngày 22-02-2006 - sửa chữa và bổ sung ngày 22-02-2007
© Thông Luận 2007

Đọc báo thay Tái bút:

Chuyện đài kỷ-niệm thuyền-nhân vô-danh

Trung-tuần Tháng Sáu, 2006, tờ Bưu-báo ở Jakarta đã có bài nói Cộng-hòa Xã-hội Chủ-nghĩa Việt-nam (CXCV) làm áp lực lên nhà cầm quyền Nam-dương, yêu cầu họ đẽo bỏ Đài Tưởng-niệm Galang. Như báo này tiết-lộ thì Hà-nội "cho rằng hàng chữ nổi trên đài có lời lẽ xúc-phạm thanh-danh chế-độ Việt Nam". Trong công-hàm trao đổi với Malaysia, quan-chức chế-độ Cộng-sản cũng kêu là Việt Nam đã bị bôi nhọ. Mấy tháng sau, chính-quyền Kuala Lumpur cũng lại nhượng-bộ Hà-nội và ra lệnh dẹp bỏ Đài kỷ niệm Bidong.

Ở Mã Lai và Phi Luật Tân tình hình cũng tương tự. Chính quyền Việt Nam đòi hỏi các nước trên phá bỏ các đài kỷ niệm của những người di tản, các dấu tích tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam. Nhưng thử hỏi thuyền-nhân đã viết gì mà các vị phải nổi giận đến thế? Ở Galang, Ủy-ban Xây Dựng Đài Tưởng-niệm chỉ đã viết: thuyền-nhân muốn có chỗ hàng năm làm lễ "cầu an cho hương-hồn cả trăm ngàn người đã bỏ mình trên đường đi tìm Tự-do..."; và ở Bidong, là nơi riêng trong năm đầu đã tiếp-nhận 58,000 thành-phần tị-nạn, Ủy-ban chỉ viết muốn "Ghi ơn nhân-dân Malaysia đã mở lòng nhân-từ như sông biển đùm bọc hàng chục vạn người dưng nước lã lúc cùng đường mạt lộ."