Nhờ những phát minh khoa học và kỹ thuật, đã giúp thêm phương tiện cho các cường quốc Âu Châu thời đó như Anh, Pháp, Hoà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha... đánh chiếm được nhiều thuộc địa tại Phi, Á, Úc và Mỹ Châu vào thế kỷ thứ XVIII. Nhưng tất cả bọn thực dân, dù mang thứ màu da hay chủ nghĩa nào chăng nữa, cũng đều tham ác, dã man và ích kỷ. Chúng chỉ nghĩ tới cách nào vơ vét cho đầy túi tham. Những danh từ hoa mỹ như đem văn minh nhân loại, để khai hoá các dân tộc còn lạc hậu, chẳng qua chỉ là lớp mặt nạ hào nhoáng bên ngoài, ngày nay ai cũng biết.
Đó chính là nguyên nhân, đã khiến cho dân địa phương và nhiều trí thức da trắng sinh trưởng tại các thuộc địa bất mãn và căm ghét bọn cầm quyền thực dân và là lý do làm cho MƯỜI BA THUỘC ĐỊA CŨ của Anh Cát Lợi, ở Miền Đông Bắc Hoa Kỳ ngày nay, nổi dậy đòi độc lập từ năm 1783. Cuộc chiến đầu đầy gian khổ và huyết lệ trên, do GEORGE WASHINGTON (1789-1797) lãnh đạo với sự viện trợ quân sự của Pháp, sau 10 năm chiến tranh khốc liệt, đã buộc người Anh phải ký Hòa Ứơc Versailles vào ngày 4-7-1883 : CÔNG NHẬN NỀN ĐỘC LẬP CỦA QUỐC GIA HOA KỲ.
Ngày nay Mỹ chẳng những là một siêu cường số 1 của thế giới về kinh tế, quân sự, mà còn là một Tiểu Lục Địa rộng lớn, có lãnh thổ chạy từ bờ Thái Bình Dương qua Đại Tây Dương, diện tích xấp xỉ với Âu Châu, đứng thứ tư sau Liên Bang Nga (6.592.812 Sq.Ml), Gia Nã Đại (3.851.787 Sq.Ml) và Trung Cộng (3.691.000 Sq.Ml). Như vậy, tính đến năm 2007, diện tích Hoa Kỳ là 3.623.420 Sq.Ml hay 9.384.658 Km2 và dân số gần 300 triệu người. Do đất nước quá rộng lớn, còn dân chúng thì tạp chủng, lại có nhiều nền văn hóa dị biệt, tự do quá trớn và cạnh tranh ráo riết để mà sinh tồn. Bởi thế không ai sinh sống trên đất nước này, dù là bản địa hay di dân, người bình thường hoặc Tổng Thống, dám khẳng định nước Mỹ là thiên đàng hay địa ngục, vì sự tốt, xấu, may mắn hay bất hạnh... đều do công ăn, việc làm, tức là Tiền chi phối.
Sự kiện dân chúng Mỹ quyết định bỏ phiếu tiếp tục ủng hộ Bill Clinton làm Tổng Thống nhiệm kỳ 2 (1996-2001), bất chấp dư luận, tư cách và đạo đức của một nhà lãnh đạo. Hay hiện nay vì quyền lợi chiến lược toàn cầu, gần như cả Tòa Bạch Ốc, đều đổ xô bợ lưng cho một chế độ tàn bạo và phi nhân nhất của nhân loại, đó là đảng cầm quyền Cộng Sản VN. Điều này đã nói lên sự thay đổi lớn, trong nếp nghĩ của người Mỹ hiện nay, đã không còn tin tưởng vào đạo đức của các cấp lãnh đạo chính trị và giới truyền thông như trước đây.
Tóm lại, người Mỹ không cần biết tới đời tư của bất cứ cá nhân nào, miễn sao các cấp lãnh đạo, mang cho dân chúng có đủ cơm ăn áo mặc, đất nước thanh bình, uy tín của Hoa Kỳ được tôn trong khắp thế giới là đủ rồi.
Ngoài các vấn đề trên, đối với người Mỹ cho dù là người địa phương hay di dân, trong thâm tâm bất cứ ai cũng đều mang một sự hãnh diện với thế giới, qua các công trình kiến tạo của tiền nhân suốt 200 lập quốc : phố xá khanh trang, nhà cửa đồ sộ, thư viện đầy ắp báo chí sách vở, chợ búa sạch ngon, bến tàu phi trường tấp nập rộn rịp về cảnh sắc lẫn tình người. Tóm lại dân tộc Hoa Kỳ, dù mới lập quốc nhưng hầu hết đều đạo đức, lương thiện và chan hòa tình thương không biên giới (trong đó sự cưu mang hơn 3 triệu người VN Tị Nạn Cộng Sản, từ tháng 5-1975 tới nay), nên đã nhanh chóng thu phục được nhân tâm và đứng đầu thế giới về mọi mặt.
Người Việt tị nạn CS chúng ta may mắn được sống hạnh phúc trên đất Mỹ, với đầy đủ các quyền lợi đã qui định từ Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền, mà đâu mấy ai hiểu rõ là Tiền Nhân đã đổi lấy nó bằng máu và mạng sống trước bạo lực
+ AI ĐÃ THỰC SỰ TÌM RA CHÂU MỸ ?
Trong lần kỷ niệm 500 năm, đánh dấu ngày Christophe Colomb đã tìm ra Châu Mỹ hay Tân Lục Địa. Dịp này đã có nhiều học giả, sử gia, nhà khoa học và khảo cổ khắp thế giới, đưa ra thắc mắc "Phải chăng Colomb là người đầu tiên đã tìm ra Tân Lục Địa hay ông chỉ là người đầu tiên tổ chức cuộc họp báo để hợp thức hóa sự có mặt của Châu Mỹ trên bản đồ thế giới ?"
Christophe Colomb hay Columbus có gia thế bình thường, cha làm thợ dệt tại Gêne (Tây Ban Nha). Là một vĩ nhân của thế giới nhưng cuộc đời gặp nhiều bất hạnh vì sự đố kỵ của thế nhân nên lúc đương thời, đến nỗi đã không lưu lại được một bức chân dung nào của nhà thám hiểm. Điều này đã chứng minh tại sao những bức chân dung của Colomb hiện đang lưu hành không đồng nhất và ít giống ông vì các họa sĩ của thế kỷ XVI đã vẽ bằng phương pháp "Identikit", tức là dựa theo lời kể của những người quen biết, trong đó có con trai nhà thàm hiểm là Ferdinand. Đại để thì lúc sinh thời Colomb có nước da và tóc màu đỏ, mắt xanh, cao lớn trên 1,65m.
Từ nhiều thập niên qua, rât nhiều học giả đã tìm đủ mọi cách phủ nhận công trình thám hiểm của Colomb nhưng tới nay cũng chỉ là những giả thuyết hoang đường, khó lòng đánh đổ được một sự thật đã được cả thế giới công nhận và ngưỡng mộ. Nhưng dù gì chăng nữa, thì công trình thám hiểm của Christophe cũng đã đi vào lịch sử và tâm khảm của mọi người, trong đó có Hiệp Chủng Quốc và các quốc gia thuộc Châu Mỹ. Ngoài ra từ những khai quật được do các nhà khảo cổ tìm thấy gần đây, dựa theo niên lịch khảo sát, có thể xác định họ đã tới đây trước Colmb, gồm những ngư dân Nhật, nhà sư Hui Sen, hoàng tử Madoc, Bjarni, Leif và người Do Thái. Nhưng chính Colmb lại là người đầu tiên đã công bố sự hiện hữu của Tân Lục Địa Châu Mỹ cho cả thế giới biết
+ BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP CỦA HOA KỲ :Sau thời gian dài chiến đấu đẳm máu với thực dân Anh, cuối cùng 13 Tiểu Bang trong Liên Hiệp Anh ly khai, đã đạt được chiến thắng khi dành được Độc Lập cho xứ sở, mà ngày nay chúng ta trang trọng đón mừng hằng năm, được công bố đầu tiên vào ngày 4-7-1776 với danh xưng "BẢN TUYÊN NGÔN NHÂN QUYỀN".
Cũng từ đó, ách nô lệ của Anh tại đây chấm dứt. Để tạo nên niềm tự hào của một dân tộc có độc lập và tự do thật sự, năm 1789 Webster Noah là người đầu tiên ấn hành quyển Tự Điển Tiếng Mỹ, nói lên ngôn ngữ riêng của dân tộc mình. Cùng lúc Benjamin Franklin cũng đã phát minh ra những chữ cái đơn giản. Nhận thức được tương lai của đất nước, sẽ mở rộng bờ cỏi và đón nhận nhiều sắc dân tới lập nghiệp tại Hiệp Chủng Quốc với nhiều nền văn hóa khác nhau. Bởi vậy Noah Webster càng chú trọng rất nhiều tới ngôn ngữ học bằng cách phát hành nhiều loại sách giáo khoa, giảng dạy về ngữ pháp, chính tả... tới nay vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm trong đời sống người Mỹ.
Sau này có M.Guffey hợp tác với Noah, đã bộc lộ tinh thần ái quốc và đạo đức, qua các tác phẩm được phổ biến, làm cho mọi người cảm động và càng ý thức rõ hơn bổn phận trách nhiệm của một công dân đối với xã hội và quốc gia của mình. Tuy ngày nay theo bánh xe văn minh của nhân loại, những công trình của các bậc tiền nhân đã bị lỗi thời với thời gian nhưng tên tuổi của ông vẫn còn nguyên vẹn. Thật vậy, đối với lịch sử Hoa Kỳ, chính Noah Webster đã có công tạo nên Ngôn Ngữ riêng cho người Mỹ, dù nó có nguồn gốc từ tiếng Anh mà thật sự không phải là tiếng Anh nguyên thủy. Trường hợp này cũng tương tự như Ngôn ngữ Việt Nam, có nguồn gốc từ Hán Tự và La Tinh nhưng không phải là chữ Hán hay La Tinh gốc.
Cùng với chiều hướng Độc Lập trên, Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ là Washington đã phát biểu "Hiệp Chủng Quốc bắt nguồn từ 13 thuộc địa của Anh nhưng Nay Là Quốc Gia Độc Lập. Vậy tai sao chúng ta cần gì phải quay về với Châu Âu hay Luân Đôn để bắt chước họ ? qua đợi chờ xin xỏ phê chuẩn. Trong đó, sự học hỏi trên, xét cho cùng, cũng chỉ là sự quê mùa, lỗi thời". Hỡi ôi nếu các nhà lãnh đạo VN bao đời, có được một phần tư tưởng độc lập như TT Mỹ, thì chắc chắn đất nước chúng ta ngày nay đâu phải đắm chìm trong vũng bùn ô nhục tồi tệ và thua kém nhân loại.
Để đổi lấy nền Độc lập cho đất nước Hoa Kỳ ngày nay, nhiều đại biểu của 13 Tiểu Bang ly khai đã gục ngã trước súng đạn của thực dân Anh. Thomas Jefferson được đề cử soạn thảo Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền cho Hiệp Chủng Quốc, trong lúc cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn giữa Anh-Mỹ. Thế rồi sau ba ngày tranh luận gay gắt, giữa các đại biểu trong phòng họp, cuối cùng hội nghị cũng đã bỏ phiếu, thông qua và chấp thuận Bản Tuyên Ngôn Độc Lập trên, vào ngày 2-7-1776.
Điều bi thảm mà tới nay con cháu ít ai biết tới. Đó là vào ngày 4-7-1776 công bố nền độc lập của Hoa Kỳ, được diễn ra trong thầm lặng, chết chóc, máu lệ khổ đau. Bởi thực dân Anh đâu có để yên cho những người chủ xướng, nên ra tay triệt hạ tất cả ai lúc đó dám nói tói Độc Lập cho Hoa Kỳ. Theo sử liệu, có 56 người đã ký vào Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Độc Lập Mỹ. Tất cả đều là sĩ phu trí thức đương thời, biết trước hậu quả về hành động của mình nhưng bất chấp mạng sống của mình và gia đình, chấp nhận hy sinh cho đại nghĩa dân tộc, đất nước.
"Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hản thanh"
Làm người mà chỉ biết hưởng thụ thì dù có nhà cao cửa rộng, sống tới 100 tuổi, cuộc sống và kiếp người, đâu có gì đáng nói ? Bởi vậy, đã có nhiều người chấp nhận dấn thân, trong số này có Francis Hopkinson quê New Jersey là một tài hoa hiếm có. Ông chính là tác giả của Lá Quốc Kỳ Mỹ được lưu hành và tồn tại tới ngày nay. Tóm lại tất cả những người trong cuộc đều có gia đình, lớn tuổi nhất là Benjamin Franklin (70 tuổi) và ba người chỉ mới 20 tuổi.
Ngay khi phát giác được Bản Tuyên Ngôn Độc Lập, Thực dân Anh lồng lộn điên cuồng, ra lệnh truy tìm và hạ sát những người có tên trong đó. Ngoài ra còn treo giá 500 Bảng Anh cho ai chỉ điểm, phát giác họ. Cuối cùng Anh tuyên bố Treo Cổ Tất Cả. Do sự khủng bố trên, nên hầu hết những người liên hệ tới Bản Tuyên Ngôn, lớp chết, lớp ở tù. Nhiều người bị thương tật khốn khổ vì sự tra tấn đánh đập dã man của kẻ thù, khiến cho nhà tan cửa nát, gia đình ly tán. Trong số ít ỏi sống sót sau này,hai người đã trở thành Tổng Thống Mỹ là John Adams và Thomas Jefferson. Cái giá độc lập của Hoa Kỳ là thế đó, mà những người khai sinh ra nó, phải đổi bằng mạng sống, máu lệ đem về. Cho nên các thế hệ sau ai nấy đều vô cùng cảm kích và trang trọng noi theo truyền thống yêu nước của tổ tiên mọi thời. Đó là kết quả của quốc gia Hoa Kỳ ngày nay, một miền đất tạp Chủng nhất trên thế giới, lại là đệ nhất siêu cường, một xứ sở tự do cá nhân nhưng ai cũng biết dừng lại trước giới hạn của mình, đối với quyền lợi chung của Tổ Quốc. Cho nên đừng phân biệt Dân Chủ hay Cộng Hoà, Kissinger hay Rice. Tất cả tuy hai mà một vì ai cũng chỉ có quyền lợi của dân tộc và đất nước Hoa kỳ mà thôi.
+ TÒA BẠCH ỐC TẠI THỦ ĐÔ LIÊN BANG HOA THỊNH ĐỐN :
Cho tới thế kỷ thứ XX!, sự thành công của nhân loại, đứng đầu cũng vẫn là các công trình kiến tạo, được con người bắt đầu xây dựng ngay từ thời thượng cổ. Thời kỳ đầu tiên, theo sử gia Hy Lạp Antipater, lúc đó đã có 7 kỳ quan là Kim Tự Tháp Cheop ở Ai Cập, Vườn treo Babylone tại Mésopotamie, Đền nữ Thần Artemis, Tượng Thần Zéus ở Olympia (Hy Lạp), Mộ Vua Mausole tai Halicarnasse,Tượng Thần trên Đảo Rhodes và Hải đăng Alexandria tại Ai Cập. Do các công trình thời xưa rất hiếm hoi, nên sự lựa chọn để xếp vào kỳ quan thật dễ dàng. Do đó hầu như tất cả đã bị lãng quên vào quá khứ, để nhường chỗ cho các công trình mới tân tiến và vĩ đại hơn của nhân loại, trong đó có sự góp mặt của nhiều nuớc Á Châu như Trung Hoa, Đài Loan, Nhật Bổn, Đại Hàn, Mã Lai Á...
Mới đây, nhà xuất bản The Preseavation Press đã phối hợp với các đại nhật báo Mỹ US Today, Miami Herald, Tampa Tribune... mở một cuộc thăm dò rộng rãi ý kiến trong dân chúng, để lựa chọn Hai Chục Công Trình Xây Dựng, được ưa thích nhất tại Hoa Kỳ. Tất cả các kiến trúc trên đều có liên hệ mật thiết tới những trang lịch sử dựng và giữ nước của tiền nhân. Điều này đã nói lên tình yêu nước nồng nàn của đồng bào cả nước đối với di sản của quốc gia họ.
- THỦ ĐÔ HOA THINH ĐỐN VÀ TÒA BẠCH ỐC :Từ ngày lập quốc tới nay, Hoa Kỳ vẫn là một Liên Bang Dân Chủ, chịu ảnh hưởng của nền chính trị Châu Âu, dựa trên nguyên tắc phân quyền và chủ quyền thực sự do lá phiếu của người dân tín nhiệm quyết định. Hiện Mỹ có 50 Tiểu Bang và Thủ Đô là Washington (Hoa Thịnh Đốn), có diện tích 178 km2, dân số 606.900 người theo thống kê năm 2004. Hằng năm thủ đô đón tiếp hơn 20 triệu du khách muôn phương, đổ về thắm viếng các công trình kiến trúc tại đây. Có điều ít ai ngờ được là thủ đô Hoa thịnh Đốn, đã được khai sinh từ một kiến trúc sư tài ba người Pháp P.C L’enfant nhưng sau đó ông đã bị lãng quên vì sự bội bạc của người Mỹ.
Theo tài liệu từ L’Histoire, thì ngày 11-3-1791, tám năm sau khi 13 thuộc địa cũ của Anh Cát Lợi được độc lập, trở thành Tân Quốc Gia Hoa Kỳ. Việc lực chọn thủ đô cho Liên Bang gặp nhiều trở ngại khi chỉ có một địa điểm thích hợp. Trong lúc đó khắp lãnh thổ, đâu cũng là những vùng thích hợp và đủ điều kiện lịch sử, vì sự liên hệ tới cuộc chiến đấu chống quân Anh như Boston, Philadelphia, Yorktown... được các đại biểu đề nghị. Tuy nhiên cuối cùng, Hội Đồng Quốc Gia quyết định theo đề nghị của Thomas Jefferson, một thành viên trong Quốc Hội, đồng thời là Thống Đốc Tiểu Bang Virginia, chọn một địa điểm trung gian, nằm trong Quận Columbia, để xây dựng thủ đô Liên Bang...
Đây là ý kiến dung hòa của Quốc Hội, được Vị Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ George Washington (1732-1798), chấp thuận và giao phó việc tìm địa điểm, lập đồ án xây dựng Thủ đô được chọn, tọa lạc trên hai bờ sông Potomac. Công trình trên được ủy nhiệm cho một Thiếu Tá Công Binh người Pháp tên Pierre Charles L’Enfant thực hiện.
Ông sinh ngày 2-8-1754 tại Ba Lê (Pháp), là con trai của Họa sư Pierre L’enfant, phụ trách xây dựng cung điện cho Hoàng đế Pháp Louis XV. Xuất thân là một Trung Úy Pháo Binh của quân đội Pháp. Ông đã cảm khái trước tinh thần yêu nước và sự hy sinh cao cả của Nghia Quân Hoa Kỳ lúc đó,đang chiến đấu anh dũng chống lại quân Anh. Bởi vậy L’ Enfant đã tình nguyện theo Đoàn Chí Nguyện Pháp, sang giúp người Mỹ đang tranh thủ cho nền độc lập xứ sở. Năm 1779, L’Enfant bị trọng thương trong trận ác chiến tại Savannah và bị Anh bắt làm tù binh, khi cùng đồng đội cố thủ tại cứ điểm Charleston. Được trao trả cho Hoa Kỳ qua cuộc thương thuyết của Bá tước Rochambeau và trở thành Sĩ Quan Huấn Luyện đầu tiên của Quân Đội Mỹ.
Ngày 13-12-1971, dự án xây dựng thủ đô Hoa Thịnh Đốn của L’Enfant hoàn tất, được đệ trình Quốc Hội và Tờ Công Báo Mỹ đăng tải với những lời khen ngơi, gọi công trình trên như là "Trung tâm của Lý Trí, Tuyên Ngôn đẹp nhất của Thế kỷ, Biểu tượng kính yêu của Quốc Gia trẻ trung Hoa Kỳ vừa được độc lập". Nhưng dù dự án được Tổng Thống Washington rất ưa thích tán đồng lai bị đám Nghị Viên thới nát lúc đó, vắt chanh bỏ vỏ, cấu kết với bọn nhà giàu, đầu cơ trục lợi, ém nhẹm trù dập, từ chối. Cuối cùng L’Enfant đã bị người Mỹ lãng quên và chết trong cảnh nghèo đói thảm thê vào năm 1825.
Thủ đô Liên Bang được chính thức thừa nhận vào tháng 12-1800, khi Đoàn Đại Biểu từ các Tiểu Bang tới trú ngụ tại Dinh Capital. Năm 1900 kỷ niệm 100 thành lập thủ đô. Quốc Hội Mỹ cử một Ủy Ban lo phát triển và xây dựng thủ đô trong tương lai. Nhân dịp này, các vị lãnh đạo Hoa Kỳ đã tuyên bố rất hối tiếc trong quá khứ, đã phủ nhận Đồ Án Xây Dựng Thủ Đô của Hoạ Sư L’Enfant, nên ngày nay phải tốn nhiều công sức và ngân khoản tu sửa lại thành phố. Đồng thời người Mỹ cũng quyết định Cải Táng Hài Cốt của L’Enfant, từ một khu nghĩa địa nghèo nàn, về Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington, để Ông được nằm chung với các đấng Anh Hùng liệt nữ của nước Mỹ, ngày đêm nhìn ngắm lâu đài, phố thị nguy nga, núi sông hùng tráng bên hai bờ Potomac.
Đây là một thành phố độc lập về hành chánh mang tên là Washington D.C (District of Columbia), để phân biệt với Tiểu Bang Washington ở phía tây bắc Hoa Kỳ, giáp giới với Canada. Do không lệ thuộc vào bất cứ tiểu bang nào, nên thủ đô hiện phải đương đầu với tỷ lệ tội phạm đứng đầu cả nước, mặc dù đây là trung tâm đầu não, tượng trưng cho quyền lực của Hoa Kỳ. Có nhiều lý do giải thích như thành phố có quá nhiều người Da Đen sinh sống tại trung tâm, trong khi hầu hết giới trung lưu da trắng thích cư ngụ ở vùng ngoại ô yên tĩnh. Mặt khác hệ thống an ninh tại đây luôn bị chồng chéo, đụng chạm giữa lực lượng của địa phương và Liên Bang, tạo nhiều kẽ hở trong công tác chung là trấn áp các tội ác.
Thủ đô tập trung tất cả các cơ cấu của chính quyền liên bang với những dinh thự nguy nga và các đền đài hùng tráng, nằm dọc hai bên Đại lộ Constitution, bên bờ sông Potomac. Còn có Tòa Bạch Ốc trên Đại lộ Pennsylvania. Điện Capitop, nơi đặt Trụ sở Quốc hôi Mỹ, được khánh thành từ năm 1867. Thư viện Quốc hội (Library of Congress) lớn nhất thế giới, xây dựng năm 1800,kế đó là Tối Cao Pháp viện (Supreme Court)...
Ở đây còn nổi tiếng qua các đài kỷ niệm với lối kiến trúc hài hòa nhưng vô cùng độc đáo. Đài tưởng niệm TT Washington có 898 bậc thang cao 150 m, giống như một tháp bút giữa trời. Đải kỷ niệm TT Lincold là một ngôi tượng khổng lồ, tạc bằng đá cẩm thạch cao 57m. Trong khi đó bức tượng của Jefferson được đúc bằng đồng, ngự trong một đại sảnh với mái vòm đứng trên những hàng cột tròn. Nhưng cảm động và có nhiều du khách tới thăm viếng hiện nay, vẫn là Đài Kỷ Niệm Những Chiến Binh Hoa Kỳ đã hy sinh tại chiến trường Đông Dương, trong cuộc chiến bảo vệ tự do độc lập cho các nước VNCH, Kampuchia và Lào, trước cuộc xâm lăng của Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế, do Hà Nội đảm nhận, từ 1960-1975. Đài này nằm trên Đại lộ Constitution với biểu tượng Ba Người Lính sát cánh bên nhau trong chiến đấu, bên trong có những bức tường đá hoa cương đen, khắc tên 58.000 tử sĩ đã hy sinh vì nước.
Ngoài ra Khu kỷ niệm Tổng Thống Lincold tại Hoa Thịnh Đốn, cũng được đánh giá là một trong 20 công trình xây dựng nổi tiếng của Mỹ, được kiến trúc sư Henry Bacon thiết kế và xây dựng từ năm 1922 theo kiểu cách của Cổ Hy Lạp. Trong công trình này có Pho tượng của TT Lincold cao 5,8m (19 Ft), do Điêu khắc gia Daniel Chester sáng tạo.
- TÒA BẠCH ỐC : Là nơi cư ngụ và làm việc của 42 vị Tổng Thống Hoa Kỳ, từ người đầu tiên là TT John Adams (1797-1801), cho tới đương kim Tông Thống G.W. Bush (2001- ). Riêng Tổng Thống đầu tiên của Mỹ là George Washington (1789-1797), từ trần trước khi Tòa Bạch Ốc hoàn thành. Công trình được khởi công từ năm 1792 tới năm 1799 mới xong, do Kiến Trúc Sư Janet vẽ đồ án và thiết kế. Đây là Trung tâm quyền lực chẳng những của Mỹ mà là cả thế giới, nên thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước tới tìm hiểu thăm viếng, những bí mật của Tòa Dinh Thự nhưng ít ai biết được gì đã xảy ra bên trong, sau lằn cửa khép.
Dù Washington là nguời đã đặt viên đá đầu tiên để xây dựng tòa nhà nhưng ông đã mất trước khi được khánh thành. Nên vị Tổng Thống thứ nhất vào cư ngụ trong Dinh lại là John Adam và Đệ Nhất Phu Nhân là Abigail Adam. Gọi là Tòa Bạch Ốc vì toàn thể dinh thự được sơn màu trắng, nên từ ngoài nhìn vào rất lạnh lẽo cô đơn. Ngày 24-8-1914, quân Anh tấn công thủ đô Hoa Thịnh Đốn và đốt rụi Tòa Bạch Ốc, nên Kiến trúc Sư Janet Hoban lại phải tái tạo và sơn phết lại toàn diện. Theo Robert Riplay, tác giả "Sưu Tập Những Chuyện Kỳ Lạ", thì danh từ Tòa Bạch Ốc, xuất xứ từ ý tưởng của Tổng Thống Washington, muốn kỷ niệm mối tình thơ mộng giữa ông và bà Martha Custiis, lúc đó hai người đang sống tại Trang Trại White House, bên bờ sông Pamunkey, thuộc Tiểu Bang Virginia.
khởi đầu, tòa dinh thự chỉ có 132 phòng nhưng qua lần sửa chữa vào năm 1940, mới được phân biệt thành các khu vực riêng biệt. Hiện nay mỗi buổi sáng từ thứ hai tới thứ sáu, đều có nhiều phái đoàn du lịch cũng như quan khách, tới thăm viếng những cơ sở của chính phủ, nằm dưới tầng trệt. Khu vực phía tây lầu là nơi sinh hoạt của tổng thống và gia đình. Khu này nổi tiếng nhất là các Phòng Green Room, dùng làm phòng ăn thời TT Bill Clinton. Đây là nơi quàng xác Willie Lincoln, con trai của TT Lincoln mất lúc 11 tuổi vì bệnh thương hàn. Đó cũng là nơi gặp gỡ giữa hai đệ nhất phu nhân Nancy Reagan (Mỹ) và Raisa Gorbachev (Liên Bang Sô Viết) khi Tổng Bí Thư LBXV Gorbachev tới thăm viếng Hoa Kỳ. Phòng Bầu Dục (Blue Room) là phòng Khánh Tiết, nơi tiếp xúc hầu hết các Phái đoàn Ngoại giao các nước, mới đây có Thủ tướng VC Phan Văn Khải tới thăm Mỹ vào tháng 6-2005. Phòng Đỏ (Red Room) là khu vực đặc biệt, nên còn được gọi là Dolles Madison, xử dụng nhiều mục đích.
Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là Phòng ngủ của cố Tổng Thống Lincoln. Chính nơi này ngày xưa, ông vừa dùng làm nơi ăn, ngủ và hội họp với các thành viên trong Nội Các. Cũng chính nơi này, vào năm 1863 Tổng Thống Abraham Lincoln đã ký vào Văn Bản Tuyên Bố Giải Phóng Nô Lệ tại Liên Bang Hoa Kỳ. Sau này chỉ có hai Tổng Thống Theodore Roosevelt (1901-1909) và Woodrow Wilson (1913-1921) là dám ngủ tại đây, vì ai cũng sợ hồn ma của TT Lincoln, theo lời đồn đãi thường xuất hiện.
Tòa Bạch Ốc là nơi linh thiêng nhất của nước Mỹ, vì tất cả tồn vong của nhân loại như xuất phát tại đây, một trung tâm quyền lực tối cao vô thương, điền hình là cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1960-1975) và Cuộc Chiến Biên Giới Việt-Hoa (1979-1989). Thế nhưng từ khi Tổng Thống Bill Clinton trở thành chủ nhân ông của nước Mỹ (1993-2001), đã biến nơi này thành một Khách Sạn siêu đẳng, với các dịch vụ công khai như cho thuê phòng ngủ của TT Lincoln, tổ chức các tiệc tùng, với mục đích kiếm tiền vận động cho Đảng Dân Chủ, trong các cuộc bầu cử Tổng Thống và Quốc Hội.
Theo các tài liệu được báo chí Mỹ công bố hồi tháng 3-1997, thì giá cả trong khách sạn White House rất bóc lột : 50.000 USD cho bất cứ ai muốn uống một ly cà phê sáng với TT. Clinton cùng các quan chức cao cấp trong Hành Pháp. 100.000 USD để được đánh Golf với Tổng Thống và 250.000 USD cho 24 giờ ăn, chơi, nhậu nhẹt và ngủ lại tại Phòng TT Lincoln. Qua thống kê của tờ New York Post, thì suốt thời gian nhậm chức của TT Bill Clinton, đã có hơn 1000 thượng khách, hưởng ứng chương trình chiêu đãi trên. Hầu hết là những thành phần tai to mặt lớn lắm bạc nhiều vàng đương thời như Barbre Streisand, Steven Spielberg, Tom Hanks, Jane Fonda, Leuwasser Mann, Billy Graham... đều đã qua đêm tại Tòa Bạch Ốc. Dù hành động phạm pháp trên, đã bị Quốc Hội điều tra, Đảng Cộng Hòa tố cáo nhưng Clinton và Gore, vẫn tuyên bố với báo chí là họ rất lấy làm hãnh diện, khi được đón tiếp các nhân vật quan trọng, trong cũng như ngoài nước, để vào vui chơi, ăn nhậu và ngủ đêm trong Dinh Tổng Thống, dù họ đã phải trả bằng nhiều tiền.
+ BẢO VỆ TỔNG THỐNG MỸ :
Nhưng đối với người Mỹ không thuộc thành phần trên, thì mọi việc lại khác, kể cả các nhà báo cũng không thể nào chụp hình bất kỳ một thành viên nào trong gia đình của Tổng Thống Mỹ, ngoài khuôn khổ rất ngặt nghèo mà Tòa Bạch Ốc qui định. Trong các buổi lễ lớn, những tiệc tiếp tân, các cơ quan truyền thông bị tập họp một chỗ sau hàng rào chắn cản, khiến ho chỉ còn ghi lại được hình thức bên ngoài rồi từ đó mao tôn cương, vì không thể nào khái thác nội dung chính trị của nó. Hình ảnh của Tổng Thống và gia đình, cũng được kiểm soát chặt chẻ tới cả góc độ của ảnh, nên nhiều người phải bỏ cuộc vì không làm xoay sở được khả năng của nghề phóng viên, chụp ảnh, ngoại trừ các tay chuyên môn chụp lén.
Hằng ngày trên báo chí và truyền hình Mỹ, luôn luôn có những chuyện lớn nhỏ va chạm tới vị nguyên thủ quốc gia. Đây cũng chỉ là chuyện bình thường theo quan niệm tự do dân chủ của Hoa Kỳ. Nhưng đó là hình thức, vì sự thật không phải là vậy, nhất là đối với Hiệp Chủng Quốc, Tổng Thống được dân tín nhiệm bầu lên, nên có địa vị quan trọng bậc nhất, phải được bảo vệ. Đó là một nhiệm vụ thật là khó khăn, nặng nề.
Từ sau cuộc nội chiến Nam-Bắc Mỹ, bắt đầu năm 1901, việc bảo vệ Tổng Thống và gia đình được giao cho Sở An Ninh thuộc Bộ Ngân Khố Hoa Kỳ. Những người được tuyển dụng vào Đơn vị đặc biệt này, đã phải qua một cuộc khảo nghiệm lựa chọn rất nghiêm ngặt bằng các điều kiện qui định như tuổi từ 24-30, tốt nghiệp Đại học, từng phục vụ trong quân đội, có hình dạng tuấn tú, cử chỉ lịch thiệp.
Đội quân trên có quân số chừng 300 người, đảm nhận tất cả các công tác tại Tòa Bạch Ốc, là nhân viên nổi hay chìm tùy theo chức phận đang giữ. Trước khi chính thức được thuyên chuyển về nhiệm sở trên, các nhân viên đã trải qua thời gian thực tập, từ 2-3 năm, tại 57 Cơ quan Dã chiến của Sở An ninh và tốt nghiệp một khóa học đặc biệt về các chuyên môn sắp được giao phó. Tóm lại nhiệm vụ bảo vệ Tổng Thống Hoa Kỳ, bao gồm từ hành động A-Z, trong đó có cả phần điều tra, theo dõi, những kẻ viết thư nặc danh, chửi bới, hăm dọa Tổng thống. Năm 1955, TT Eisenhower tới Genève họp thượng đỉnh, nhân viên An ninh đã tới địa điểm trên hằng tháng trước, để an bài lại tất cả mọi công tác, từ chỗ ngủ, sân golf, hý trường, phòng họp... đều được điều nghiên một cách nghiêm chỉnh và hiệu lực.
Trước khi Sở An ninh Bảo Vệ Tổng Thống ra đời, 3 trong số 9 vị TT Mỹ đã bị ám sát nhưng từ năm 1901 về sau, chỉ có hai vị Tổng Thống đang tại chức bị ám sát, đó là John Kennedy (chết năm 1963) và Ronald Reagan bị thương. Cùng thời gian, khắp thế giới đã có nhiều vị nguyên thủ quốc gia như Vua, Hoàng Hậu, Thái Tử, Tổng Thống, Thủ Tướng, các chính khách bị giết. Bởi vậy dù bị nhiều chính phủ phản đối dữ dội, qua các biện pháp thi hành của Sở An ninh BVTT Mỹ. Thế nhưng Hoa Kỳ vẫn phớt tỉnh và luôn thi hành đúng nguyên tắc và nhiệm vụ của mình.
+ VĂN PHÒNG TÌNH BÁO RIÊNG CỦA TÒA BẠCH ỐC :Theo tường thuật của báo chí, cơ quan này có tên là White House Situation Room. viêt tắt là WHSR (Phòng tình huống Dinh Tổng Thống), ở trong lòng đất về hướng tây nam của Tòa Bạch Ốc. Cơ quan này không lớn lắm, chỉ gồm một Phòng Họp và hai phòng làm việc nhưng được thiết kế như mạng nhện bằng các dụng cụ truyền tin điện tử tối tân nhất. Cơ quan này được chính Tổng Thống John Kennedy cho thành lập vào năm 1961, sau khi CIA bị thất bại trong chiến dịch đổ bộ vào Cu Ba tại Vịnh Con Heo. Phòng gồm 5 Tổ Tình Báo, làm việc 24/24 giờ/1ngày và suốt năm không có ngày nghỉ.
Nhiệm vụ chủ yếu của WHSR là Tổng Hợp và Ghi chú tất cả những sự kiện quan trọng, đệ trình Tổng Thống và các yếu nhân tham khảo nghiên cứu. Đây là một nhiệm vụ đầy gian khổ và phải chịu nhiều áp lực từ mọi phía. Nhân viên của Phòng được thuyên chuyển từ các nơi về, đa số đều trẻ tuổi, phải phục vụ thời gian 2 năm nhưng hầu hết đều mong mãn hạn để trở về đơn vị gốc. Tuy nhiên đây là cơ hội để thăng tiến sau này, vì họ thường xuyên và trực tiếp gặp gỡ Tổng Thống hay các yếu nhân để báo cáo tin tức hằng ngày, mà quan trong nhất là Công Tác Báo Cáo Buổi Sáng (Morning Book), có liên quan tới Bộ Quốc Phòng và nhiều Bộ khác. Đồng lúc là công tác Tổng Họp tất cả các bức Điện Văn của những Tòa Đại Sứ, Lãnh Sự Hoa Kỳ ở hải ngoại gởi về, để Tổng Thống nắm rõ các chi tiết, sử dụng vào Phiên Họp mỗi ngày, lúc 8giơ 30, với Hội Đồng An Ninh Quốc Gia.
Theo các tài liệu lưu trữ phổ biến, thì dù WHSR không phải là cơ quan duy nhất cung cấp tin tức cho Tổng Thống, vì bên cạnh còn có CIA cũng báo cáo tóm tắt thường ngày cho Vị Nguyên thủ Quốc Gia (President"s Daily Brief), nhưng qua các đời TT Reagan, G Bush, Clinton đều ưa thích các báo cáo của WHSR, cũng như CIA. Tóm lại Cơ quan này là đơn vị thừa hành mệnh lệnh của Cố vấn An ninh Quốc Gia, ngoài ra họ còn đặc biệt thiết lập đường dây điện thoại nóng của Tổng Thống Mỹ, liên lạc với các nguyên thủ quốc gia khac trên thế giới, với nhiệm vụ ghi chép, thông dịch và bảo mật các cuộc điện đàm của Tổng Thống.
+ BẦU CỬ TỔNG THỐNG MỸ :Hoa Kỳ là một quốc gia tự do, nên có rất nhiều đảng phái hoạt động, tuy nhiên chỉ có hai chính đảng là Dân Chủ và Cộng Hòa. Theo truyền thống, thì đảng Cộng Hòa luôn được giới tài phiệt ủng hộ, còn đảng Dân Chủ được trí thức, giới trẻ và tầng lớp dân nghèo ưa thích. Tuy nói là dân chủ tự do nhưng có một nghịch lý tại đất nước này. Đó là tuyệt đại người Mỹ không thích đi bầu cử. Điều này đã khiến cho Hoa Kỳ, từ trước tới nay, chưa có một vị Tổng Thống nào đạt được số phiếu tuyệt đối.
Do tình trạng trên, nhiều Tu Chính Án đã được bổ sung liên tiếp, để mở rộng quyền Bầu và Ứng Cử. Năm 1870 xóa bỏ sự phân biệt Chủng tộc. Năm 1920 Phụ nữ được quyền đi bầu. Năm 1964 công dân không đóng thuế vẫn được đi bầu. Năm 1971 hạ thấp tuổi đi bầu xuống tuổi 18. Dù vậy tỉ số người dân đi bầu cũng chẳng thay đổi là mấy. Bằng chứng là năm 1964, Lyndon B. Johnson là vị tổng thống Mỹ đầu tiên, đạt được số phiếu đi bầu nhiều nhất, nhưng cũng chỉ có 37,8%. Riêng tổng thống Martin Van Buren đắc cử năm 1836 với số phiếu đi bầu thấp nhất, chỉ có 11,4%.
Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 qui định nhiệm kỳ tổng thống là 4 năm nhưng không nói tới thời gian được phép tái tranh cử. Ngày 12-4-1945 mới có Tu Chính Hiến Pháp số 22, được ban hành ngày 27-2-1951, ấn định Tổng Thống Hoa Kỳ chỉ được tối đa Hai Nhiệm Kỳ.
Hiện nay có nhiều ý kiến nhận xét việc Ứng và Tranh cử Tổng Thống Mỹ quá phức tạp so với Tây phương, cho dù cả hai đều cùng theo một thể chế. Nhưng theo quan niệm của người Mỹ, thì việc chọn người ra tranh cử chức Tổng Thống, mới là điều hệ trọng nhất trong tiến trình bầu cử. Vì vậy việc này chỉ được diễn ra trong Nội Bộ các Đảng Phái Chính trị, từ tháng 1-8, gọi là Bầu Cử Sơ Bộ và Đại Hội Đảng. Người được đề cử ra tranh chức tổng thống, phải đạt được hơn 50% số phiếu của Đại Biểu đi bầu. Cũng vì các thể thức và nguyên tắc quá phức tạp, nên năm 1924, đảng Dân Chủ phải bỏ phiếu tới lần 103 mới chọn được ứng viên. Riêng các ứng cử viên độc lập thì không cần nguyên tắc trên nhưng không bao giờ hy vọng đắc cử vì đâu có hậu thuẫn của các đảng chính trị.
Ngày bầu cử Tổng thống Mỹ trên toàn quốc, được diễn ra vào ngày thứ Ba đầu tiên của tháng 11 Dương lịch. Công dân Mỹ trực tiếp bầu các đại diện cử tri, ứng vào số Nghị Sĩ Liên bang hiện nay là 540 người (438 Hạ viện + 100 Thượng viện + 2 cho Hawaii và Alaska)... Theo Hiến pháp, các Nghị sĩ và Công chức, không được quyền ứng cử Đại Cử Tri. Còn Tu Chính Án số 12, qui định khi hai ứng viên Tổng Thống không đạt được số phiếu bầu tuyệt đối hay số phiếu bằng nhau, thì Hạ Viện sẽ bỏ phiếu Bầu một trong hai người làm Tổng Thống. Cuối cùng nếu mọi sự vẫn không giải quyết được, thì tới ngày 4-3, Phó Tổng Thống đương nhiệm Sẽ lên thay Tổng Thống.
Vì sợ các tổng thống Mỹ được dân chúng bầu trực tiếp, họ sẽ có uy tín và thực quyền lớn, sinh ra độc tài và lấn áp quốc hội., nên những người làm luật mới bày ra cách bầu cử gián tiếp bằng Thể Thức Đại Cử Tri. Tuy nhiên đã có nhiều rắc rối khiến cho người dân càng thêm bất mãn. Đó là năm 1876, Samuel J.Tilden (Cộng Hòa) được 4.284.757 phiếu hơn Rtherford B. Hayes (Dân Chủ) nhưng Hayes lại đắc cử, vì hơn Samuel một phiếu của Cử tri đoàn. Bi kịch lại tái diễn hiện nay, qua hai lần tranh cử của W.Bush và Gore cùng John Kerry, làm cho người dân thêm phê phán. Nhưng với một Hiến Pháp sắt đá như Hoa Kỳ, thì sự thay đổi rất khó thực hiện được.
+ VÒNG QUANH NƯỚC MỸ TRONG NGÀY ĐỘC LẬP 4-7 CỦA HOA KỲ :
Chiến trạnh lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô đã kết thúc, để lại những dấu ấn trên đời sống của người Mỹ một cách sâu đậm và thiết thực nhất, mà theo nhận xét chung, không gì hơn được Hệ Thống Siêu Xa Lộ trên toàn quốc, nay trở thành biểu tượng của nền văn hóa quốc gia. Nhờ nó mới phát sinh ra vô số vùng ngoại ô, tạo nên công nghiệp ngành sản xuất xe hơi đủ loại, để chuyển vận người và hàng hóa khắp lục địa. Việc mở mang đường xá tại Hoa Kỳ đã có từ thập niên 30 của thế kỷ XX nhưng chính Tổng Thống Eisenhower là người đã đưa nó vào hiện thực, qua kinh nghiệm học hỏi được khi ông còn là một tướng lãnh chiến đấu tại Âu Châu, trên lãnh thổ nước Đức.
Vào cuối thập niên 1990, Liên Bang Mỹ đã khánh thành Hệ Thống Xa Lộ toàn quốc mang tên Eisenhower, có chiều dài 72.000 km, được xây dựng theo tiêu chuẩn đồng nhất : mỗi lằn xe chạy rộng 12 feet (3,65m), với tốc độ ấn định từ 45-55 mile (80-112 km/giờ), tối thiểu mỗi chiều có 2 lằn xe chạy. Đặc biệt Siêu Xa lộ không có đèn đường hay ngã tư cắt ngang, thường hai bên đường chỉ có các nhà trọ và các hàng quán bán đồ ăn nấu sẳn.
Tuy cùng là những di dân trên đất Mỹ nhưng người Châu Á (Hoa, Nhật, Cao Ly, Thái Lan, Ấn Độ... ) trong đó có người Tị Nạn Cộng Sản VN, suốt 32 năm qua, đã góp phần không nhỏ, làm đổi thay đời sống xã hội Hoa Kỳ, qua quá trình hoàn thành các Các Cộng Đồng Người Việt tại các Thành phố có đông người Việt cư ngụ như San José, Los Angles, San Francisco, Little Sai Gòn (California), Texas, Washington DC, New York...
+ NEW YORK, THÀNH PHỐ LỚN NHẤT NƯỚC MỸ :
Trước năm 1974, New York có Tòa nhà cao nhất thế giới. Đó là Empire State Building với 102 tầng, cao 443m, nằm trên Đại lộ thứ 5, giữa khu thương mai Manhattan. Được hoàn thành bởi các kiến trúc sư Shreve, Lamb và Harnon, thiết kế theo kiểu cách Art-Déco năm 1930. Những bộ phim ghê rợn loại King Kong được thực hiện tại đây.
Từ sau khi Hai Tháp của Tòa Nhà World Trade Center bị 19 tên khủng bố Hồi giáo cực đoan đánh bom tự sát bằng máy bay, vào ngày 11-9-2001, làm chết gần 7000 người và sụp đổ toàn diện, thì Empire State Building lại trở thành tòa nhà cao nhất nước Mỹ. Đây là nơi thu hút du khách trong và ngoài nước, khi tới thăm viếng thủ đô tài chánh của Hoa Kỳ, với những cảm giác mạnh, khi đứng trên hai đài quan sát tại tầng số 86 và 102, với hệ thống thang máy chuyển động rất nhanh. Đài quan sát có song sắt bảo vệ ở phía ngoài, để tránh những tai nạn đáng tiếc. Nơi này cũng cấm hôn hít với lý do là nụ hôn sẽ tạo nên hiện tượng điện giật làm chết người. Từ đây du khách có thể chiêm ngưỡng được toàn cảnh thành phố, trong phạm vi 120 km khi trời tốt, bằng không từ trên nhìn xuống chỉ thấy mây trắng mịt mùng, khói sương lãng đãng, khiến cho ta có cải cảm giác như đang sống trong ở cõi trên, quên đời quên tất cả.
Theo thống kê, tính từ ngày được khánh thành vào năm 1931 tới nay, đã có hơn 80 triệu du khách tới thăm viếng tòa nhà nổi tiếng này, được xếp vào kỳ quan thứ 8 của thế giới, tốn hết 60.000 tấn thép, 1860 bậc thang dẫn từ dưới đất lên tới đỉnh ở tầng 102, hơn 5000 km đường dây điện thoại, 96 km đường ống dẫn nước và 6500 cửa kính, được lau chùi thường xuyên.
New York có Rockerfeller Center, gồm 19 tòa cao ốc của tỷ phú Rockerfeler chuyên về thương mại, giải trí và buôn bán bất động sản. Ở đây còn có Viện Bảo Tàng Guggenheim là công trình xây dựng của Kiến trúc sư nổi tiếng nhất nước Mỹ và thế giới là Frank Loyd Wright. Còn có Trung tâm tài chánh chứng khoán thế giới Wall Street, nằm trong một dãy phố hẹp, cổ kính New York Stock Exchange (Thị trường chứng khoán NY), được hình thành từ năm 1792, từ 24 Hội viên lên tới 1300 ngày nay. Trên Đại lộ Broadway náo nhiêt, còn có Trung tâm kịch nghệ nổi tiếng, thường trình diễn những tác phẩm nổi tiếng của thế giới. Trụ sở Liên Hiệp Quốc một trong những điểm thăm viếng của du khach, nay cũng được hạn chế tối đa để đề phòng khủng bố, sau ngày 9-11-2001
Nhưng niềm tự hào của người dân New York nói riêng và nước Mỹ, vẫn là Tượng Nữ Thần Tự Do, tay cầm ngọn đuốc sáng, để soi đường dẫn lối, cho các đoàn tàu vượt Đại Tây Dương vào Hải Cảng New York.
Đây là một trong những biểu tượng vĩ đại nhất của nước Mỹ, được đặt trên Đảo Bedloe còn gọi là Liberty Island, bên bờ biển New York. Tượng tượng trưng cho sự tự do, liêm chính và lòng nhân ái của người Mỹ khi lập quốc. Với chiều cao từ nền tới bó đuốc là 92,97m và trọng lượng 325 tấn, do Điêu khắc gia lừng danh người Pháp trong thế kỷ XIX là Augusste Bartholdiv thực hiện. Đây là món quà quý giá của nước Pháp, tặng cho người dân Mỹ, để kỷ niệm Ngày Độc Lập Hoa Kỳ 4-7. Nhưng vì lúc đó Pháp đang có chiến tranh với Phổ, nên phải giao việc thực hiện tượng cho các hội từ thiện đảm trách.
Vì công trình quá vĩ đại mà ngân khoản của chính phủ trợ cấp có giới hạn, nên công tác phải gián đoạn nhiều lần cũng như mất nhiều thời gian để tiết kiệm tiền. Vì vậy tới ngày 12-8-1876 chỉ mới hoàn thành xong cánh tay cầm ngọn đuốc của Nữ thần. Để tranh thủ thời gian cho kịp, nhà điêu khắc phải đóng thùng gửi trước sang Mỹ, trong lúc tiếp tục những phần còn lại, mãi cho tới tháng 5-1884 mới xong.
Tại Mỹ, dân chúng đã quyên góp được 250.000 USD để xây chiệc bệ đặt Tượng Nữ thần trên đảo Bedloe. Một buổi lễ trọng thể được tổ chức ngày 28-10-1886, để khánh thành pho tượng với sự tham sự đông đảo của đồng bào và các quan chức Chính phủ. Dịp này Ủy Ban Quốc Hội đã để một chiếc hộp màu đỏ, tượng trưng cho niềm tin, được niêm kín, trong đó có Bản Hến Pháp và Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ, dưới chân Nữ Thần Tự Do, như một nhân chứng lịch sử. Tên tuổi của Nhà Điêu khắc Pháp "Auguste Bartholdiv được vinh danh. Từ năm 1931, Tượng lại được bảo trì cẩn mật và tô bồi thêm cho xứng đáng với ý nghĩa thiêng liêng. Riêng Bó đuốc trong tay nữ thần, luôn luôn cháy sáng, nhờ một hệ thống ống dẫn dầu cung cấp liên tục.
Hằng năm Tượng Nữ thần đã thu hút du khách muôn phương tới đây chiêm ngưỡng. Đi tàu từ đất liền ra đảo và sắp hàng để được thang máy đưa lên tận Vương Miện của Tượng, tha hồ chụp hình, ngắm cảnh. Nếu không muốn chờ đợi, thì tự leo 22 bậc thang để tới chân tượng Nữ thần, để mua những kỷ vật hay vào thăm khu bảo tàng trưng bày những hình ảnh liên hệ tới lịch sử của nước Mỹ.
+ CALIFORNIA, MIỀN ĐẤT ẤM :Tính tới nay đã có hơn ba triệu người Việt tị nạn chính trị, định cư tại Hoa Kỳ. Một số lớn tập trung tại các thành phố lớn của Tiểu Bang nắng ấm California như San Francisco, San Jose, Los Angeleve và nhiều nhất tại Thủ Đô Tị Nạn : Little Sài Gòn, thuộc Orange County. Đây là miền đất tượng trưng của Dân tộc VN hiền lành nhân ái, có văn minh văn hiến tình người, không phải chỉ một Sài Gòn thu nhỏ, mà hàm chứa tất cả tinh hoa Người và Đất của mọi miền đất nước thân thương, không chấp nhận chủ nghĩa vô thần Cộng Sản.
San Jose ở miền Bắc California có nhiều người Việt tị nạn sinh sống. Nếu Tiểu Sài Gòn được mệnh danh là thủ đô kinh tế Việt thì San Jose là thủ đô chính trị của người tị nạn, tuy sinh hoạt ít tấp nập và rộn rịp như ở miền Nam. Nhưng đa số đồng bào lại thích ở San Jose hơn, vì nơi này rất thanh bình hạnh phúc, địa thế lại nằm trong thung lũng hoa vàng nên có nắng ấm quanh năm, tuy khí hậu có hơi lành lạnh hao hao như Đà Lạt của quê nhà. San Jose còn dễ kiếm công ăn việc làm, vì nằm kế Silicon Valley, Trung tâm sản xuất máy tính của Hoa Kỳ, sào huyệt của Đại Công Ty Apple nổi tiếng khắp hoàn cầu, trong đó có nhiều kỹ sư người Mỹ gốc Việt (thế hệ thứ hai) đang phục vụ.
Ở miền bắc Calif còn có Thành phố San Francisco, một thành phố du lịch nổi tiếng của Mỹ, mỗi năm thu hút nhiều triệu du khách ngoại quốc tới thắm viếng. Tại đây người ta còn giữ lại nhiều di tích xa xưa như những chiếc tàu điện chạy bằng dây cáp và đường rầy (Cable Car), với những hồi chuông luôn đổ, để báo hiệu cho du khách khi xe tới những địa điểm quan trọng cần chú ý, hoặc đang leo dốc xuồng đồi. Đây cũng là nôi phát sinh ra phong trào Hippy Mỹ thời chiến tranh VN, mà bài hát nổi tiếng vẫn còn được truyền tụng "Nhớ cài hoa trên tóc, khi tới San Francisco... ". Bây giờ nó lại là thánh địa của những cặp "Đồng tình luyến ái", sinh hoạt chung trong một cộng đồng mang tên "Castro" qua màu cờ hình cầu vòng bảy màu, được treo trước nhà các hội viên.
Tới Francisco, không thể không thăm viếng các đia danh nổi tiếng như China Town, Bến Ngư Phủ (Fisherman’s Wharf), Công viên Golden Gate và nhất là chiếc cầu treo Golden Gate, niềm tự hào của người dân bản địa.
Chiếc cầu này do kỹ sư Joseph B. Strauss đôn đốc thực hiện. Cầu dài 2824m, sau năm 1964 đã nhường địa vị hạng nhất về chiều dài, cho những chiếc cầu khác trên thế giới như Verrazano Narrows, Akashi, Kaikyo... nhưng vẫn giữ kỷ lục về độ cao nhất từ hai cột tháp (746 Ft – 227m), và một cặp dây cáp treo dài 1200m, có đường kính 1m. Cầu bắt đầu xây dựng hơn 4 năm và khánh thành vào năm 1937, với chiều rộng đủ cho 8 lằn xe xuôi ngược, cùng với hai hành lang dành cho người đi bộ, nên cũng là địa điểm thuận lợi và nổi tiếng về hiện tượng tự sát mà thống kê ghi nhận, đã có hơn ngàn người nhảy sông chết, kể từ ngày thành lập tới nay.
Los Angeles hiện là thành phố lớn thứ nhì của Hoa Kỳ, không những là thủ đô của nhiều Cộng đồng di dân Người Mỹ gốc Á Châu như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và người Đông Dương Tị Nan Cộng Sản Quốc Tế Việt, Miên, Lào. Hollywwod từ lâu nổi tiếng là kinh đô ánh sáng trung tâm sản xuất phim nhựa về nghệ thuật thứ bảy. Đối với các giới hâm mộ điện ảnh, không ai không nhớ tới những địa danh quen thuộc như Đại Lộ Hoàng Hôn (Sunset Boulevard), Beverly Hill... sang trọng với nhà cửa dinh thự của các tài tử điện ảnh. Nhưng tình nhất vẫn là Chinese Theatre, một rạp hát nổi tiếng lâu đời, được coi như một nhân chứng của lịch sử điện ảnh Hoa Kỳ, qua các dấu ấn thời gian từ chữ ký, dấu chân, dấu tay kể cả dấu son môi của hằng trăm nữ tài tử điện ảnh nổi tiếng bao đời như marilyn Monroe, Lý Tiểu Long, Madonna, Michael Jackson...
Vào phim trường Universal tại Hollywood, để chứng kiến tận mắt những xảo thuật dựng phim giả tạo của đạo diễn, từ các pha nghẹt thở hiểm nguy, mà vai chính do các "Stunt men’ đóng thế, cho tới kỹ thuật lắp ráp trên màn ảnh, khiến cho ai cũng có cảm giác như mình đang ở trên mây. Cuối cùng là Disneyland, vương quốc của các loại phim hoạt hình Walt Disney, trung tâm giải trí của mọi lứa tuổi, với các khu vực được xây dựng theo chủ đề nhưng được ưa thích nhất vẫn là các nhân vật thần thoại hay ảo như Bạch Tuyết với bảy chú lùn, Cô bé quàng khăn đỏ, Thằng người gỗ Pinocchio, chú chuột Mickey, vịt Donald, chó Pluto... Tại đây du khách còn được đáp chuyến tàu chạy bằng hơi nước, trên con sông đào mang tên Mississipi, chảy vòng quanh khu vực.
California còn là vùng đất học, vì trong tổng số 12 viện đại học danh tiếng nhất hoàn cầu, thì Hoa Kỳ đã chiếm 8, trong số này có hai của Tiểu bang Cali. Điều này cũng dễ hiểu vì miền đất này đông dân nhất Hợp Chủng Quốc, với hơn 30 triệu người sinh sống tại đây, lại có một nền kinh tế cao và sung túc, cho nên hệ thống giáo dục được phát triển mạnh nhất nước. Đó là hai đại học công lập Universite of Calif-Berkeley, thường được viết tắt là UC Berkeley, cùng với đại học tư Stanford, cả hai đều lớn mạnh. Hiện nay UC Berkeley có tới 1500 giáo sư giảng dạy và 30.000 sinh viên + nghiên cứu sinh đang theo học. Trường thành lập từ năm 1868, qua thời gian đã tạo được một bề dầy thành tích, qua hai lãnh vực trí thức và chuyên nghiệp, nhát là sự nghiên cứu khoa học, đã mang về cho trường các giải Nobel danh tiếng về Nguyên tử và tin học.
UC Berkeley còn có lò phản ứng nguyên tử, do chính tiến sĩ J.R.Oppenheimer thực hiện, vì ông chính là cha đẻ cuả quả bom đầu tiên mà Mỹ chế tạo được vào năm 1945. Calif còn có 8 viện đại học khác, cùng có trình độ và tầm vóc ngang hàng với UC Berkeley, họp thành University of Calif (UC ) công lập, do một hội đồng quản trị và điều hành (Regent), đứng đầu là một chủ tịch và nhiều thành viên, trong đó có Thống đốc tiểu bang, cùng với các viện trưởng đại học liên hệ. UC đào tạo đủ trình độ như cử nhân (Bachelor – 4 năm), cao học (Master), tiến sĩ (Doctor)... có giá trị văn bằng, chẳng những tại Mỹ mà còn khắp thế giới. Điều này đối với các đại học khác tại Calif như UC San Diego, UC Los Angeles, UC Riverside, UC San Francisco,... cũng không có gì khác biệt, tuy mỗi trường có riêng chuyên môn của mình.
Song song hệ thống đại học công lập của liên bang, còn có hệ thống đại học của tiểu bang Calif (CSU), rải rác từ nam lên bắc có 23 viện như Humbold, Hayward, Stanislaus, Monrerey Bay, San Diego... chỉ đào tạo hai ngạch cử nhân và cao học mà thôi, tuy rằng trình độ giảng dạy, giữa hai viên đại học liên bang (UC) và tiểu bang (USC) đều giống nhau. Còn phải kể tới các đại học chuyên môn (College) và cộng đồng (Community College), đều thuộc hệ thống công lập hạng ba.
Trong khi đó các đại học tư nhân được phát triển tự do, bao gồm 30 đại học hỗn hợp (University) và Chuyên môn (College), trong số này có 10 trường của các giáo hội Thiên Chúa, Tin Lành và Thanh Giáo như đại học Sacramento, Los Angeles, đại học quốc tế... nhưng nổi tiếng nhất của hệ thống này, vẫn là đại học Stanford. Viện thành lập năm 1891, hiện có 1400 giảng sư, 14000 sinh viên, 7 phân khoa, được xếp hạng trong 5 viện đại học danh tiếng nhất của nước Mỹ : Harvard, Berkeley, Cal Tech và Massachusetts Institute of Technology (MIT). Viện chuyên đào tạo giáo sư các ngành, giảng dạy tại các trường phổ thông của Mỹ. Tóm lại, trong hệ thống đại học tại tiểu bang Calif, 90% sinh viên là người địa phương, số còn lại từ các tiểu bang khác và ngoại quốc. Người gốc Châu Á theo học chưa tới 3% nhưng chiếm 8% là sinh viên giỏi, trong số này đứng đầu vẫn là người Việt tị nạn, Trung Hoa, Nhât Bản và Nam Hàn.
+ LAS VEGAS, THIÊN ĐÀNG HAY ĐIA NGỤC :Thiên đàng hay địa ngục tùy theo cảm xúc của con bạc thắng hay thua. Tuy nhiên theo thống kê của báo chí, thì từ trước tới nay, đã có 90% dân đỏ đen bị sạt nghiệp vì bạc bài. Nhiều người vỡ mộng, cháy túi sau 4 ngày miệt mài điên đảo tại Las Vegas. Điều lạ kỳ là hầu hết các con bạc dù đã bị cháy túi nhiều lần nhưng vẫn cứ vui vẻ trở lại chốn cũ, với hy vọng gỡ vốn kiếm lời, để rồi lại cứ thất thiểu quay về như bao lần mộng mị.
Las Vegas là một thành phố phi thời gian, vì tại đây không hề có một chiếc đồng hồ được treo tại các nơi công cộng. Đây cũng là dụng ý của các chủ sòng, muốn con bạc đừng thèm quan tâm tới ngày giờ cho bận rộn cuộc chơi. Các phòng ngủ trong mọi khách sạn, cũng được thiết kế một cách nhạt nhẽo sơ sài, gây chán nản cho khách trọ, để họ mau mau rời giường, xuống ngay sòng bạc, sát phạt cuộc đỏ đen.
khởi đầu chỉ là một thị trấn nhỏ, nằm trong sa mạc Nevada, có con đường sắt từ các tiểu bang miền Nam ngược lên vùng tây bắc California để săn tìm vàng. Những năm nước Mỹ buớc vào thời kỳ suy thoái kinh tế, thị trấn trên cũng chuyển mình, bằng cách phân thành 1200 lô đất, bán cho công chúng và các công ty để đầu tư vào việc xây dựng sòng bạc và khách sạn. Nơi đó hiện nay trở thành khu phố chính Strip và Glitter Gulch, nằm dọc theo hai siêu lộ 15 và 95. Chính thức ra đời ngày 15-5-1905, Las Vegas rộng 293 km2, mang tên "Đồng Cỏ’ vào thời kỳ thuộc Tây Ban Nha, còn bây giờ người Mỹ gọi la "Sin City "thành phố tội lỗi. Phi trường quốc tế Mc Carran, lối dẫn vào thành phố Las Vegas xa 8 km, thật tình không giống bất cứ một nơi nào trên thế giới, vì được dàn chào gần như khắp nơi, bằng những Máy Kéo Tiền, mà người Mỹ gọi là One Armed Bandits, còn dân chơi cầu ba cẳng thì xưng tụng là Tướng Cướp Một Tay, vì máy nào cũng chỉ có một cánh tay, cũng là chiếc cần kéo, khi bỏ vào máy một đồng 25 xu.USD. sẽ "Hit the Jackpot" khi nhìn thấy ba hình vẽ giống nhau hiện trên nền truyền hình, đồng thời với tiếng rổn rảng của các đồng xu chảy ra từ máy. Nhưng đó chỉ là họa hoằn, vì ngàn người như một, bỏ tiền vào mà đâu có thấy đồng nào trở lại.
Ngày 2-8-2004 tờ Times cho biết tỷ phú Kirk Kerkorian, đã ký hợp đồng sáp nhập trung tâm giải trí MGM Mirage của mình với Mandalay Resort Group, thành một đại công ty cờ bạc lớn nhất thế giới. Còn Harrah’s Entertainment đã mua Caesars Enter với giá 9,25 tỉ USD để khuếch trương to hơn đại công ty trên. Tóm lại hai tập đoàn cờ bạc và giải trí lớn nhất của hoàn cầu, đổ hết tiền bạc vào Las Vegas, biến nó thành chốn thiên đàng với bốn món ăn chơi đúng nghĩa, trong đó đâu có thiếu công nghiệp Sex, chỉ đứng sau cờ bạc mà thôi. Hiện MGM Grand đã phá bỏ hai công viên giải trí cũ, để xây dựng những hộp đêm thác loạn đúng nghĩa, mà giới giang hồ quen gọi là "Chỗ Bốc Lá", mô hình tương tự như Quán Crazy Horse ở Ba Lê (Pháp). Sex hiện diện khắp nơi ở Las Vegas qua hình thức nghệ thuật, trong mọi chương trình của đoàn xiệc Cirque du Soleil thường trực tại Rạp, gần như khỏa thân và gợi dục. Tại Trung tâm Treasure Island, có màn cướp biển và các nàng tiên cá bán thân.
Theo Billy Vassiliadis, chuyên viên quảng cáo thì nhờ Sex đã hấp dẫn hằng triệu du khách Anh, Đức, Nhật, Úc, Nam Hàn... ùn ùn kéo tới Las Vegas mua vui và đánh bạc. Để cung ứng nhu cầu, các đại công ty đã mở các chuyến bay trực tiếp từ Âu Châu, Nhật, Úc, Nam Hàn... tới thẳng phi trường quốc tế của thiên đàng đỏ đen là sân bay Mc Carran, đem bạc tỷ lợi nhuận về cho ông chủ của MGM Mirage, The Strip... nâng thành phố Las Vegas lên hàng đầu nước Mỹ về sự tăng trưởng (từ 600.000 – 1,6 triệu năm 2005) và mức thu nhập trung bình 32.000 USD.
Thiên đàng hay địa ngục, ai muốn nói gì cũng mặc, trước mắt Las Vegas mỗi năm thu hút hằng năm hơn 33 triệu du khách muôn phương đổ về, để thử thời vận hay hưởng cảnh nhất dạ đế vương trong thiên đường tội lỗi, đã mang tới lợi tức cho thành phố hằng năm hơn 5,25 tỉ USD. Hiện Las Vegas có 19 đại khách sạn hàng đầu thế giới, trong đó mỗi nơi là một sòng bạc (casino) đồng thời là chỗ giải trí trình diễn ca vũ nhạc do các tài tử thượng thặng khắp năm châu về. Đó là El Rancho ra đời năm 1941, Flamingo năm 1946 thực hiện cả một khu hoang dã, thả đầy chim Hồng Hạc, biểu tượng cái tên của khách sạn. Còn Circus Circus lại mang hơi hướng của những đoàn xiệc lừng danh quốc tế. Vào New York hotel, du khách có cảm tưởng như mình đang sống ở thành phố trên được thu nhỏ với tượng nữ thần tự do, tay cầm bó đuốc rực sáng đêm ngày.
Nói chung thì thiên đường nào cũng không bằng các sòng Casino được vây quanh bằng đủ kiểu, từ các máy đánh bạc ở vòng ngoài, cho tới những sòng Roulette, Poker... mà không khí sát phạt hiện thực bằng đồng phỉnh đủ màu, tượng trưng cho giá tri của USD. Từ năm 1931 tới nay, ngoài cờ bạc đỏ đen, Las Vegas còn đảm nhận dịch vụ kết hôn, với thủ tục giản tiện nhất trong 50 tiểu bang của Mỹ. Ở đây có tiền thì có tất cả, nên chỉ cần vài phút đợi chờ, người ta có thể lấy hay bỏ nhau còn dễ hơn thay đổi quần áo. Các tổ chức cưới (Wedding Chapel0 phục dịch khách hàng từ A-Z... Dễ như vậy nên mỗi năm có hơn 100.000 cặp tổ chức đám cưới ở xứ thần tiên đầy lạc thú, nếu có đủ tiền trả.
Tuy nhiên ngoài cờ bạc, Las Vegas cũng có nhiều thắng cảnh danh lam như dập nước Hoover, hồ chứa Mead khổng lồ, hùng vĩ. Hẻm núi đá đỏ Rock Canyon được hình thành từ 65 triệu năm trước. Năm 2001 đã khánh thành Viện Bảo tàng nghệ thuật Guggenheim trưng bày tranh của của các danh họa Picasso và Cézanne... cũng chỉ với mục đích làm cho thành phố bớt đi chút mặc cảm tội lỗi.
+ HONOLULU CHỐN ĂN CHƠI ĐẮT GIÁ NHẤT CỦA NƯỚC MỸ :
Từ năm 1959, quần đảo Hawaii chính thức trở thành tiểu bang thứ 50 của Hợp Chủng Quốc, khiến cho người Mỹ khắp nước, ai cũng ao ước tới thăm chốn thần tiên này một lần. Tại thủ phủ Honolulu hiện có gần 1 triệu dân, chính phủ liên bang vẫn duy trì khu di tích lịch sử Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), một địa danh ghi nhớ lại trận đại chiến long trời lở đất của Nhật và Hoa Kỳ vào ngày 7-12-1941. Chứng tích của xác tàu Arizona trong Hạm đội Mỹ bị Nhật đánh chìm, nay được biến thành một khu bảo tàng, để tưởng niệm hương hồn của hơn 4000 quân nhân Mỹ đã hy sinh vì nước.
Người Việt định cư ở đây từ năm 1965 cho tới nay, qua nhiều đợt như theo chồng, du học nhưng tuyệt đại đa số vẫn là Tị Nan Cộng Sản từ sau ngày 1-5-1975, theo thống kê cả tiểu bang có chừng vài ngàn người, sống nhiều nhất tại Honolulu, sau đó đảo Maui, Big Island, Kuwaii... bằng đủ nghề nhưng nhiều nhất là lái taxi, bán Manapua, làm hãng xưởng và khách sạn... nhưng dù hành nghề nào chăng nữa, ngưởi Việt tị nạn cũng cảm thấy thoải mái vì thời tiết khí hậu hao hao chốn quê nhà.
Tới du lịch Hawaii, khách chơi thoải mái với quần cụt áo thun, một truyền thống lâu đời của bản địa. Mọi người sẽ được thở hít không khí trong lành của trời đất, vẫy vùng nơi sóng bạc biển xanh, tha hồ thưởng thức các món ăn trấn quý của đại dương, mà bất cứ khách sạn nào cũng có. Đó là sự hãnh diện chung của bất cứ du khách nào khi tới thăm đảo quốc thần tiên này và ai khi giã từ cũng đều nói "Mahalo" như một lời hứa hẹn trở lại trong nụ cười.
Hỡi ơi đất người nơi nào cũng đẹp cũng rộng mở thâm tình. Chắc là vậy cho nên đâu có mấy ai chịu nghĩ tới là người xưa phải dùng xác người, máu lệ và tài sản gia đình đổi lấy đem về. Ở đâu cũng giống nhau, tự do không phải là của bố thí để xin xỏ, nó cũng không là trái sim chín để ta nằm chờ rung, cũng không phải là mộng mơ viễn tượng để đem về bằng ảo giác trong đầu, trên giấy hay lời nói lúc vui vầy. Đó là chính trị hay nói đúng hơn là nhân cách của con người khi biết lựa chon cách sống sao cho đúng với giá trị của kiếp người. Chính trị hiểu theo khía cạnh đạo đức là vậy đó, thế nhưng có nhiều người phải bỏ nước tha phương, vẫn không biết vì sao mình đã bỏ quê hương ra đi...
Chín năm toàn dân VN kháng chiến chống và đuổi được thực dân Pháp ra khỏi nước. Hai mươi năm tang tóc trầm luân tại VNCH chống chọi với cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế. Rốt cuộc VN cũng đâu có được tự do hạnh phúc.
Bởi vậy đừng nghe những gi Việt Cộng nói qua lời hứa của Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Cao Kỳ và báo chí Mỹ, mà phải nếu có dịp về thăm VN, nên nhìn tầng lớp đồng bào mạt rệp cả nước để biết việc gì Đảng đã làm được suốt ba mươi hai năm qua. Cũng đừng tin những gì người Mỹ đã nói, cho dù đó là đảng Dân Chủ hay Cộng Hòa, Ngoại trưởng Kissinger hay Rice, kể cả đương kim Tổng thống W.Bush... mà phải nhìn lại những tàn tích, hậu chứng và ngươi dân bản địa, khi Hoa Kỳ tháo chạy tại Đông Dương, Phi Châu và mới đây tại Iraq, A Phú Hãn, Trung Đông và tệ nhất là tình trạng cướp ngày của đảng CSVN đang diễn ra từng giờ, trước ống kính của nhân loại, trong đó có tòa đại sứ Mỹ ở Hà Nội, Sài Gòn.
Không có gì quý hơn độc lập tự do, đó là một chân lý có ghi trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Mỹ và Pháp. Nhưng từ trước tới nay VN đâu có tự do, bởi vậy đồng bào "Mua ba ký gạo không cho đem về". Người Mỹ có tự do, dân chủ, nên hàng hóa, sản phẩn văn hóa từ khắp nơi kể cả VN, đem ra bày bán, ai muốn thì mua. Nhưng VN bây giờ chưa có tự do, nên dù Mỹ chấp thuận, liệu sách báo, sản phẩm văn nghệ của người Việt được WTO qui định đem về nước hợp lệ. Tuy nhiên không biết ai là người bày bán ?
Chân lý là vậy đó, cho nên cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã nói rất chí lý "còn nước thì còn tất cả". Chúng ta nay còn gì để mơ mộng ? ngoài việc về thăm quê xưa, để rồi khi rời cố quốc, ai cũng phải ngậm ngùi vì đã không có cơ hội làm một công dân hạng bét dưới chế độ xã nghĩa, cho dù Triết mới nói "từ tháng 9-2007 vào VN khỏi chiếu khán và Việt kiều giàu tha hồ về mua nhà lầu "-/-
Xóm Cồn
4-7-2007
MƯỜNG GIANG