Thứ Tư, 29 tháng 8, 2007

Vấn đề Chính Danh về Dân Chủ, Công Lý và Nhân Quyền

“… nếu độc tài cộng sản cũng có dân chủ, công lý và nhân quyền thì chúng ta không có lý do gì để đứng lên tố cáo, đòi thay thế và giải thể chế độ CS …”

Tài liệu này viết cho các Chiến Sĩ Dân Chủ ỡ trong nước đã dũng cảm đứng lên đấu tranh đòi Công Lý và Nhân Quyền

Vấn đề chính danh được đặt ra nhân bài trao đổi ý kiến giữa một cơ quan truyền thông của Chính Phủ Hoa Kỳ là Đài Á Châu Tự Do (ACTD) và Trung Tâm Việt Nam Về Nhân Quyền tại Pháp (TTVNNQ). Đây là bản gợi ý và “trao đổi” quan điểm giữa một cơ quan truyền thông công và một hội nhân quyền tư nhân dịp Tòa Phúc Thẩm Saigon xử vụ kháng cáo của Bác Sĩ Lê Nguyên Sang. Bài trao đổi này được phát thanh hồi 6:30 sáng giờ Việt Nam ngày 17-8-2007 trước khi tòa khai mạc nhằm nhắn nhủ nhà cầm quyền Việt Nam qua Tòa Phúc Thẩm Saigon.

Trong lời mở đầu Ban Biên Tập Đài ACTD gợi ý:

“Lần này Bác Sĩ Sang được hai luật sư bênh vực. Như vậy liệu đó có phải là một chỉ dấu báo hiệu có thể có một phúc quyết theo chiều hướng giảm án cho Bác Sĩ Sang hay không?”

Điều đáng lưu ý là Đài ACTD chỉ kỳ vọng Tòa sẽ giảm án mà không yêu cầu Tòa hủy án sơ thẩm để tha bổng cho bị cáo. Theo luật pháp phổ thông tại các quốc gia văn minh, Bác Sĩ Sang không phạm tội hình sự nào dầu là tội chính trị hay tội thường phạm. Phát triển ý kiến của Đài ACTD, Trung Tâm VNNQ cũng nhận định rằng “mục đích của vụ xét xử lại là để bảo đảm tìm ra công lý”.

Viễn kiến hay ước vọng này có thể đúng tại Pháp hay Hoa Kỳ, nhưng nó không đúng ở Việt Nam. Vì các thẩm phán tòa án nhân dân chỉ học thuộc chữ “phạt”, chứ chưa học đến chữ “tha”.

Vấn đề xét xử không có gì phức tạp. Ai cũng biết, từ ngày thành lập, cũng như quốc hội, tòa án của Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và CHXHCNVN chỉ là công cụ của Đảng CS với nghĩa vụ phải triệt để tuân hành chỉ thị của Đảng.

Chỗ phức tạp là tại Việt Nam ngày nay có hai loại luật pháp, một loại thực dụng là luật rừng xanh của chế độ XHCN, và một loại để làm cảnh là Luật Quốc Tế Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc.

Tuy nhiên, để bảo vệ chế độ dân chủ giả hiệu, Hiến Pháp Việt Nam đã ghi chép đầy đủ những nhân quyền và những quyền tự do cơ bản của người dân.

Có hai ngoại lệ là sự độc quyền tư tưởng và độc quyền lãnh đạo của Đảng CS. Những quyền này được định chế hóa bởi một điều luật quái đản là Điều 4 Hiến Pháp. Điều 4 có tác dụng phủ nhận toàn diện và phá vỡ tất cả những định chế hiến pháp dân chủ liên quan tới 26 nhân quyền và những quyền tự do cơ bản của người dân mà nhân loại văn minh đã khổ công xây dựng từ mấy trăm năm nay.

Trên bình diện chính trị đó là quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bình đẳng cơ hội tham gia chính quyền, quyền tự do tuyển cử, tự do phát biểu, tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền thông tin, quyền mít-tinh biểu tình, quyền tự do lập đảng, quyền khiếu nại khiếu tố, và quyền đối kháng là một quyền liên lập và liên quan với quyền tự do lập đảng, tự do tuyển cử và quyền tham gia chính quyền.

Như vậy Điều 4 Hiến Pháp hiển nhiên vi phạm Luật Quốc Tế Nhân Quyền.

Năm 1977 Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc và có nghĩa vụ pháp lý phải tôn trọng, bảo vệ và thực thi những điều khoản nhân quyền trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc (1945), Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (1948) và Phụ Đính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (1998).

Năm 1982 Việt Nam tham gia Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị (Công Ước Dân Sự Chính Trị). Công Ước này đã được Chính Phủ ký kết và Quốc Hội phê chuẩn, nên có giá trị là một hiệp ước quốc tế và có hiệu lực pháp lý cao hơn luật pháp và hiến pháp quốc gia.

Chiếu Điều 2 Công Ước Dân Sự Chính Trị, các quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc tham gia Công Ước cam kết sẽ tôn trọng và bảo đảm thực thi những quyền tự do cơ bản được thừa nhận cho tất cả mọi người sống trong lãnh thổ quốc gia. Trong trường hợp những quyền tự do cơ bản ghi trong Công Ước chưa được quy định thành văn trong hiến pháp và luật pháp quốc gia (như quyền tự do tư tưởng), các quốc gia kết ước có nghĩa vụ phải ban hành các đạo luật bổ túc hay tu chính hiến pháp cho phù hợp với tinh thần và bản văn các điều khoản nhân quyền của Công Ước để các quyền này được thực sự thi hành.

Trong trường hợp quốc gia kết ước không quy định những quyền này trong hiến pháp hay luật pháp quốc gia thì những điều khoản về nhân quyền và về những quyền tự do cơ bản của người dân ghi trong Công Ước Dân Sự Chính Trị (như quyền tự do tư tưởng) vẫn có hiệu lực chấp hành và phải được áp dụng trước các tòa án quốc gia và quốc tế.

Quyền tự do tư tưởng được quy định trong Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (Điều 18), và trong Công Ước Dân Sự Chính Trị (Điều 18). Mặc dầu vậy, Điều 4 Hiến Pháp đã dành cho Đảng CS độc quyền tư tưởng và buộc toàn dân phải theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (nếu quả thật có loại tư tưởng này). Như vậy Điều 4 đi trái với tinh thần và bản văn Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Công Ước Dân Sự Chính Trị.

Về mặt quốc tế công pháp, các Công Ước Quốc Tế như Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và Công Ước Dân Sự Chính Trị là những hiệp ước quốc tế đã được quốc hội phê chuẩn nên có giá trị pháp lý cao hơn luật pháp và hiến pháp quốc gia. Do đó trong trường hợp có điểm mâu thuẫn giữa luật pháp quốc gia và Công Ước Quốc Tế thì tòa án phải tham chiếu và áp dụng những điều khoản của Công Ước Quốc Tế.

Điều 4 Hiến Pháp đi trái với quyền Dân Tộc Tự Quyết là quyền đã được ghi trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc (các Điều 1 và 55), Phụ Đính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (Phần Mở Đầu), Công Ước Dân Sự Chính Trị, và Công Ước Kinh Tế Xã Hội Văn Hóa (Điều Thứ Nhất).

Về mặt quốc nội, Dân Tộc Tự Quyết là quyền của người dân được tự do lựa chọn chế độ chính trị của quốc gia (như quân chủ lập hiến, tự do dân chủ hay xã hội chủ nghĩa), và được quyền tự do ứng cử hay bầu lên các đại biểu của mình trong chính quyền để thực thi chế độ đó. Cũng như Điều 2 Hiến Pháp Việt Nam, Tuyên Ngôn QuốcTế Nhân Quyền khẳng định rằng chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân (chứ không thuộc về Nhà Nước). Điều 21 viết: “ý nguyện của nhân dân là căn bản của quyền lực nhà nước”. Biểu hiện cho quyền dân tộc tự quyết là quyền tự do lập đảng, quyền tham gia lãnh đạo nhà nước, quyền tự do tuyển cử và quyền đối kháng bạo quyền.

Hơn nữa, chiếu Điều 5 Công Ước Dân Sự Chính Trị, tòa án không được giải thích xuyên tạc luật pháp quốc gia hay Công Ước Quốc Tế để cho phép chính phủ hay tòa án làm những hành vi hay tuyên những bản án nhằm phủ nhận hay tước đoạt của người dân những quyền tự do cơ bản đã được luật pháp quốc gia và Công Ước Quốc Tế thừa nhận. Trong hiện vụ đó là những quyền tự do cơ bản như quyền dân tộc tự quyết, quyền tự do tư tưởng, tự do phát biểu, tự do lập hội và lập đảng, tự do tuyển cử, quyền đối kháng và quyền bình đẳng cơ hội tham gia chính quyền.

Hơn nữa, Điều 4 Hiến Pháp còn vi phạm ngay cả Hiến Pháp.

Với chính sách ngụy dân chủ và giả nhân giả nghĩa, Quốc Hội đã quy định trong Hiến Pháp hầu hết các nhân quyền và các quyền tự do cơ bản của người dân, như quyền tự do tôn giáo (Điều 70), quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 52), quyền bình đẳng cơ hội tham gia chính quyền (Điều 53), quyền tự do bầu cử và ứng cử (Điều 54), quyền tự do đi lại và cư trú (Điều 68), quyền tự do phát biểu, tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền thông tin, quyền tự do hội họp, tự do lập hội, quyền biểu tình (Điều 69), quyền được suy đoán là vô tội (Điều 72), quyền khiếu nại, khiếu kiện các cơ quan chính phủ khi có sự lạm quyền phi pháp (Điều 74) v...v...

Như vậy Điều 4 Hiến Pháp đã phản lại Hiến Pháp vì đã đi trái với các điều khoản hiến pháp cơ bản như các Điều 2, 3, 6, 8, 11, 52, 53, 54, 68, 69, 70, 72, 74....

Thật vậy:

Theo Điều 2 Hiến Pháp “Nhà Nước thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, chứ không thuộc về Đảng CS. Điều 21 Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền cũng quy định như vậy: “Ý nguyện của nhân dân là căn bản của quyền lực nhà nước”.

Hiện nay số đảng viên CS chỉ được 2% hay 3% dân số Việt Nam. Và khối đông đảo trên 97% nhân dân Việt Nam không được quyền tham gia vào guồng máy lãnh đạo quốc gia. Đó là một điều bất công, phi lý và phi pháp.

Theo Điều 3 Hiến Pháp “Nhà Nước bảo đảm quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, và nghiêm trị mọi hành động xâm phạm những quyền và lợi ích của nhân dân”. (dầu rằng kẻ xâm phạm chính lại là Đảng CS).

Theo Điều 6 Hiến Pháp “nhân dân sử dụng quyền lực Nhà Nước thông qua Quốc Hội là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Do đó Quốc Hội không thể là sản phẩm và công cụ của Đảng CS. Trên thực tế, bằng gian lận và cưỡng bách, Đảng CS đã dựng lên các quốc hội tay sai trong chính sách “Đảng cử Dân bầu”. Quốc Hội đã ghi chép Điều 4 Hiến Pháp nguyên văn từ Điều 6 Hiến Pháp Liên Xô để giành độc quyền lãnh đạo cho Đảng CS. Đó không phải là ý chí và nguyện vọng của nhân dân Việt Nam.

Hơn nữa Quốc Hội của nhân dân phải sinh hoạt theo nguyên tắc dân chủ pháp trị, chứ không theo nguyên tắc “dân chủ tập trung” phản dân chủ.

Theo Điều 8 Hiến Pháp “các cơ quan nhà nước, cán bộ viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân... (không được) quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng”. Đây chỉ là những mỹ từ để tuyên truyền và du mị nhân dân, “nói vậy mà không phải vậy”.

Theo Điều 11 Hiến Pháp “công dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách tham gia công việc của Nhà Nước”. Muốn thế phải thiết lập chế độ dân chủ pháp trị để Dân được quyền làm chủ Nhà Nước, và bãi bỏ chế độ độc tài đảng trị, bãi bỏ Điều 4 Hiến Pháp theo đó Đảng độc quyền lãnh đạo Nhà Nước và xã hội.

Theo Điều 52 Hiến Pháp “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.” Do đó Nhà Nước không được phân biệt kỳ thị về lập trường và chính kiến giữa các đảng đối lập và đảng cầm quyền, cũng như không được coi những người ngoài Đảng là công dân bậc hai không có quyền ứng cử và không có quyền tham gia chính quyền.

Theo Điều 53 Hiến Pháp “công dân có quyền tham gia quản lý Nhà Nước” bằng cách hành sử quyền tự do lập đảng, tự do tuyển cử và quyền bình đẳng cơ hội tham gia chính quyền là những hình thức của quyền Dân Tộc Tự Quyết.

Theo Điều 54 Hiến Pháp “công dân được quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc Hội”. Do đó Đảng CS không được tước đoạt quyền tự do bầu cử và tự do ứng cử của công dân bằng chính sách “đảng cử dân bầu”.

Theo Điều 69 Hiến Pháp, “công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền thông tin, quyền biểu tình, tự do hội họp và lập hội”, lập hội dân sự như công đoàn độc lập và hội chính trị như các chính đảng.

Những điều khoản hiến pháp cơ bản nói trên tuyên dương quyền Dân Tộc Tự Quyết, quyền lập đảng, quyền đối kháng, quyền bình đẳng cơ hội tham gia chính quyền và quyền tự do tuyển cử của công dân. Vì Nhà Nước thuộc về nhân dân, nên chỉ nhân dân mới có thẩm quyền lãnh đạo và quản lý Nhà Nước, Đảng CS không thể tự ban cho mình quyền này bằng cách ghi Điều 4 vào Hiến Pháp. Như vậy khi dành độc quyền lãnh đạo Nhà Nước cho Đảng CS, Điều 4 đã tước đoạt của nhân dân tất cả những quyền tự do cơ bản như tự do thân thể, tự do tinh thần, tự do chính trị kể cả những quyền dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa.

Vì những lý do nêu trên Điều 4 phải bị hủy bỏ vì nó vi phạm Công Ước Dân Sự Chính Trị Liên Hiệp Quốc dồng thời vi phạm Hiến Pháp Việt Nam. Về mặt chính trị nó đi trái với tinh thần và bản văn của các Điều 2, 3, 6, 8, 11, 52, 53, 54 và 69 Hiến Pháp. Trên thực tế nó đã tiêu hủy tất cả 26 quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của người dân.

Bác Sĩ Lê Nguyên Sang là một thành viên lãnh đạo Đảng Dân Chủ Nhân Dân đối lập với Đảng CS. Ông đã rải hàng ngàn truyền đơn tại Saigon đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến Pháp. Mục đích để phục hồi cho người dân những nhân quyền và những quyền tự do cơ bản ghi trong Hiến Pháp và Công Ước Dân Sự Chính Trị mà Việt Nam đã ký kết tham gia. Hành động này được bảo vệ bởi Điều 69 Hiến Pháp quy định quyền tự do lập hội, tự do phát biểu. Nó không cấu thành tội hình sự nào. Cũng vì vậy bị cáo không nhận tội. Trong trường hợp này Đài Á Châu Tự Do phải yêu cầu Tòa Phúc Thẩm Saigon hủy án sơ thẩm thay vì chỉ xin giảm án. Vì xin giảm án có nghĩa là nhận tội, chỉ xin tòa khoan hồng. Mà nếu bị cáo nhận tội, Tòa án có quyền tự hào đã truy tố bị cáo đúng luật về tội tuyên truyền chống Nhà Nước. Việc này đi trái luật pháp, trái với lập trường và lời khai của Bác Sĩ Lê Nguyên Sang.

Những người có kinh nghiệm cộng sản không bao giờ dám tin vào lời hứa hẹn, cam kết hay “thiện chí” của người cộng sản.

Và mặc dầu Chính Phủ Hoa Kỳ không chủ trương can dự vào việc xét xử của tòa án, trong vụ này, Đảng CS vẫn có thể giảo hoạt tuyên truyền xuyên tạc như sau: “Do lời thỉnh cầu của người phát ngôn tại Hoa Thịnh Đốn, Tòa Phúc Thẩm Saigon đã kéo dài phiên xử thêm mấy tiếng đồng hồ để cho các luật sư biện hộ có đủ thời gian tự do tranh luận trước tòa. Thể theo lời yêu cầu giảm án của cơ quan truyền thanh Hoa Kỳ, Tòa Phúc Thẩm đã khoan hồng miễn cho bị cáo 1 năm thụ hình. Hành vi này biểu hiện tinh thần hợp tác và hòa giải giữa hai nước. Dư luận thế giới sẽ hài lòng công nhận rằng tại Việt Nam ngày nay đã có những chỉ dấu báo hiệu một nền công lý dân chủ đang ra đời v...v... và v...v...”

Trong hiện vụ, trước Tòa Phúc Thẩm, Bác Sĩ Lê Nguyên Sang bị kết án 4 năm tù thay vì 5 năm, và tỷ lệ giảm án là 20%. Điều này không làm vừa lòng một ai.

Hơn nữa tỷ lệ giảm án 20% thật quá khiêm tốn. Đó chỉ là giảm án chiếu lệ cho vừa lòng người thỉnh nguyện. Năm 1993, Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt bị kết án 20 năm tù về tội (cưỡng ép) phản nghịch (hành động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân). Sau khi kháng cáo, hình phạt tù đã giảm xuống còn 15 năm, và tỷ lệ giảm án là 25%. Năm 2003, Ký Giả Nguyễn Vũ Bình bị tòa sơ thẩm kết án 12 năm tù về tội (lố bịch) gián điệp. Trong vụ kháng cáo, tòa phúc thẩm đã giảm án xuống còn 7 năm, và tỷ lệ giảm án là hơn 40%.

Về mặt thụ hình, trong các dịch vụ trao đổi với Hoa Kỳ và các cường quốc Tây Phương, nhà cầm quyền Hà Nội thường ký lệnh đặc xá các tù nhân lương tâm. Đầu thập niên 1990, trong những năm 1991, 1992 và 1993 Tòa Án Saigon đã tuyên nhiều hình phạt rất nặng, tới 20 năm tù đối với Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế và Phi Công Lý Tống, và 15 năm tù đối với Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt. Vậy mà năm 1998, dưới áp lực quốc tế, cả ba người cùng được trả tự do một ngày. Và tỷ lệ giảm thụ hình là từ 50, 60 tới 70%.

Do đó sự giảm án 20% cho Bác Sĩ Sang không có gì đáng khích lệ. Đó chỉ là một cử chỉ ngoại giao hay một thủ đoạn chính trị nhằm lợi dụng thời cơ.

Cùng đứng trong chiến tuyến những người quốc gia theo chủ nghĩa dân tộc, ngưới viết biết rõ vị luật sư phụ trách Trung Tâm Việt Nam về Nhân Quyền có lập trường dứt khoát chống độc tài bằng mọi giá.

Trong bài trao đổi quan điểm với Đài Á Châu Tự Do, ông đã lên án “pháp luật của chế độ XHCN nhằm bảo vệ độc tài đảng trị. Nhà Nước XHCN đã tự nguyện cam kết áp dụng Luật Quốc Tế Nhân Quyền ở Việt Nam từ đầu thập niên 80, nhưng đến nay cứ lần lữa không chịu áp dụng. Vì vậy dân chúng ở trong nước đủ mọi tầng lớp đã đứng lên đòi áp dụng, người Việt ở hải ngoại đồng thanh với dư luận quốc tế làm áp lực buộc nhà cầm quyền Hà Nội phải đưa luật quốc tế về nhân quyền vào luật quốc nội. Bác Sĩ Sang kháng cáo là để đòi được hưởng nền công lý dân chủ trên cơ sở luật quốc tế về nhân quyền mà nhà cầm quyền Hà Nội đã gạt bỏ để thay thế bằng nền công lý của độc tài phi nhân quyền. Xét vấn đề dưới góc cạnh tội phạm chính trị thì Bác Sĩ Sang không thể bị ghép vào tội chống nhà nước được”.

Trong phần kết luận, ông khuyến cáo nhà cầm quyền Hà Nội “nếu chưa thể thay thế được cả hệ thống pháp luật độc tài thì hãy thôi áp dụng pháp luật lỗi thời ấy để đừng đàn áp dân chủ nữa. Đã đến lúc nhà cầm quyền Hà Nội không nên cố thủ trong ngõ cụt pháp lý. Hiến pháp vừa công nhận dân chủ vừa mở đường cho luật pháp thực định triệt tiêu dân chủ. Phải có hành động đột phá tìm xuất lộ triển hóa dân chủ. Đây chẳng qua chỉ là việc gia nhập dòng biến chuyển không thể cưỡng của thời đại”...

Dầu sao, rất có thể với sức lôi cuốn của lời nói, các ngôn từ phát thanh của diễn giả đôi khi không chính xác và không phản ảnh trung thực ý nghĩ và tư tưởng của người phát ngôn.

Thay vì nói có hai nền công lý và hai thứ luật nhân quyền, diễn giả có thể nói có hai thứ pháp quyền, một là hệ thống luật pháp tòa án trong chế độ Dân Chủ Pháp Trị để thực thi Nhân Quyền và ban phát Công Lý cho người dân, và một hệ thống luật pháp tòa án trong chế độ Độc Tài Toàn Trị của Đảng CS. Và thứ pháp quyền sau này không đem lại công lý cho người dân. Kinh nghiệm cho biết không thể có “công lý của độc tài”. Vì hễ có độc tài là có bất công, có bất công thì không còn công lý. Công lý độc tài là thứ công lý chính trị hóa. Nếu chính trị đi vào pháp đình thì công lý phải ra đi. Cho nên không thể có công lý độc tài hay công lý của độc tài. Thực chất nó không phải là công lý mà là bất công, dùng bạo lực của luật rừng xanh và tòa án của loài đại thử (kangaroo) để tuyên những bản án bất công phi pháp. Nhiệm vụ của nó là chấp hành chỉ thị của Đảng CS trong việc đàn áp khủng bố những công dân lương thiện có lòng với đất nước và có dũng cảm đứng lên đấu tranh đòi Dân Chủ, Công Lý và Nhân Quyền.

Trong thời gian vừa qua, kể từ tháng 11-2006, sau Hội Nghị Kinh Tế Á Châu Thái Bình Dương, trước sự tăng gia hoạt động của các chiến sĩ dân chủ ở trong nước, Đảng CS đã bắt giữ, truy tố và kết án hơn 20 người đối kháng. Trong vòng 45 ngày, từ 30-3-2007 đến 15-5-2007, các Tòa Án Huế, Đồng Tháp, Saigon và Hà Nội đã tuyên phạt 15 tù nhân lương tâm 66 năm tù về những tội bịa đặt giả tạo như tuyên truyền chống nhà nước và phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia. Trong đợt khủng bố này có 7 Luật Sư bị bắt giữ, truy tố hay kết án là Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Trần Quốc Hiền, Nguyễn Bắc Truyển, Lê Quốc Quân, Trần Thị Thuỳ Trang và Bùi Thị Kim Thành.

Song hành với Tòa Án công cụ, Công An vũ phu đã xua đuổi và bắt hốt hàng ngàn dân oan thuộc các thành phần nông dân nghèo khổ tại hai miền Nam, Bắc đứng lên đòi Quyền Sống và Tài Sản, đòi Công Lý và Công Bằng.

Đợt đàn áp khủng bố đại quy mô này đạt tới mức cao điểm chưa từng thấy từ đầu thập niên 1990 khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ. Nó hiển nhiên không phải là chỉ dấu báo hiệu một nền công lý dân chủ đang hình thành tại Việt Nam.

Do đó vấn đề Chính Danh phải được đặt ra.

Có Chính Danh mới có Chính Nghĩa. Người xưa nói :”Danh có chính thì ngôn mới thuận, ngôn có thuận thì việc mới thành.”

Quan niệm Chính Danh do các nhà hiền triết Đông Phương đề xướng từ 2500 năm để phân biệt trắng đen, phải trái, chính tà và thiện ác. Ngày nay, hơn bao giờ hết, nó có tính thời sự. Vì với chính sách tuyên truyền dối trá và giả nhân giả nghĩa, Cộng Sản nói một đàng làm một nẻo. Nói Dân Chủ, làm độc tài. Nói Công Lý, làm bất công. Nói Nhân Quyền, viết Sách Trắng về Nhân Quyền, lại khinh miệt, phủ nhận và chà đạp nhân quyền. Nói tự do tuyển cử lại tổ chức bầu cử gian lận bằng cấm đoán và cưỡng ép để có một quốc hội Dân bầu Đảng cử. Đàn áp khủng bố lại nói là để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng. Lạm quyền, tham nhũng, bóc lột và tước đoạt ruộng đất của nông dân lại nói là để phát triển kinh tế, xây dựng xã hội v... v...

Trong thời vàng thau lẫn lộn, quan niệm Chính Danh phải được triệt để tôn trọng để phủ nhận cái gọi là “ dân chủ tập trung”, “pháp quyền XHCN”, “công lý độc tài” hay “nhân quyền cộng sản”. Vì nếu độc tài cộng sản cũng có dân chủ, công lý và nhân quyền thì chúng ta không có lý do gì để đứng lên tố cáo, đòi thay thế và giải thể chế độ CS hầu đem lại tự do dân chủ và công bằng xã hội cho người dân.

Do đó chúng ta phải phân biệt giữa Dân Chủ Pháp Trị và Độc Tài Đảng Trị, giữa Công Lý và Bất Công (hay thứ công lý giả hiệu mệnh danh là “công lý độc tài”). Cũng trong chiều hướng đó chúng ta chỉ chấp nhận một loại Nhân Quyền theo tinh thần và bản văn của Luật Quốc Tế Nhân Quyền, và bác bỏ thứ “nhân quyền cộng sản” trong Sách Trắng về Nhân Quyền.

Đặc tính của nhân quyền được khai triển trong Phụ Đính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền do Liên Hiệp Quốc công bố năm 1998 nhân dịp kỷ niệm 50 năm ban hành Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (1948).

Phần Mở Đầu Tuyên Ngôn Phụ Đính viết:

“Cần nhắc lại rằng nhân quyền và những quyền tự do cơ bản có tính toàn cầu, bất khả phân, liên lập và liên quan với nhau, nên phải được đề xướng và thực thi công bằng và đồng đều, sự thực thi quyền này không gây trở ngại cho sự thực hiện quyền kia.

Nhấn mạnh rằng Nhà Nước có trách nhiệm tiên khởi và có nghĩa vụ phải đề xướng và bảo vệ nhân quyền và những quyền tự do cơ bản”.

Những quyền này được ghi trong Luật Quốc Tế Nhân Quyền như Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Tuyên Ngôn Phụ Đính, cũng như trong Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị, và Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Kinh Tế Xã Hội và Văn Hóa. Căn cứ vào tinh thần và bản văn Luật Quốc Tế Nhân Quyền (International Bill of Human Rights), tất cả các quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc, đặc biệt là các quốc gia đã ký kết tham gia Công Ước Dân Sự Chính Trị, chỉ có thể chấp nhận một loại nhân quyền duy nhất áp dụng trên toàn cầu cho tất cả mọi người.

Trong hiện vụ, muốn đòi Công Lý và Nhân Quyền, chúng ta phải khẳng định rằng Bác Sĩ Sang không phạm tội hình sự nào dầu là tội chính trị hay tội thường phạm. Ông chỉ hành sử hợp pháp quyền tự do phát biểu và tự do lập đảng là những quyền đã được thừa nhận trong Hiến Pháp Việt Nam và Công Ước Dân Sự Chính Trị.

Về mặt thủ tục pháp lý, chúng ta không thể đòi hỏi tòa án phải xét xử những vụ án chính trị khác với những vụ thường phạm. Tại các nước dân chủ văn minh những tội chính trị (như phản nghịch) vẫn được xét xử như những tội thường phạm (như cố sát). Cũng vẫn do tòa đại hình đó, theo luật hình đó, và theo thủ tục tố tụng đó. Chỉ có một trường hợp đặc biệt là, chiếu Công Ước Nhân Quyền của các Quốc Gia Châu Mỹ (American Convention on Human Rights), các tù nhân chính trị không thể bị kết án tử hình tại các quốc gia hội viên chưa bãi bỏ hình phạt tử hình. Cho đến nay trong hệ thống tổ chức tư pháp quốc gia, chỉ có những loại tòa án dành riêng cho thiếu nhi hay quân nhân, chứ không có tòa án dành cho các tội chính trị. Các tù nhân chính trị như Nguyễn Đan Quế, Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Đình Huy (bị truy tố về tội phản nghịch), hay Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình (bị truy tố về tội gián điệp) đều bị xét xử tại các tòa án đại hình áp dụng luật hình sự và luật tố tụng hình sự chung cho tất cả các loại tội trạng.

Sự phân biệt giữa tội chính trị và tội thường phạm chỉ được nêu ra trước các Tòa Án Dẫn Độ Quốc Tế (Extradition Court). Mới đây, ngày 2-4-2007, Tòa Phúc Thẩm Bangkok đã tuyên phán quyết hủy bản án Tòa Sơ Thẩm truyền dẫn độ Lý Tống về Việt Nam. Trong một phúc quyết ngắn gọn, Tòa Phúc Thẩm tuyên phán rằng việc Lý Tống rải truyền đơn chống chính phủ trên không phận Saigon là một hành động chính trị, và tội trạng, nếu có , chỉ có thể là một tội chính trị không được dẫn độ. Theo quốc tế công pháp các chính phủ không thể đòi dẫn độ các bị cáo nhằm mục đích đàn áp đối lập chính trị.

Theo Hình Luật Việt Nam, các tội chính trị là những tội nghiêm trọng nhất mệnh danh là “đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia” như phản quốc, phản nghịch và gián điệp với hình phạt đến tử hình.

Vả lại tòa án Việt Nam không công nhận có các tội chính trị và cũng không công nhận có các tù nhân chính trị.

Năm 1990 Bác sĩ Nguyễn Đan Quế bị bắt giữ và kết án 20 năm tù về tội phản nghịch sau khi phổ biến Lời Kêu Gọi của Cao Trào Nhân Bản đòi hủy bỏ chế độ độc quyền lãnh đạo của Đảng CS để thực thi quyền dân tộc tự quyết.

Cuối năm 1991 Hội Ân Xá Quốc Tế đệ đơn trước Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc khiếu nại Chính Phủ Hà Nội đã giam giữ trái phép Bác Sĩ Quế.

Để trả lời đơn khiếu nại, Chính Phủ Hà Nội đã đệ nạp vào hồ sơ bản biện minh với phần chủ văn như sau: “Tòa Án Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Minh đã phạt Quế 20 năm tù vì đã có hành động nhằm lật đổ chính phủ. Ông ta không phải là tù nhân chính trị mà cũng không bị giam giữ trái phép”.

Theo lời yêu cầu của Hội Ân Xá Quốc Tế, và nhân danh Hội Luật Gia Việt Nam tại California, ngày 10-10-1992, người viết đã đệ trình bản Biện Minh Trạng phúc đáp để bác khước lập luận của nhà cầm quyền Hà Nội. Và ngày 30-4-1993, Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, qua Khối Công Tác về Giam Giữ Độc Đoán, đã tuyên Nghị Quyết lên án sự bắt giam Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế là độc đoán. Với Nghị Quyết này, Liên Hiệp Quốc xác nhận rằng hành động của Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế không cấu thành một tội hình sự nào, dầu là tội chính trị hay tội thường phạm.

Trong vụ án Bác Sĩ Lê Nguyên Sang, một tòa án độc lập và công minh cũng sẽ tuyên phán theo chiều hướng bản Nghị Quyết ngày 30-4-1993 của Ủy Ban Nhân Quyền LHQ về vụ Hội Ân Xá Quốc Tế khiếu nại Nhà Nước CHXHCN Việt Nam đã bắt giam độc đoán Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế.

Và như vậy là Công Lý.
Ls. Nguyễn Hữu Thống
(27-08-2007)

Thư của một người Việt Nam, gởi ông Michael Michalak tân Ðại sứ Mỹ tại Việt Nam

Kính thưa ông Đại Sứ

Nhân dịp ông đại diện cho chính phủ Hoa Kỳ đến đất nước Việt Nam chúng tôi trong vai trò đại sứ, nhân danh cá nhân và trên 80 triệu công dân Việt Nam xin gởi đến ông những ước mơ cùng nguyện vọng của dân tộc tôi. Xin kính chúc cho ông luôn luôn dồi dào sức khỏe.

Chúng tôi được biết rằng trước khi đến Việt Nam, ông đã từng gặp gỡ các nhà đấu tranh dân chủ ở Hoa Kỳ, ông cũng có hứa là sẽ thường xuyên gặp gỡ các nhà bất đồng chính kiến đang đấu tranh ôn hòa trong nước. Chúng tôi hy vọng với sự giúp đỡ nhiệt tình của ông cùng với những ảnh hưởng liên kết không thể thiếu được giữa đất nước Việt Nam và Hoa Kỳ thì trong một tương lai không xa, nhân quyền trong đó mọi quyền tự do căn bản của con người sẽ được thực thi đúng mức ở đất nước chúng tôi đúng như những gì mà ĐCSVN đã từng cam kết thi hành trước Liên Hiệp Quốc và các công ước quốc tế. Đây cũng là ước mơ chung không những cho toàn dân Việt Nam trong nước mà còn cho hơn 3 triệu đồng bào Việt Nam ở nước ngoài, trong đó đông nhất là ở Hoa kỳ.

Với truyền thống đầy lòng nhân ái và tinh thần bao dung rộng lượng của tổ tiên chúng tôi để lại, toàn dân tộc chúng tôi sẵn sàng quên đi quá khứ mà chính quyền CSVN đã gây ra với những cảnh tượng kinh hoàng và đen tối nhất trong lịch sử VN. Thật vậy, vào những năm 1954-1956, ĐCSVN đã tiến hành cuộc cải cách ruộng đất với những cảnh thanh trừng đẫm máu các thành phần không cùng quan điểm với đảng đã khiến cho hơn 300 ngàn người dân vô tội phải bị giết oan và tiếp theo những năm sau đó lại thêm cuộc thanh trừng đối với các văn nghệ sĩ qua phong trào nhân văn giai phẩm, tội ác tàn bạo này lại được ĐCSVN lập lại vào dịp tết Mậu Thân năm 1968 tại cố đô Huế với những mồ chôn tập thể được bỏ lại khi rút lui vì sự quyết tâm tái chiếm lại Huế của Quân Lực VNCH.

Nhân dân Việt Nam thật là vô phước khi phải chịu sống trong những hoàn cảnh đau thương này. Trước năm 1975 Hoa kỳ đã đến đất nước chúng tôi để cùng với nhân dân miền Nam chúng tôi chiến đấu bảo vệ nền tự do dân chủ trước sự xâm lăng của chủ nghiã Cộng sản đầy tham vọng với mục tiêu thế giới đại đồng, nhưng rồi cũng vì quyền lợi riêng mà Hoa Kỳ đã bỏ rơi miền Nam VN để cho CS chiếm, khiến cho sự hy sinh của trên 58 ngàn quân nhân Mỹ trên đất nước VN đã không tròn nguyện ước. Chính vì sự quay lưng của chính phủ Hoa Kỳ lúc đó mà ĐCSVN đã thống nhất đất nước theo con đường cộng sản. Với nền tự do dân chủ và cuộc sống sung túc của nhân dân miền Nam VN đã không thay đổi được tư duy của hàng lãnh đạo CSVN. Sau bao cuộc thanh trừng từ việc đánh tư sản, phân chia ruộng đất cho đến việc đầy đọa tàn bạo dưới hình thức tập trung cải tạo hầu hết quân nhân, cán chính của VNCH, tập trung dân thành thị vào những vùng đồng khô cỏ cháy được mệnh danh là khu kinh tế mới…v.v… khiến cho cuộc sống của nhân dân miền Nam phải chịu chung cảnh khổ mà nhân dân miền Bắc thân yêu đã chịu đựng trong suốt 30 năm dài dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN. Đây là hệ qủa tất yếu khiến cho hơn 3 triệu người Việt Nam giờ đây phải chấp nhận cuộc sống tha hương trên khắp thế giới trong đó cũng có hàng trăm ngàn người phải bỏ mình nơi biển cả, nhưng với sự văn minh vượt bực của nền dân chủ đa nguyên trên thế giới cũng như với sự thành công của các kiều bào Việt Nam ở hải ngoại, cùng với sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa CS ở Liên Sô và cả khối Đông Âu đã khiến cho ĐCSVN bắt buộc phải chấp nhận nền kinh tế thị trường của tư bản.

Tuy nhiên, cũng vì tham vọng quyền lực và sự giàu có bất minh mà các nhà lãnh đạo CSVN không dám mở rộng con đường cạnh tranh về chính trị, bởi vì họ biết rằng nếu cho các thành phần không cùng quan điểm được tự do chỉ trích những sai trái của chính quyền cũng như cho phép báo chí tư nhân hoạt động theo như những gì mà ĐCSVN đã từng cam kết thì không bao giờ người dân chấp nhận sự cai trị suốt đời của đảng cả, và trên 600 tờ báo quốc doanh sẽ không bao giờ tồn tại. Vì thế cho nên ĐCSVN đã lừa dối cả thế giới bằng những luận điệu tuyền truyền có hệ thống từ trong nước cho đến quốc tế.

Nhân dân Việt Nam cũng không hiểu vì sao Hiệp định đình chiến Paris ngày 27/01/1973 quy định tổng tuyển cử để cho nhân dân chọn lựa thành phần lãnh đạo đất nước có sự tham gia và bảo đảm của các cường quốc trong Hội đồng Bảo an LHQ, nhưng khi ĐCSVN xé bỏ hiệp định để dùng quân sự với sự tiếp sức tối đa của Liên Sô và Trung Quốc đánh chiếm miền Nam trong lúc có sự hiện diện của Ủy ban Kiểm soát đình chiến, thế nhưng LHQ và các cường quốc đã ký tên trong hiệp định đều lặng thinh trước hành động vi phạm này của CS.

Nhân dân VN cũng nhận thấy rằng chính quyền CSVN đã từng tham gia cam kết thi hành các công ước quốc tế như: Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 của LHQ được thừa nhận trên toàn thế giới và Công ước Quốc tế quy định về quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 ..vv.. tất cả cũng đều khẳng định là quyền tự do ngôn luận, quyền quảng bá ý kiến và tin tức qua mọi phương tiện truyền thông và qua mọi biên giới, cũng như mọi người đều có quyền giữ vững quan điểm của mình mà không bị ai can thiêp. Tại Việt Nam những quyền tự do căn bản đó cũng được ghi trong điều 69 của Hiến pháp năm 1992. Nhưng trên thực tế không bao giờ được nhà nước CSVN tôn trọng và thi hành, những ai không cùng quan điểm vơí đường lối cai trị độc tài của đảng mà dám công khai nói lên tiếng nói lương tri của con người dù là một cách ôn hòa, đều bị ĐCSVN liệt vào thành phần tuyên truyền chống phá nhà nước theo điều 88 Bộ luật Hình sự, một điều khoản đi ngược lại điều 69 của chính Hiến pháp do ĐCSVN đề ra, nó cũng hoàn toàn không phù hợp với Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và các Công ước Quốc tế quy định về quyền Dân sự và Chính trị, mà Việt Nam là một thành viên đã từng cam kết thi hành.

Điển hình trong thời gian vừa qua chính quyền CSVN đã thẳng tay đàn áp thô bạo và bắt giam gần hết các nhà đấu tranh tự do dân chủ một cách ôn hòa như LS Nguyễn Văn Đài, LS Lê Thị Công Nhân, LS Nguyễn Bắc Truyền, BS Lê Nguyên Sang, Ký giả Huỳnh Nguyên Đạo, Ký giả Trương Minh Đức, nhà văn Trần Khải Thanh Thuỷ, chuyên viên Nguyễn Phong, các công nhân Nguyễn Huy Chương, Nguyễn Tấn Hoành, cựu chiến binh Lê Trí Tuệ, LS Nguyễn Thị Thùy Trang, Lê Thị Bích Hằng, dân oan Hồ Thị Bích Khương, Ngô Lướt .

Nghiêm trọng và trắng trợn hơn, xem thường dư luận nhất là phiên tòa bịt miệng LM Nguyễn Văn Lý với hình ảnh đã được lan truyền khắp thế giới. Hiện nay số người bị CSVN bắt giam về tội tuyền truyền chống nhà nước không sao biết hết được. Ngoài ra, số người mà trong thời gian qua vì áp lực quốc tế buộc CSVN phải thả ra như nhà báo Nguyễn Vũ Bình, BS Phạm Hồng Sơn, LS Lê Quốc Quân, nhà báo Nguyễn Khắc Tòan….v.v…đã cùng với những người khác như GS Hoàng Minh Chính, GS Trần Khuê, TS Nguyễn Thanh Giang, ông Lê Hồng Hà, giáo viên Dương Thị Xuân, kỹ sư Đỗ Nam Hải, nhà văn Nguyễn Xuân Nghiã, Trung tá Trần Anh Kim…v.v… (còn rất nhiều mà chúng tôi không nhớ hết) hàng ngày chịu cảnh quản chế, bị trù dập và công an theo dõi gắt gao cả ngày lẫn đêm, công ăn việc làm đều bị cắt bỏ hòan toàn. Tháng 11 năm 2006 VN đăng cai tổ chức Hội nghị APEC và khi Tổng thống Mỹ cùng các nhà lãnh đạo của các nước phát triển trên thế giới có mặt tại VN, thì tất cả các nhà bất đồng chính kiến với đảng CS đều bị công an cô lập không cho tiếp xúc với bên ngoài, tư gia của họ được công an đặt chốt canh gác ngày đêm.

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kể từ năm 1981 là năm mà ĐCSVN thành lập Giáo Hội quốc doanh thì tất cả những cơ sở tài sản của GHPGVNTN đều bị tịch thu cho đến ngày nay, chùa chiền của GHPGVNTN thì thường xuyên bị chính quyền sách nhiễu, hăm dọa khiến cho tín đồ không dám vào chùa để hành đạo, nhị vị hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ thì bị quản chế thường xuyên không biết đến bao giờ mới hết, thiền viện nơi 2 Ngài an trụ thì được công an canh gác ngày đêm, các nhà sư và chùa chiền, tự viện của GHPGVNTN trên toàn quốc cũng đều có chung hoàn cảnh. Chỉ có các chùa chiền, tự viện và các nhà sư quốc doanh được chính quyền công nhận và quản lý dưới sự kiểm soát của ban tôn giáo và Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc thì mới được tự do hành đạo, tín đồ các tôn giáo chỉ được tự do hành lễ ở những nơi đã được chính quyền quản lý và cho phép.

Tôn giáo Tin lành hệ Mennonite ở Tây nguyên vẫn thường xuyên bị công an đàn áp ngày đêm khiến cho một số tín đồ chịu không nổi đành phải tìm đường lánh nạn sang Campuchia. Một sự thật qúa rõ ràng như thế nhưng không hiểu sao chính quyền CSVN lại được chính phủ Hoa kỳ cho hưởng quy chế PNTR và bỏ tên trong danh sách các quốc gia cần đặc biệt quan tâm CPC vv…, bởi vậy cho nên sau khi ĐCSVN được toại nguyện rồi thì họ với bản chất sẵn có lại gia tăng những cuộc đàn áp dã man chưa từng có trong thời gian hơn 20 năm qua, chiến dịch vừa đánh vừa đàm của CSVN vẫn còn hiệu qủa và lời nói của cố Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: “Ðừng tin những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm” vẫn mãi mãi là chân lý cho những ai còn tin vào những lời hứa của các nhà lãnh đạo đảng CSVN.

Thưa ông Đại sứ,

Chúng tôi còn nhớ lời nói của TT Bush tại Spokane trước khi đến VN tham dự hội nghị APEC đại ý là: Việt Nam muốn vào WTO thì phải chấp nhận cuộc chơi. Cuộc chơi của WTO là bắt buộc mọi thành viên phải chấp nhận có sự cạnh tranh lành mạnh từ kinh tế lẫn chính trị, nghĩa là phải chấp nhận đa nguyên trong mọi thành phần của xã hội. Nhưng một thực tế qúa phũ phàng là chính quyền CSVN chỉ chấp nhận kinh tế đa thành phần (bởi vì đa số người giàu có bây giờ là chính những cán bộ cao cấp hoặc con cái, thân nhân, dòng họ của những cán bộ chức quyền), còn về chính trị thì ĐCSVN không bao giờ cho bất cứ ai cạnh tranh cả.

Điều 4 Hiến pháp quy định ĐCSVN là thành phần duy nhất lãnh đạo đất nước là sai và không phù hợp cho một thành viên LHQ và WTO, ngay cả sự trao đổi về văn hóa và thương mại CSVN cũng vẫn không tôn trọng quy luật của WTO bởi vì thử nhìn lại xem báo chí và văn hóa phẩm của CSVN tràn ngập thế giới nhất là ở Hoa kỳ, Canada, Australia …, còn báo chí và văn hóa phẩm của người Việt hải ngoại thì không bao giờ có mặt tại Việt Nam. Trên đây chỉ là một phần nhỏ trong chuỗi dài mà ĐCSVN đang áp dụng để lừa gạt nhân dân trong nước và quốc tế, chúng tôi vì trình độ qúa giới hạn cho nên không thể trình bày hết được.

Tuy nhiên, cũng vì tôn trọng sự công bằng và lẽ phải cho nên chúng tôi rất mong ông với tư cách là đại sứ một nước lớn như Hoa Kỳ tại Việt Nam, xin ông hãy vì lương tâm mà bênh vực cho nhân dân VN có quyền làm người, được sống trong nền tự do dân chủ mà các dân tộc khác trên thế giới đang hưởng mặc dù đã qúa muộn. Ước nguyện của nhân dân VN là .

1/ Được tự do chọn lựa người lãnh đạo đất nước theo đúng tinh thần của hiến chương LHQ
2/ Được quyền gia nhập cũng như thành lập các hội đoàn độc lập với chính quyền, được quyền bày tỏ chính kiến của mình mà không bị trù dập hoặc bị trả thù
3/ Bất cứ ai nếu có đủ quyền công dân cũng đều được tự do ứng cử chớ không phải đảng cử như hiện nay, được tự do bầu cử chớ không phải bị đi bầu theo chỉ định của đảng như hiện nay
4/ Phải có báo chí tư nhân độc lập với chính quyền để người dân được tự do tiếp thu những luồng thông tin đa chiều.
5/ Phải để cho người dân chúng tôi được phê phán và giám sát chính quyền hầu tránh tình trạng chính quyền độc taì, tham nhũng thối nát như hiện nay…v.v…

Chúng tôi nhận thấy rằng: Những ước mơ mà chúng tôi đang phấn đấu đó chỉ là những quyền lợi qúa tầm thường mà nhân dân các nước tiên tiến trên thế giới đã và đang thừa hưởng, chúng tôi tin tưởng rằng chính nghĩa bao giờ cũng thắng bạo tàn phi nghĩa. Nếu đất nước VN chúng tôi có được nền tự do dân chủ như hằng mong đợi thì sự hy sinh của trên 58 ngàn quân nhân Hoa kỳ trên đất nước chúng tôi sẽ rất xứng đáng trên bầu trời tự do của nhân loại. Lịch sử Việt Nam và nhân dân Việt Nam sẽ không bao giờ quên ơn quý vị.

Chúng tôi xin đại diện cho 85 triệu con người Việt Nam yêu chuộng tự do và công bằng xin kính chúc ông và gia đình ông luôn luôn tràn đầy hạnh phúc.

Việt Nam, ngày 27/08/2007
Hoàng Trung Việt

Thông Báo Khẩn Cấp: Biểu tình chống Nguyễn Tấn Dũng xuất hiện tại Liên Hiệp Quốc

THÔNG BÁO KHẨN CẤP

Ủy Ban Phối Hợp Đấu Tranh của Cộng Đồng Hải Ngoại,
đặc trách biểu tình chống Nguyễn Tấn Dũng
xuất hiện tại Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc
trong tuần lễ từ 18 đến 28 tháng 9, 2007

2424 Gunter Avenue - Bronx - N.Y. 10469
Tel. (646) 920-0209 Email: nguyenvantanh718@yahoo.com
Tel. (610) 914-2126 Email: nguoivietquocgia@aol.com
Tel. (917) 952-6396 Email: lachongmagazine@comcast.netm

Kính gửi

- Quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo.
- Quý cơ quan truyền thông người Việt tự do.
- Quý vị đại diện các đoàn thể đấu tranh, chính đảng, cộng đồng, hội đoàn và phong trào.
- Quý đồng huơng tỵ nạn Cộng Sản tại Hoa Kỳ và hải ngọai


Kính thưa quý vị:

Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng CSVN sẽ có mặt tại trụ sở Liên Hiệp Quốc, New York, Hoa Kỳ trung tuần tháng 9 nhân khai mạc khóa họp thường niên của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Tại đây Nguyễn Tấn Dũng sẽ đọc bài diễn văn, đồng thời vận động để CSVN trở thành hội viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An

Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại không thể để tập đoàn độc tài toàn trị CSVN tiếp tục lừa gạt dư luận thế giới, tiếp tục đàn áp, bóc lột nhân dân VN, vi phạm trầm trọng và có hệ thống bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, cũng như Công Ước Quốc Tế về Quyền Dân Sự và Chính Ttrị mà chính chúng đã ký và cam kết tôn trọng.

Ủy Ban Phối Hợp Đấu Tranh kêu gọi các Cộng Đồng, các Tổ Chức Đấu Tranh, các Chính Đảng Quốc Gia tại Hoa Kỳ cũng như trên toàn thế giới về New York để cùng tham dự TUẦN LỄ ĐẤU TRANH từ ngày 20 đến 27 tháng 09 năm 2007 gồm:

- Biểu tình liên tục trước trụ sở Liên Hiệp Quốc tố cáo tội ác của CSVN trước công luận thế giới, đồng thời lên tiếng hỗ trợ cuộc đấu tranh của đồng bào quốc nội.

- Thành lập phái đoàn tiếp xúc phái bộ ngoại giao các nước yêu cầu họ không ủng hộ bọn tội phạm CSVN vào Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.

- Thảo luận việc thanh lập Ủy Ban Phối Hợp Chung hỗ trợ cuộc đấu tranh của đồng bào quốc nội đang một ngày một dâng cao.

Ban Tổ Chức đã được sự giúp đỡ của Tỷ Phú Trần Đình Trường cho Quý Vị từ xa về có nơi nghỉ ngơi tại khách sạn Carter.

Tuy nhiên việc tổ chức cũng cần tài chánh để điều hành, thuê mướn phòng sở sinh hoạt, ẩm thực, cờ, biểu ngữ, poster do đó chúng tôi xin quý vị ủng hộ và kêu gọi đồng hương không thể về tham dự đóng góp tài chánh. Ngân phiếu đề trả cho NYVACA (với chú thích "yểm trợ biểu tình Ng Tấn Dũng") và gửi về P.O. Box 520534, Flushing, NY 11352 hoặc địa chỉ ghi phía trên

Vì tính chất khẩn cấp và quan trọng, kinh xin Quý Vị cố gắng về tham dự đông đủ.

Các hoạt động của chúng ta được tạm đề nghị như sau. Tuy nhiên vì lịch trình của Nguyễn Tấn Dũng có thể thay đổi từng ngày, nên hoạt động của chúng ta sẽ được hoạch định theo cho phù hợp.

Chúng tôi sẽ thông báo quý vị mỗi khi có thay đổi

- Ngày 20 và 22 tháng 9, từ 10 giờ sáng tập họp trước trụ sở Liên Hiệp Quốc: Cầu nguyện cho đồng bào quốc nội mau thoát ách Cộng Sản Hà Nội tham tàn; đánh động dư luận quốc tế và lương tri nhân loại về nỗi đau thương trầm thống của tổ quốc và quê hương hiện nay; đạo đạt thỉnh nguyện thư đòi tự do tôn giáo, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam đến Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc cũng như đại diện chính phủ các quốc gia: Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Anh, Nhật, Ý, Bỉ, Hòa Lan v.v.

- Chủ nhật 23 tháng 9, từ 10 giờ sáng: Tham dự Hội Nghị người Việt quốc gia hải ngoại để cùng tìm những phương thức đấu tranh hữu hiệu, hầu thích ứng được công cuộc vùng lên tranh đấu của đại khối dân tộc quốc nội, nhất là đáp ứng tiếng kêu thống thiết "cứu trợ dân oan" của Hoà Thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, qua Thông Bạch của Ngài kêu gọi đóng góp vào "Quỹ Cứu Tế Dân Oan" gửi chư Tôn Đức, Tăng Ni, Phật tử và đồng bào các giới trong và ngoài nước ngày 10 tháng 8 năm 2007.

- Thứ Hai, thứ Ba, thứ Tư 24 và 25 và 26 tháng 9, từ 10 giờ sáng: Tổng biểu tình trước trụ sở Liên Hiệp Quốc phản đối Nguyễn Tấn Dũng và tố cáo tội ác của bạo quyền Cộng Sản Hà Nội; kêu gọi quốc tế tích cực hỗ trợ công cuộc đấu tranh đòi quyền sống, quyền làm người, tự do tôn giáo, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam.


Ủy Ban Phối Hợp Đấu Tranh.

Đồng Chủ Tịch

- Ông Nguyễn Văn Tánh, New York (Cố Vấn Thường Vụ Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia New York - Trưởng Ban Tố Chức Ngày Diễn Hành Văn Hóa Quốc Tế). (646) 920-0209

-GS Lai Thế Hùng (Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Trung Ương Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Âu Châu ((CT/HĐĐHTƯ/CĐNVQGÂC) - Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Trung Ương Phong Trào Đấu Tranh Đòi Tự Do Tôn Giáo Dân Chủ, Nhân Quyền Và Toàn Vẹn Lãnh Thổ Cho Việt Nam (CT/HĐĐHTƯ/PTĐT), Tổng Thư Ký Ủy Ban Lâm Thời Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại Yểm Trợ Những Tiếng Nói Đấu Tranh Quốc Nội (TTK/UBYTQN), Phối Trí Viên Ủy Ban Quốc Tế Vận Cứu Nguy Các Nhà Đấu Tranh Dân Chủ Tại Việt Nam (PTV/UBQTV),Pháp. (714) 326-9302

- Nhà báo Nguyễn Đình Toàn (Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Philadelphia).(610) 914-2126

- LS Nguyễn Thanh Phong (Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia New York) (646) 920-4118

- Nhà văn Trần Quán Niệm (Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam New Jersey) (917) 952-6396

- Ông Cao Xuân Khải (Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia New Hampshire).

- Ông Nguyễn Thanh Bình (Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Massachusetts) (617) 296-7640

- Ông Lý Văn Phước, Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc GiaWashington DC, Maryland và Virginia(202) 361-1231

- Ông Đỗ Minh Đức, Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Houston

- BS Nguyễn Xuân Vinh, Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia California

- Ông Trần Giỏi, Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Connecticut (203) 526-4147

- Tiến Sĩ Lê Minh Nguyên,Trưởng Ban Điều Hợp Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

- Ông Nguyễn Trung Châu, Chủ Tịch Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị tại HoaKỳ (718) 364-3673

- Ông Nguyễn Phục Việt, Nhóm Tuổi Trẻ PalTalk

Với sự tham gia và hỗ trợ của quý vị có tên trong danh sách sau đây:

Các hội đoàn, đoàn thể hay cá nhân muốn ghi tên tham gia, xin báo cho chúng tôi hay để cập nhật kịp thời.

- Cụ Phan Vỹ, (Chủ Tịch Hội Đồng Giám Sát Trung Ương PTĐT (CT/HĐGSTU), Hội Đồng Tư Vấn (HĐTV) UBYTQN và UBQTV), Washington D.C.

- Cựu Thiếu Tướng Lý Tòng Bá (Chủ Tịch Ủy Ban Yểm Trợ Dân Chủ Quốc Nội - HĐCVTƯ/PTĐT và UBQTV) - Santa-Ana, CA.

- Cựu Đại Tá Trương Như Phùng (Chủ Tịch Tổng Hội Cựu Chiến Sỹ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa - PCT/HĐĐHTƯ/PTĐT, HĐTV/UBYTQN và UBQTV) - Houston, TX.

- Cựu Thiếu Tá Nguyễn Xuân Tùng (Giám Đốc Chương Trình Phát Thanh Diễn Đàn Kytô hữu, Diễn Đàn Chống Cộng - PCT/HĐĐHTƯ/PTĐT) - Santa Ana, CA.

- Hòa Thượng Thích Thắng Hoan (Chánh Văn Phòng Hội Đồng Giáo Phẩm Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN), Viện Hóa Đạo II, (HĐTV/UBYTQN) - New Orleans, LA.

- Hòa Thượng Thích Thanh Đạm (Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Trên Thế Giới, HĐTV/UBYTQN), Chùa Giác Hoàng, Washington, D.C

- Thượng Tọa Thích Vân Đàm (Vụ Trưởng Vụ Văn Hóa Giáo Dục GHPGVNTN Hải Ngoại, , HĐCVTƯ/PTĐT và UBYTQN), Tu Viện Pháp Vương, Washington D.C).

- Thượng Tọa Thích Nguyên Tâm (GHPGVNTN, Viện Hóa Đạo II - HĐTV/UBYTQN), New Orkeans, LA.

- Thượng Tọa Thích Quảng Hiền (HĐĐH/GHPGVNTN/ÂC- HĐCVTƯ/PTĐT và UBYTQN), Chùa Trí Thủ, Bern, Thụy Sỹ.

- Linh Mục Phạm Văn Tuệ (Quản Nhiệm Giáo Xứ Thánh Giuse, New Orleans, LA - HĐTV/UBYT/QN).

- Linh Mục Tống Thiện Liên (HĐCVTƯ/PT), HĐTV/UBYT/QN), Dallas, TX.

- Linh Mục Đinh Xuân Minh (HĐCVTƯ/CĐNVQG/ÂC, PTĐT và UBYTQN), Mainz, Đức.

- Mục sư Nguyễn Công Huấn (HĐCVTƯ/CĐNVQG/ÂC, PTĐT và UBYTQN). Lausanne, Thụy Sỹ.

- Đại Đức Thích Thiện Pháp (GHPGVNTN - HĐCVTƯ/PTĐT và UBYTQN), .Arlington, TX.

- Giáo sỹ Lê Trịnh (Chánh Trị Sự Cao Đài Giáo Miền Trung - HĐCVTƯ/PTĐT và UBYTQN), Falls Church, VA.

- Hiền Tài Nguyễn Thanh Liêm (Cao Đài Giáo Tòa Thánh Tây Ninh, San Jose, California - HĐCVTƯ/PTĐT và UBYTQN), San Jose, CA.

- Ông Cao Hữu Thiên (Đại diện PTĐT, UBYTQN và UBQTV Vùng Tây Bắc Hoa Kỳ), Tacoma, Washington State.

- Cựu Trung Tá Nguyễn Văn Được (HĐCVTƯ/PTĐY, UBYTQN và UBQTV), Seattle, Washington State.

- Cựu thẩm phán Phạm Đình Hưng (Chủ Tịch Hội Đồng đoàn Kết Người Việt Quốc Gia - HĐCVTƯ/PTĐT, UBYTQN và UBQTV), Santa Ana, CA.

- Cựu dân biểu Phạm Ngọc Hợp (Chủ Tịch Ủy Ban đoàn Kết Chống Cộng - HĐCVTƯ/PTĐT, UBYTQN và UBQTV), Santa Ana, CA.

- Cựu Thiếu Tá Lê Văn Sanh (PCT/HĐGSTƯ/PTĐT, HĐTV/UBYTQN và UBQTV), Houston, TX.

- Võ sư Lê Văn Trí (TTK/HĐGSTƯ/PTĐT, BĐHTƯ/UBYTQN và UBQTV), Arlington, VA.

- Cựu dân biểu, nhà báo Vi Anh Bùi Văn Nhân (HĐCVTƯ/PTĐT và UBQTV), Santa Ana,CA). - Cựu dân biểu Lý Hiền Tài (Chủ Tịch Liên Minh Dân Chủ Việt Nam Vùng Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn-Maryland-Viirginia, HĐCVTƯ/PTĐT, UBYTQN và UBQTV) Baltimore, Maryland.

- GS Trần Trọng Đạt (Chủ Tịch Ban Chấp Hành Trung Ương Đại Việt Quốc Dân Đảng, HĐCVTƯ/PTĐT, UBYTQN và UBQTV), Santa Ana, CA.

- Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện (HĐCVTƯ/PTĐT, UBYTQN và UBQTV), Santa Ana, CA.

- Ông Nguyễn Rô (HĐCVTƯ/PTĐT, UBYTQN và UBQTV), Dallas, TX.

- Nhà thơ, nhà văn Võ Văn Viên (Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngọai Miền Nam Hoa Kỳ, HĐCVTƯ/PTĐT, UBYTQN và UBQTV), Tampa, Florida.

- Ông Peter Nguyễn (HĐCVTƯ/PTĐT, UBYTQN và UBQTV), New Orleans, LA.

- Cựu thẩm phán Trần Đức Lai (CT/HĐCVTƯ/CĐNVQGÂC, HĐCVTƯ/PTĐT, UBYTQN và UBQTV), Mulhouse, Pháp.

- GS Tiến Sỹ Lê Mộng Nguyên (HĐCVTƯ/CĐNVQGÂC, HĐCVTƯ/PTĐT, UBYTQN và UBQTV), Paris, Pháp

- GS Bùi Bách Diệp (HĐCVTƯ/CĐNVQGÂC, HĐCVTƯ/PTĐT, UBYTQN và UBQTV), Bruxelles, Bỉ.

- Ông Lễ Minh Triết (HĐCVTƯ/CĐNVQGÂC, HĐCVTƯ/PTĐT, UBYTQN và UBQTV), Paris,

- KS Dương Văn Lợi (Chủ Tịch Hộ Tù Nhân và Nạn Nhân Dưới Chế Độ Cộng Sản Việt Nam, HĐCVTƯ/CĐNVQGÂC, HĐCVTƯ/PTĐT, UBYTQN và UBQTV), Paris, Pháp.

- Nhà văn Chu Chi Nam (HĐCVTƯ/CĐNVQGÂC, HĐCVTƯ/PTĐT, UBYTQN và UBQTV), Paris..

- Ông Nguyễn Tuờng Long (HĐCVTƯ/CĐNVQGÂC, PTĐT, UBYTQN và UBQTV), Paris,

- Nhạc sỹ Hồ Văn Sinh (Việt Nam Cộng Hòa Foundation - HĐĐHTƯ/PTĐT, UBYTQN và UBQTV) Santa Ana, CA.

- Ông Nguyễn Tấn Đức (Đại diện PTĐT, UBYTQN và UBQTV Vùng Trung Nam Hoa Kỳ), Atlanta, GA.

- Ông Nguyễn Thanh Minh (Chủ Tịch Hội Đồng Đại Biểu.Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Georgia, HĐCVTƯ/PTĐT, UBYTQN và UBQTV), Atlanta.

- KS Ngô Ngọc Hiếu (Đại diện CĐNVQGÂC tại Anh quốc, TTK/HĐĐHTƯ/PTĐT, UBYTQN và UBQTV), London.

- Nhạc sỹ Nguyễn Ngọc Chinh (PTTK/HĐĐHTƯ/PTĐT, UBYTQN và UBQTV), Fort Worth, TX).

- Ông Hồ Sắc (Chủ Tịch Ủy Ban Bảo Vệ Chính Nghĩa Quốc Gia, Đại diện PTĐT, UBYTQN và UBQTV tại Houston, TX).

- Ông Phan Văn Phúc (Đại diện PTĐT, UBYTQN và UBQTV tại Dallas-Fort Worth, TX).

- Ông Nguyễn Hữu Dõng (Chủ Tịch Diễn Đàn Dân Chủ, HĐCVTƯ/CĐNVQÂC, PTĐT, UBYTQN và UBQTV), Koln, Đức.

- KS Trần Văn Nam ( Đại diện PTĐT, UBYTQN và UBQTV tại Gia Nã Đại), Vancouver.

- Ông Trần Minh Chiêu (HĐCVTƯ/CĐNVQÂC, PTĐT, UBYTQN và UBQTV), Metz, Pháp.

- Ông Raymond Déprez (CT/CĐNVQGÂC tại Pháp, Đại diện PTĐT, UBYTQN và UBQTV tại Pháp), Moselle, Pháp.

- KS Tạ Văn Khánh (Đại diện CĐNVQGÂC, PTĐT, UBYTQN và UBQTV tại Đức), Saarbrucken.

- Ông Lê Van Hiệp (HĐĐHTƯ/PTĐT, UBYTQN và UBQTV), Metz, Pháp.

- Ông Lý Minh Thuận (BTV/HĐĐHTƯ/CĐNVQÂC, PTĐT, UBYTQN và UBQTV), Metz, Pháp

- Ông Nguyễn Văn Tuấn (BTV/HĐĐHTƯ/CĐNVQGÂC, PTĐT, UBYTQN và UBQTV), Strasbourg, Pháp.

- Ông Nguyễn Bá Cẩn (Cựu Chủ Tịch Hạ Nghị Viện VNCH, Cựu Thủ Tướng VNCH)

- T/S Nguyễn Ngọïc Hùng (Đức Quốc)

- T/S Đỗ Hùng (Cựu Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Bắc California)

- Nhà báo Nguyễn Vạn Hùng (Chủ Nhiệmbáo Ý Dân)

- Ông Phan Kỳ Nhơn (Chủ Tịch Ủy Ban Đặc Nhiệm Chống Cộng Nam California)

- Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ Cao Trào Nhân Bản

- Ông Nguyễn Bác Ái (Chủ Tịch Cộng Đồng NVQG Oregon, Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Hành Cộng Đồng Hoa Kỳ, Chủ Tịch Tổng Hội Thủy Quân Lục Chiến)

- Ông Huỳnh LươngThiện (Phong trào Hưng Ca Việt Nam)

- Ông Nguyễn Tài Đàm (Cựu Chủ Tịch CĐ VN Nam Californi, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Giám Sát Cộng Đồng Hoa Kỳ)

- Ông Nguyễn Hùng Việt (Lực Lượng Quốc DânViệt Nam)

- Ông Thế Phương (Chủ nhiệm báo điện tử Take 2 Tango)

- Ông Nguyễn Tường Thược (Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị tại Hoa Kỳ, Giám Đốc Đài Phát Thanh và Truyền Hình Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại)

- 36 Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị tại Hoa Kỳ và Thế Giới

- Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích (Chủ Tịch Nghị Hội Toàn Quốc).

NÓI VỚI CÁC BẠN TRẺ: TẠI SAO PHẢI CHỐNG TUYÊN VẬN CSVN?

Từ ngàn xưa, các bộ môn về nghệ thuật ca diễn, âm nhạc là một thứ vũ khí bén nhọn đã đóng góp không nhỏ vào sự chiến thắng của một đoàn quân, hay tầm vóc lớn hơn là một quốc gia. Ở Trung Hoa thời Hán Sở tranh hùng, Lưu Bang (Hán) đã sử dụng chiến thuật “văn công du kích” hay địch vận bằng cách cho người xâm nhập vào các doanh trại của binh sĩ Hạng Võ (Sở), khơi dậy những bài tình ca quê hương rất mùi của Sở quốc với nội dung thương nhớ quê nhà để làm mềm lòng địch. Ðêm đêm những bài ca ru hồn ấy cứ rót vào tai đạo quân viễn chinh bách chiến bách thắng của Hạng Võ, khiến cho tinh thần quân sĩ sa sút vì nỗi nhớ quê nhà. Chiến dịch tâm lý ấy đã là một tác động lớn vào sự sụp đổ đạo quân hùng mạnh của Hạng Võ.

Thời nay, trong cuộc chiến quốc cộng, cả hai bên đều sử dụng tối đa các bộ môn văn nghệ, nhất là sáng tác hùng ca, chiến đấu ca, tâm động ca, bi ai ca... để kích thích tinh thần chiến đấu của binh sĩ, hoặc ru ngủ đối phương để giành chiến thắng cho mình.

Dưới thời VNCH vào giai đoạn CS xâm lăng quyết liệt, Cục Chính Huấn cũng đã tạo được những bài hùng ca tuyệt vời và đã kích thích mạnh mẽ vào tinh thần quân nhân, góp phần vào những trận chiến thắng như chiếm lại Cổ Thành Quảng Trị, Bình Long, An Lộc v.v... Nhưng ngược lại ở hậu phương cũng có một vài ba tên phản chiến, hoặc bị móc nối “ăn cơm quốc gia thờ ma CS”, hoặc cán bộ văn hóa nằm vùng, đã sáng tác những bài ca yếm thế, chất đầy tinh thần chủ bại, làm nản lòng chiến sĩ ngoài mặt trận. Chính những tên “văn công du kích” này đã góp phần vào sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam năm 1975.

Từ khi có làn sóng người Việt tỵ nạn trốn chạy cộng sản ra hải ngoại, Cục Tuyên Vận CSVN cũng không ngừng cấy những mạng lưới theo đoàn người bỏ nước ra đi để chờ lệnh thi hành công tác. Ban đầu họ chỉ xoáy vào tâm lý thương nhớ quê nhà của tập thể người Việt hải ngoại bằng những loạt video hình ảnh quê hương nơi chôn nhau cắt rốn: ruộng đồng, làng xóm, con đường, cây đa, khóm trúc, bụi chuối sau hè... lồng trong những ca khúc nhẹ nhàng, ngọt ngào như “quê hương là chùm khế ngọt... quê hương nếu ai không nhớ... sẽ không khôn lớn thành người...” để khơi động tình thương nhân bản theo lẽ tự nhiên sẵn có trong mỗi con người Việt Nam.

Mục tiêu của họ là dụ người về thăm quê hương qua chiến dịch “cởi trói” để kiếm ngoại tệ, nuôi sống chế độ đang thoi thóp trước sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản toàn cầu; đồng thời làm lu mờ sức chiến đấu của người dân không chấp nhận cộng sản.

Thế rồi, như tằm ăn dâu, sau khi phá sập những tổ chức kháng chiến bằng cách cấy mạng lưới tình báo vào các tổ chức, đoàn thể chính trị này - mà mục tiêu duy nhất là làm mất niềm tin nơi quần chúng chống cộng - họ bắt đầu thi hành sách lược móc nối, mua chuộc mạnh hơn; đồng thời lôi các mạng lưới (đã cấy từ lâu) bò dậy hoạt động công khai, thi hành điệp vụ chia rẽ, chích bên này, đâm bên nọ, tạo mâu thuẫn để người này ghét người kia, tổ chức này ghét tổ chức nọ, cấu xé nhau, gây thù hận, thậm chí còn đưa nhau ra tòa tại các quốc gia sở tại, kiện tụng rùm beng v.v... Thế là họ đã thành công.

Trở lại đề tài tuyên vận, ngoài việc tung ra hải ngoại những văn hóa phẩm như CD, video, DVD, sách vở... bán công khai tràn ngập thị trường với giá rẻ mạt, phá nát kỹ nghệ băng nhạc của nghệ sĩ người Việt quốc gia, họ còn đưa những đoàn văn công ra hải ngoại - nhất là những nghệ sĩ đã thành danh dưới thời VNCH để thu hút số khán giả mến mộ ngày xưa, những nghệ sĩ này dễ được chấp nhận hơn vì họ đã có cảm tình từ trước. Dĩ nhiên, có nhiều nghệ sĩ đã thoát thân bằng cách tị nạn chính trị, về với cộng đồng người Việt không cộng sản; nhưng một số khác vẫn hoạt động vì quyền lợi riêng tư hoặc vì trả ơn mưa móc cho đảng.

Tiếp theo là những đợt ca sĩ thuộc thế hệ trẻ, tân thời hơn, ca diễn những loại nhạc lai căng, nhảy múa điên cuồng vô thưởng vô phạt v.v... Có thể những nghệ sĩ trẻ tuổi này được chỉ thị, hoặc bị lợi dụng, hoặc họ không hề biết vai trò của chính mình, nhưng mục tiêu ma mánh của CSVN vẫn là mũi dùi tấn công, tạo ra những tranh cãi, dẫn tới chia rẽ trầm trọng hơn trong tập thể người Việt tị nạn trước việc chống hay bênh giới nghệ sĩ trẻ này. Ngay trong một gia đình cha con cãi nhau, giận hờn cũng chỉ vì những tranh cãi phi lý này. Thế là họ đã đạt được mục đích.

Ðể lừa đảo những người nhẹ dạ, họ ru nhẹ bằng cụm từ “giao lưu văn hóa” nhưng chỉ giao lưu một chiều. Nghĩa là họ độc quyền tung ra thị trường hải ngoại những sản phẩm mang tính chất “du kích văn hóa” tự do, vì hải ngoại là xứ tự do. Chính kẽ hở tự do là môi trường dễ dàng để họ lợi dụng. Nghệ sĩ từ trong nước cũng nhập cảnh tự do và cũng tự do tổ chức những buổi ca nhạc qua các mạng lưới nằm vùng. Còn những nghệ sĩ quốc gia hải ngoại có được quyền về trình diễn công khai trong nước không? Họ có dám cho các nhạc sĩ Hưng Ca như Nguyệt Ánh, Việt Dzũng và những thành viên khác về hát nhạc đấu tranh “Trả ta sông núi” không? Chắc chắn là không! Họ chỉ chấp nhận cho những thành phần theo họ để làm cái loa tuyên truyền cho đảng và nhà nước? Còn những văn hóa phẩm hải ngoại có được tự do lưu hành trong nước hay không? Chắc chắn những sản phẩm ấy sẽ bị nhà nước tịch thu, nghiêm cấm. Như thế mà họ vẫn tuyên truyền cho chiêu bài “giao lưu văn hóa” thì thật là quái đản!
Vì vậy, bao lâu CSVN còn chủ trương “giao lưu văn hóa” một chiều là bấy lâu chúng ta có bổn phận và có quyền chống lại chiến dịch tuyên vận của họ. Ðây là xứ tự do, là hậu cứ an toàn nhất của chúng ta, nghĩa là họ được quyền đến đây ca hát tuyên truyền xám dưới nhiều hình thức như du kích chiến thì chúng ta cũng được quyền đả đảo, tẩy chay công khai, có tổ chức lớp lang, và nhất định vạch mặt, đưa ra trước công luận những tên nằm vùng đang trà trộn trong cộng đồng, ăn lương và nhận công tác tay sai cho VC.

Ðối với những khán giả đi xem hát, ngoại trừ một số nhỏ có mục tiêu rõ ràng, hoặc có liên hệ mật thiết với những người bên kia... Còn đại đa số, chúng tôi tin rằng, hoặc vì hiếu kỳ, hoặc vì mê nhạc nên đã vô tình bị nhóm tổ chức lợi dụng để móc tiền và làm công cụ cho họ tuyên truyền trên các tờ báo đảng ở trong nước: “Văn công của đảng ta tới đâu cũng được Việt kiều ủng hộ”. Có nghĩa là cộng đồng hải ngoại đã thôi chống cộng. Xin được đặt một câu hỏi rất đơn giản: “Như vậy có ảnh hưởng tới mầm đấu tranh cho tự do dân chủ của người dân trong nước hay không?” Dĩ nhiên là có, vì những nhà đấu tranh và đồng bào khiếu kiện đang sống trong sự kềm kẹp, luôn luôn mong chờ tiếng nói và sự tiếp tay của chúng ta. Vậy, đồng bào nở lòng nào chỉ vì “vài giờ mua vui” mà vô tình tạo ra nhiều nỗi khó khăn cho tập thể người Việt tị nạn CS; đồng thời gián tiếp hà hơi, tiếp sức cho chế độ CSVN mạnh miệng tuyên truyền và mạnh tay tiêu diệt cao trào dân chủ đang vùng dậy trong nước.

Không cần lý luận thì chúng ta cũng đã thấy chính những văn công, những người chạy cờ, những người tổ chức đã tạo ra sự chia rẽ giữa hai phía chống đối và ủng hộ một cách khoa học. Ðó là mục tiêu chính yếu mà bộ phận tuyên truyền cần đạt tới. Càng tạo thêm mâu thuẫn, nghi kỵ; càng tạo thêm giận hờn trong cộng đồng người Việt tỵ nạn; càng tạo thêm xáo trộn trong đời sống của người Việt ly hương vốn quá nhiêu khê là công tác tuyên vận của VC được coi như đạt kết quả.

LỜI KẾT
Rồi đây chế độ độc tài cộng sản sẽ phải sụp đổ, hoặc bị xóa tan bởi trào lưu dân chủ tự do của nhân loại. Thế nhưng, chúng ta không thể ngồi chờ tự nó biến thể! Vì bao lâu đại họa cộng sản còn độc quyền cai trị là bấy lâu dân tộc còn bị đọa đày trong một xã hội tha hóa, luân thường đạo lý bị xóa bỏ, nhân phẩm của con người bị phá nát chưa bao giờ có trong lịch sử dân tộc Việt.

Ðã đến lúc các bạn trẻ phải đứng lên, mạnh bước đi làm cuộc cách mạng nhân bản để đưa dân tộc ra khỏi hố sâu bệ rạc từ thân đến tâm. Tên tuổi của bạn trẻ sẽ đi vào lịch sử của dân tộc Việt! Hãnh diện thay, một Nguyễn, một Trần, một Lê, một Lý.... sẽ nối kết với hàng trăm, hàng vạn, hàng triệu Nguyễn Lý Lê Trần khác để tạo thành một biển lửa kiên cường, thiêu đốt những âm mưu chia rẽ, vô hiệu hóa những đòn thù, những chông gai mà cha anh đã bước qua. Các bạn sẽ là những người trẻ mang đầy nhiệt huyết kiêu hùng của cha anh, xóa tan màn vô minh, dẹp bỏ độc tài cộng sản và dựng lại cơ đồ cho thế hệ kế tiếp hồi sinh trong tự do dân chủ.

Ðã làm trai sống trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông.

Trương Sĩ Lương

Người lớn lên, áo không lớn!

Ngô Nhân Dụng

Nếu mặc chiếc áo chật chội quá, quý ông quý bà phải làm gì? Cởi áo ra. Ai cũng nghĩ như vậy.

Chưa chắc. Nếu quý vị đang bị giam cầm, được nhà tù phát cho cái áo, mặc chật quá mà cởi ra sẽ bị tố cáo ngay là “phá hoại tài sản xã hội chủ nghĩa” đấy! Coi chừng, còn bị kết tội là “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” thì hết thuốc chữa.

Cho nên chúng ta rất thông cảm với tất cả các nhà báo ở Việt Nam hiện nay. Họ được phát những chiếc áo chật chội quá, mà không cách nào chui ra ngoài được.

Hình ảnh “chiếc áo chật chội” là do ông Võ Văn Kiệt đưa ra. Trong một buổi sinh hoạt với Ðoàn Thanh Niên Cộng Sản ở Sài Gòn, là “cơ quan chủ quản” tức là chủ nhân đứng tên chịu trách nhiệm về tờ báo, ông cựu thủ tướng nói rằng báo Tuổi Trẻ, “không còn mặc được cái áo của thành đoàn” nữa.

Nhưng đố ai thay đổi được cái áo cho báo Tuổi Trẻ, hay bất cứ tờ báo nào ở Việt Nam! Chính sách của đảng cộng sản trước sau như một vẫn là kiểm soát tất cả các cơ quan truyền thông. Không những kiểm soát để tránh những việc “đi ngược chiều, đi lăng quăng không đúng định hướng” mà đảng cộng sản còn muốn bắt tất cả các tờ báo cùng ca một bài theo bài bản được đảng “chỉ đạo” theo từng giai đoạn.

Một thí dụ mới nhất là chiến dịch đả kích Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ mới được đảng tung ra trong một tuần qua. Mở đầu là một bài xã luận trên nhật báo Nhân Dân, cơ quan chính thức của đảng, vu cho hòa thượng là “theo đuổi mục đích chính trị,” và “không còn là nhà tu hành nữa.” Các tờ báo Tiền Phong, Thanh Niên, cho đến mạng lưới VietnamNet, vân vân, nhận được phát súng lệnh, liên tiếp viết các bài đả kích Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ! Họ đặc biệt nhắc tới việc hòa thượng đã đến thăm các đồng bào “dân oan khiếu kiện” ở Sài Gòn, việc Thượng Tòa Thích Không Tánh ra tận Hà Nội an ủy các dân oan đang biểu tình. Họ nhấn mạnh đến việc quý ngài tặng tiền cho những người đang từ các làng xóm xa xôi về thành phố “khiếu oan.” Họ loan tin thêm là công an của chế độ đã “triển khai kế hoạch ngăn chặn bọn xấu kích động dân chúng biểu tình;” khen ngợi công an đã “làm rõ âm mưu, ý đồ của các tổ chức chống chính quyền.” Các tờ báo không quên móc thêm “bọn phản động lưu vong ở nước ngoài” cấu kết với “các phần tử phản động” trong nước trong công việc “xúi giục” này.

Không cần ai nhắc nhở, dư luận người Việt khắp nơi tự hỏi tại sao các cuộc biểu tình đòi bồi thường đất đai đã diễn ra cả chục năm nay rồi, mà nhà nước không biết ai “xúi giục,” đến bây giờ lại đi tóm lấy mấy ông thầy tu mà đổ tội! Những nhà sư yếu ớt đó làm được những việc tầy trời vì bao nhiêu năm qua họ đã bịt mắt được hết quý vị công an chìm nổi hay sao?

Thắc mắc thứ hai là tại sao trước đây 600 tờ báo ở trong nước không báo nào loan tin về những vụ nông dân biểu tình hết? Bây giờ bỗng nhiên các báo lại đồng loạt loan tin thủ phạm khích động họ là những nhà sư!

Các báo của đảng chỉ trích hành động của thầy Quảng Ðộ “có mục đích chính trị.” Thế thì những vị hòa thượng, thượng tọa được đảng lôi vô bắt ngồi trong Mặt Trận Tổ Quốc, trong Quốc Hội, họ ngồi trong đó là làm chính trị cả, sao người này được làm chính trị mà người khác lại không?

Chiến dịch các tờ báo đồng khởi tấn công Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ cho thấy đảng cộng sản vẫn coi các nhà báo là tay sai, bảo đâu đánh đó. Những điều viết ra trên báo không phải chủ ý của người làm báo, chắc đồng bào ai cũng hiểu. Ngược lại, các nhà báo ngay khi được lệnh viết những lời đả kích Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ, họ cũng cố ý để lộ cho độc giả thấy là họ bị bắt buộc phải viết, để cho đồng bào thông cảm.

Có tờ báo đã nhân dịp phải viết bài đả kích đã ghi lại tiểu sử của thầy Quảng Ðộ, ngấm ngầm cho thấy chế độ cộng sản độc tài đã áp bức ông “tu sỹ cá biệt” này ra sao. Ðộc giả được biết thầy Quảng Ðộ sinh năm 1927 tại Thái Bình, xuất gia từ nhỏ, tu ở chùa Quán Sứ, đã đi tu tập Phật pháp ở Ấn Ðộ, Sri Lanka, đã giữ những chức vụ gì trong Giáo Hội Phật Giáo, vân vân. Bài báo lại lần lượt tường thuật những hành động trấn áp đối với thầy từ năm 1977, nhắc tới cả những vụ tăng ni tự thiêu mà phần lớn độc giả trẻ không hề biết. Sau đó thầy Quảng Ðộ bị trục xuất không cho sống ở Sài Gòn (nguyên văn: ra quyết định cấm y cư trú trên địa bàn). Rồi “UBND tỉnh Thái Bình ra quyết định buộc Thích Quảng Ðộ ở chùa Ðông Xoài, tỉnh Thái Bình.” Ðọc tới đây người ta tự hỏi không hiểu làm sao chính quyền một tỉnh lại có cái quyền “buộc” một người dân phải sống trong tỉnh mình mà không có án tòa! Nếu bây giờ chính quyền tỉnh Lạng Sơn ra quyết định buộc ông Võ Văn Kiệt ra sống ở đó, có nghe được không? Chỉ trong một chế độ độc tài khủng long mới có những hành động như thế!

Bài báo đả thầy Quảng Ðộ còn cố ý nêu ra một chi tiết thật lố bịch là một vị lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo của nhà nước giải thích rằng hiến chương của Giáo Hội ông ghi rõ, “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam là tổ chức duy nhất đại diện cho Phật Giáo Việt Nam.” Do đó, ông kết luận, “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không còn tồn tại” nữa! Thế thì nếu có hiến chương của một tổ chức tư nào ghi mình là “đại diện duy nhất của trẻ em cả nước Việt Nam” thì tất cả những tổ chức thiếu nhi khác sẽ trở thành bất hợp pháp hết ráo hay sao? Ðó là luận điệu chỉ có các ông cộng sản mới nói được! Rõ ràng là nhà báo “chơi khăm” cả nhà nước lẫn nhà tu ngờ nghệch, cho nên họ mới đăng lại những lời tuyên bố ngớ ngẩn như vậy!

Nhưng vụ nhà báo “chơi khăm” nặng nhất là họ đăng mấy giới luật của nhà Phật trước khi kết tội thầy Quảng Ðộ. Người đọc nào cũng thấy là không phải ông thầy tu mà chỉ có chính quyền cộng sản mới phạm các giới luật đó. Các giới luật được nêu lên có những câu như “Con nguyện không nói điều sai sự thật, không nói những lời gây chia rẽ căm thù;” hoặc “Con nguyện tôn trọng sự khác biệt của kẻ khác và tự do nhận thức của họ.” Khi đọc tới những câu này thì ai đã sống ở nước Việt Nam trong nửa thế kỷ qua phải nhìn ra là chỉ có đảng cộng sản mới chuyên môn “nói những lời gây chia rẽ căm thù;” và đảng cộng sản thì không bao giờ biết “tôn trọng sự khác biệt của kẻ khác và tự do nhận thức của họ!” Ðúng là gậy ông đập lưng ông! Người đọc sẽ thấy là tất cả những điều nhà nước gán cho là “tội” của Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ chỉ là không đồng ý với các chính sách của đảng cộng sản mà thôi! Và nhà báo còn nhắc lời Phật dạy: “Kẻ tạo nhân dữ thì phải tội báo dữ!”

Tại sao các nhà báo phải viết những lời nói xiên nói xéo để chửi chế độ cộng sản như vậy? Giản dị, vì chính họ đang bị cột trong những cái áo chật chội không cởi ra được!

Cái áo nào cũng chật, như ông Võ Văn Kiệt mới nói với các đảng viên cộng sản ở Sài Gòn. Vì các tờ báo ở nước ta vừa bị thống thuộc dưới quyền ban tư tưởng, văn hóa của đảng, vừa bị Bộ Thông Tin nắm đầu, lại phải nằm trong các cơ quan chủ quản, không có chúng thì không ai được làm báo. Ông Võ Văn Kiệt nhận xét, “nhiều cơ quan chủ quản vốn dĩ là một tổ chức hành chánh... cơ quan khác là đoàn thể chính trị nhưng lại đang có khuynh hướng hành chánh hóa...” Báo chí thì có khuynh hướng “năng nổ, bám sát đời sống để cố gắng nói lên tiếng nói của quần chúng nhân dân...” Những cơ quan hành chánh đã “trở thành chiếc áo chật chội” cho nên chúng kìm hãm, bó chặt những “cơ thể đã trưởng thành!”

Ông Võ Văn Kiệt nói những lời trên trước khi có chiến dịch tấn công Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ. Nhưng vô tình ông Kiệt cũng phủ nhận các lời buộc tội của đảng và nhà nước cộng sản. Trước các đảng viên trong Ðoàn Thanh Niên Cộng Sản, ông Kiệt cũng nhắc tới các cuộc biểu tình của nông dân, ông nói, “Các cuộc đấu tranh của quần chúng nổi lên tự phát mà lẽ ra đoàn phải tìm hiểu thấu đáo nguyện vọng, thấy cái oan, sai, đặt vấn đề với nhà nước!”

Ông Kiệt xác nhận dân đi biểu tình là “nổi lên tự phát!” Thế thì chẳng cần “bọn phản động lưu vong ở nước ngoài” cấu kết với “các phần tử phản động” trong nước nào đi xúi giục khích động dân oan cả! Tất nhiên các tờ báo ở trong nước không tờ nào dám đăng lại những lời ông Kiệt minh oan cho mấy vị thầy tu!

Ví thử ông Võ Văn Kiệt nói xong những lời hùng hồn đó rồi ông tuyên bố chính ông sẽ đứng ra xuất bản một tờ báo thì hay biết mấy! Nhưng ông cũng đang chui đầu trong một cái áo khác còn chật chội gấp bội, là chế độ độc tài do chính ông đã góp sức dựng lên! Từ thời ông Stalin đến thời ông Pol Pot, có chế độ cộng sản nào cho báo chí được tự do đâu! Nó cho mặc áo, dù áo chật cũng còn phước; nó bắt ở trần rồi trói lại như cột heo cũng đành chịu chứ làm sao bây giờ! Cụ Nguyễn Du viết rất thấm thía: Dại rồi còn biết khôn làm sao đây! (@NguoiVietOnline)

Ngày 2/9 ngày độc lập hay ngày đại họa của dân tộc Việt Nam

Lịch sử Việt có nhiều ngày đáng ghi nhớ, để trong tâm khảm, như ngày Hai Bà Trưng phất cờ vàng khởi nghĩa, lấy lại 65 thành trì, giành lại nền độc lập cho nước nhà ; như ngày Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán, mang lại quyền tự chủ cho dân tộc; ngày mà Đức Trần Hưng Đạo 3 lần đánh thắng quân Nguyên ; hay ngày mà Quang Trung đại thắng quân Thanh. Nhưng lịch sử Việt cũng có những ngày đáng phỉ nhổ, như ngày Lê Chiêu Thống cõng rắn cắn ngà nhà ; ngày mà Mạc Ðăng Dung dâng đất cho Tàu. Lịch sử cận đại có ngày mồng hai tháng chín, mà những người cộng sản cho là ngày độc lập. Nhưng dân Việt coi đó là ngày đại họa cho dân tộc.
Việt gian Hồ Chí Minh

Tại sao vậy?

I) Ngày mồng hai tháng chín là ngày thế nào

Lợi dụng lúc sắp tàn của Đệ Nhị Thế Chiến, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, theo chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế Cộng sản, tìm cách nổi dậy cứơp chính quyền, đúng như lời của Đức Đalai-Lama : “Cộng sản là loài cỏ dại mọc trên hoang tàn của chiến tranh.” Ngày 19/8/1945, lợi dụng cuộc biểu tình của công chức Hà Nội đòi tăng lương, Đảng Cộng sản đã trà trộn vào đoàn biểu tình, cướp một vài công sở lúc ban đầu, rồi sau đó cướp chính quyền. Gần 2 tuần sau đó, ngày 2/9, Hồ chí Minh đọc “Bản Tuyên Bố Độc Lập”. Đối với những người cộng sản, đây là ngày độc lập. Nhưng đối với dân tộc Việt, thì đây là ngày Hồ chí Minh và Đảng Cộng sản đã đưa dân tộc chúng ta vào trong gông cùm cộng sản, biến đất nước thành một bãi chiến trường cho cuộc tranh hùng tư bản-cộng sản, mang đau thương lại cho dân tộc, vì Hồ chí Minh và Đảng Cộng sản vô cùng vọng ngoại, hoàn toàn bị khống chế bởi ngoại bang, lúc đầu là Liên Sô, ngày nay là Trung Cộng. (1)

II) Tại sao ngày mồng hai tháng chín là ngày đại họa của dân tộc

Vì là vọng ngoại và bị khống chế bởi Đệ Tam Quốc Tế Cộng sản, mặc dầu Hồ Chí Minh và những người của Đảng Cộng sản bảo rằng ngày mồng hai tháng chín là ngày độc lập; nhưng thực tế, đây là ngày mà Hồ chí Minh đặt nước Việt dưới gông cùm cộng sản, tự biến Đảng Cộng Sản thành con chốt cho Đệ Tam Quốc tế, sẵn sàng tuân theo bất cứ một chỉ thị gì của tổ chức này, trong đó có vụ đánh tư bản, chính vì vậy mà có những cuộc chiến 1946-1954, 1954-1975, cuộc chiến với Căm Bốt 1978, cuộc chiến với Trung Cộng 1979.

Vì bản chất là tôi đòi, nô lệ, con chốt từ thời Hồ chí Minh, giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, lúc đầu thì nhất nhất theo Liên Sô, chửi Trung Cộng là “Kẻ thù liền đất, liền trời, liền biển”; ngày hôm Liên Sô sụp đổ; thì lại hèn hạ, khấu đầu đi theo Trung Cộng.

Hồ chí Minh và Đảng Cộng sản, không những đưa dân Việt từ cuộc chiến này tới cuộc chiến khác, mà còn nhập cảng lý thuyết Mác-Lê, chủ trương đấu tranh giai cấp, bạo động lịch sử, một lời kêu gọi nội chiến triền miên, gây ra cảnh con đấu cha, vợ tố chồng, bạn bè tìm cách sát hại lẫn nhau; phá hủy tất cả những truyền thống tốt đẹp của văn hóa Việt, biến nước Việt thành ra tụt hậu về kinh tế, băng họai về đạo đức, thấp kém về giáo dục, tham nhũng, hối lộ, bất công lan tràn khắp nơi, như tình trạng hiện nay của Việt Nam. (2)

Ngày mồng hai tháng chín sắp tới; mặc cho Đảng Cộng sản tuyên truyền khua môi, múa mép đó là ngày “độc lập”; nhưng những người Việt nam chân chính, yêu nước, phải ghi sâu trong tâm khảm đó là ngày đại họa cho dân tộc, cố gắng can đảm đứng lên đấu tranh thóat khỏi ách thống trị của Đảng Cộng sản, ngày xưa thì hoàn toàn lệ thuộc Liên Sô, ngày nay thì hoàn toàn lệ thuộc Trung Cộng. Chúng ta, con dân nước Việt phải đứng lên đấu tranh để cứu nước, tồn chủng !

Paris ngày 28/8/2007
Chu chi Nam

(1) Xin xem thêm Con người thần thánh, thương dân yêu nước Trần hưng Đạo và con ngườI gian manh, giảo quyệt, buôn dân, bán nước Hồ chí Minh trên web: http://perso.orange.fr/chuchinam/
(2) Xin xem Lý thuyết của Marx là thần dược hay độc dược trên cùng web.