Hiển thị các bài đăng có nhãn Phiếm luận. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phiếm luận. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 20 tháng 7, 2007

đi ăn giỗ

Thanh gọi tôi.

“Anh khoẻ không? Cho em xin lỗi, đúng một năm rồi em mới gọi anh.”

“Cho anh câu xin lỗi được không?... để em khoẻ!”

“Chị nhà thật khéo chọn anh! Aên nói làm mát dạ người khác quá đi!”

“Cảm ơn em. Có chuyện gì mà gọi anh vậy? Cô em.”



“… em biết anh không thích gặp lại kỷ niệm, nhất là những người mà anh đã trân qúy, thương mến. Anh sống hết lòng với người sống để khi người đi kẻ ở không có gì ân hận nữa vì anh đã có qúa nhiều ân hận. Em à!”

“… nhưng lần này là giỗ mãn tang bố em nên em phải mời anh cho được!”

“… một lần nữa thôi!... ha!”

Nhà bác Sa vẫn còn số cũ, đường xưa. Tôi không vội vô nhà để có thời gian ngắm nhìn kỷ niệm. Chắc vợ chồng Thanh trong nhà đã thấy tôi qua cửa sổ nên họ mở cửa, mời tôi vô.

Tôi thắp nén hương cho bác Sa gái thì không còn nhớ đã bao nhiêu lần, nhưng bác trai thì nhớ - bạn tôi mà. Bác, mới đó đã thành người thiên cổ được ba năm, thời gian như bóng câu qua cửa. Tấm hình người lính Việt Nam Cộng Hòa trên ban thờ đã hoen ố thời gian, tấm hình không nói lên tuổi tác người chết lúc mất thì cũng nói lên ý nghĩa tấm ảnh thờ. Một là người chết trận nên thờ ảnh mặc quân phục, hai là chưa toại nguyện đời lính nên dặn con cháu thờ ảnh lính - Bác Sa thuộc loại thứ hai.

Bữa giỗ mãn tang một người qúa cố được ba năm theo phong tục Việt Nam thì có gì để người ăn giỗ phải bận lòng ngoài việc ăn nhậu khi nỗi buồn đã cũ. Nhưng đám giỗ bác Sa không ồn ào như… đám giỗ. Thanh là con gái độc nhất của bác, Tấn là chồng của Thanh, ông Vàng là bạn lính của bác và tôi. Sau màn nghi lễ, kết thúc màn ăn nhậu trong thân tình qúy hiếm nơi đất khách quê người. Bác Vàng từ gĩa thân chủ Thanh để ra về, không quên nói với di ảnh bác Sa: “Không lâu nữa đâu ông bạn. Tôi với ông nhậu chung bàn như ngày xưa ở phố núi cao, phố núi đầy sương…”

Bọn trẻ chúng tôi cười cay mắt với tình đồng đội của thế hệ cha anh. Tôi cũng xin kíu và nhận lãnh công vụ đưa bác Vàng về cho tiện, khỏi gọi con bác đến đón. Nhưng Tấn nói: “Em đón bác Vàng đó! để em đưa bác về cho đúng lời hứa, anh ngồi nhà chơi với Thanh chút đi, em về là nhậu tiếp cho đã một bữa.”

Thanh gom gọn những món ăn dang dở trên bàn, dọn dẹp qua loa cho trống mắt. Tôi trở thành người thừa vì Thanh không cho phụ. Tôi còn biết làm gì trong thời gian chờ Tấn về là ngồi nhìn di ảnh bác Sa trên bàn thờ (bệ lò sưởi). Mắt tôi dừng lại ở hai cuốn báo Ca Dao mà trong trí nhớ tôi, một cuốn có bài thơ: “Trái tim người lính”*, cuốn kia có truyện ngắn: “Tuyệt tình cốc”*.

Một lần trong đời bầu bạn với người đáng tuổi cha mà tôi kính mến là bác Sa. Tôi viết về bác đâu phải để thờ! tôi viết cho tình bạn vong niên nhưng con gái bác đã hiểu lầm tôi nên thượng lên bệ lò sưởi là không phải lắm đâu! nhưng có nên nói không đây trước một tấm lòng?!

Tấn trở về mau chóng để thực sự bắt đầu cuộc nhậu không cần giữ lễ với cha chú, không cần sợ bác Vàng lo âu về con cháu của người bạn qúa cố.

Rồi cuộc vui nào cũng phải tàn để hẹn lại lần sau trong rắc rối của tình đời. Trước khi tôi ra về, Thanh cứ muốn tôi ra sân sau để xem lại những ngày tháng cũ! Tôi chiều ý cô chủ nhà cho vui vẻ trọn vẹn một ngày tưởng nhớ người thân, chứ tôi không bao giờ muốn nhìn lại những di vật của người thân đã khuất vì tôi cũng ưa mềm lòng.

“Tuyệt tình cốc” là công trình sáng tạo, mồ hôi, công sức của tôi với bác Sa. Sau ba năm tiêu điều theo quy luật cái gì cũng tàn. Nay nó lại trở về nguyên trạng sạch sẽ, u tịnh như một cái am của người tu hành. Những giây mướp xanh um một góc sân và cho bóng mát để ai thấy cũng muốn nán lại uống ly trà, ngồi nhìn trời mây trong thanh tịnh một trưa hè. Tôi nói với Thanh: “… những con ong cần mẫn/ đã bay về nơi đây…” Cô ấy trầm ngâm một lát mới nói: “… thì em đọc câu: những con ong cần mẫn/ đã bay về nơi đâu/ nắng chan chứa vườn sau…” trong truyện “Tuyệt tình cốc” của anh. Em hiểu ra anh không những nặng tình với bố em mà cũng nặng tình với cái Tuyệt tình cốc này lắm! Nên em với anh Tấn mới không làm nhà kho nữa mà dọn dẹp lại cho vừa ý anh. Từ nay, anh muốn ghé qua lúc nào tùy ý! Vợ chồng em tặng anh cái Tuyệt tình cốc của bố em để anh thủ thỉ với cụ khi xem hoa nở khi chờ trăng lên*… (Kiều)”

Lòng tôi vui như tết. Ngày xưa Thanh không thích tôi đã đành, tôi còn đọc được trong mắt cô ấy sự nghi ngại về một người chỉ lớn hơn cô không bao nhiêu tuổi mà sao kết bạn với bố của cô! Bố của cô là người thầm lặng, sống khép kín mà sao lại quen biết và có vẻ thân tình với tôi đến rủ rê về nhà chè chén. Tôi biết ngày ấy, Thanh nhìn tôi với ý ngại ngần làm sa đọa ông cụ chứ không khinh tôi, cũng không… nhiều thứ! Nhưng chuyện qua rồi còn nhắc nhớ làm chi.

Anh bạn trẻ-Tấn loay hoay trong bếp, tưởng dọn dẹp phụ vợ, ai dè anh đã pha được ấm trà. Khay tách hẳn hoi, coi bộ Tấn là người hiếu khách và rất biết hưởng thụ. Tôi bảo Thanh đỡ hắn cái khay vì hắn còn kẹp theo phích nước nóng. Tôi kéo cái bàn con dời vô bóng mát của giàn mướp. Chúng tôi ngồi uống trà ba người, chuyện vãn. Thanh đột ngột hỏi tôi một câu mà tôi rất không ngờ:

“Anh Phan ạ! Trong bài thơ ‘Trái tim người lính’, anh viết tay trên tờ giấy bạc của bao thuốc lá mà anh tặng bố em thì anh viết: ‘mỗi lần trăng sáng soi nhà vắng’ mà sao khi anh cho lên báo Ca dao thì anh lại sửa thành: ‘mỗi lần trăng sáng soi nhà bếp’. Em thấy từ ‘nhà vắng’ thơ hơn ‘nhà bếp’, anh có thể giải thích thêm?”

“… Em có thể cho anh hỏi một câu trước khi anh trả lời, không?”

“Em sẵn sàng. Mời anh.”

“…sao em không hỏi câu nào khác mà phải đúng câu đó trong bài thơ?”

“Chuyện vầy! Anh Phan. Một bữa đi học, đi làm về, em ngồi ăn cơm một mình dưới bếp. Bất chợt nhìn thấy trên tường có vệt đen-bút chì. Em đứng dậy xem thì thấy chữ “E” và chữ “M”, đọc theo tiếng Việt là chữ “em” viết hoa “EM”. Nhưng em lại nghĩ là bố viết tắt chữ Mỹ- chữ gì đó trong công việc làm của bố. Sau chữ “EM” viết hoa là bốn gạch tạo thành hình vuông, không nhớ bao nhiêu hình vuông vì em không đếm. Sau nữa là nhiều lần định hỏi bố: ‘sao không ghi note trên bảng, trên lịch chẳng hạn mà ghi trên tường cho bẩn tường?’ Nhưng em quên hỏi nhiều lần đến lần nhớ thì nghĩ lại: không nên hỏi vì bố em là người ngăn nắp, sạch sẽ như anh đã biết! Khi bố viết lên tường thì chắc chắn không phải do cẩu thả!

Sau đó em quên luôn, đến hôm em lau bụi bức ảnh thờ của mẹ, lau đến bát nhang thờ mới thấy tờ giấy bạc gấp làm tư dưới bát nhang-là lần đầu em đọc bài thơ ‘Trái tim người lính’ của anh. Em hiểu liền về chữ “em” mà bố đã ghi trên tường nhà bếp, nhưng muộn rồi. Trước khi tụi em làm đám cưới, anh Tấn xin phép bố cho sơn sửa lại căn nhà cho khang trang. Sau đó, bố em cứ ưa ngồi nhìn bức tường nhà bếp, cách nhìn lạ lắm! Mới đầu, em tưởng bố không ưng màu sơn. Đến một lần nửa đêm, em ra nhà bếp uống nước, thấy bố ngồi bất động, mắt nhìn chỗ bố ghi trên tường-đã trắng mới-đã xóa sạch những vết viết chì xám đen. Nước mắt bố lăn dài xuống tận cằm, xuất thần.

Em trở vô phòng khóc hết nước mắt. Em tưởng bố em buồn về việc em sắp lấy chồng. Hôm sau, em kể anh Tấn nghe, anh Tấn cũng nghĩ là bố không ưng màu sơn nên anh đến xin lỗi bố-để con sơn lại. Bố nói không cần. Khi hai đứa em hiểu được những vệt chì đen và chữ “em” qua bài bài thơ anh tặng bố thì… chỉ còn hối hận! Bố em không viết gì thêm từ đó.”

“Ra thế! Bài thơ anh viết cũng bởi cảm hứng từ chuyện kể về chữ ‘em’. Lúc anh viết trong đầu thì dùng từ ‘nhà bếp’ vì thật sự chữ ‘em’ được viết trên tường nhà bếp. Khi anh viết trên laptop của anh thì anh cũng thấy từ ‘nhà vắng’ thơ hơn như em nghĩ. Nhưng khi bỏ lên báo thì anh lại nghĩ đến tính trung thực nên cho đăng là ‘nhà bếp’ cho nó đúng với sự thật.”

Tấn ngồi nghe chuyện của tôi với Thanh, đến đây anh ta mới lên tiếng:

“Chữ nghĩa rắc rối thế sao? anh Phan. Theo em thì… nhà bếp đúng mà không thơ, nhà vắng thì thơ mà không đúng! Sao anh không viết là ‘bếp vắng’ cho vừa đúng vừa thơ!”

Tôi chưa kịp nghĩ thì Thanh lên tiếng:

“…đừng nghe anh Tấn nhà em. Nghe lời kỹ sư điện tử thì thể nào chữ nghĩa cũng tử vì điện đó anh Phan ơi!”

Thấy hai người bạn trẻ hạnh phúc, tôi vui thật sự về người thân, vui với bác Sa chỉ còn là những những làn khói xanh bốc lên từ nén hương khi người thân nhớ bác, thắp lên. Tôi qúy họ hơn họ biết vì tôi dở là không nói yêu ai khi tôi yêu họ đậm đà. Cuối cùng, tôi nói với Tấn:

“Anh đã là người ẩu nhất về chữ nghĩa rồi đấy! Được dịp trò chuyện với những nhà thơ mới biết họ chịu bỏ cả bài thơ vì không ưng một từ mà tìm không được từ thay thế đúng nghĩa, đúng vần, đúng điệu… cái tiếng Việt của mình dùng để truyền đạt thông tin thì dễ nhưng khi dùng để nói lên tâm tư tình cảm, diễn tả tâm linh thì người sau thường giẫm chân những người đi trước, nhất là ngôn ngữ thơ. Nên càng về sau này càng hiếm những bài thơ hay, không bởi sự hạn chế kiến thức vì đời sống ngày càng văn minh, khoa học kỹ thuật giúp con người có kiến thức rộng hơn cha ông ta ngày xưa, nhưng thơ thì muôn đời nghèo nàn ở khả năng sáng tạo từ cho thơ.”

Thanh hỏi tôi về món bò tái chanh trong ‘Tuyệt tình cốc’ mà hôm nay cô ấy làm lần đầu để giỗ bố và đãi tôi với bác Vàng. Tôi chẳng biết nói sao cho hết niềm vui trong lòng vì thật ra miếng ăn qúa khẩu thì tàn. Cái nghĩ đến nhau mới còn hoài trong kẻ có lòng. Ước gì đời sống được đối xử với nhau bằng tấm lòng để mỗi người còn có chút gì để nhớ để quên, để ấm áp trong đời sống lạnh lùng - cơm áo nơi đây.

Đường về nhà tôi không xa nên chưa dứt những suy tư thì đã về đến nhà. Cầm cái laptop ra sân là tôi gõ miết theo ánh tà dương chưa kịp tối. Nghĩ đến cô con gái bác Sa nay làm giỗ bố thịnh soạn như thế mà khâm phục tấm lòng nữ giới. Người Việt ảnh hưởng văn hóa Tàu nên cũng trọng nam khinh nữ như Tàu: nhất nam viết hữu thập nữ viết vô. Nhưng thực tế cuộc đời thì bác Sa được nhờ con gái, bố tôi được phúc con dâu vì năm nào cũng thế! Hiền thê tôi bất ngờ nói trong bữa cơm tối: “Anh ơi! Năm nay giỗ bố vào ngày đúng là thứ năm, thứ sáu gì đó. Anh muốn giỗ vào chủ nhật trước đó hay sau? Anh định mời những ai? Cho em biết để em liệu.”

Ích gì? Bổ béo gì con trai mà cầu tự! Ngồi nghĩ lung thì hình ảnh bác Sa lại tuôn theo những dòng chữ hiện lên màn hình laptop. Bác cũng mong có đứa con trai nhưng ý trời không thuận đến lúc mất. Nếu có linh hồn để về ăn giỗ thì chắc bác đã thấy mình sai dù sinh tiền bác đã yêu thương hết lòng cô con gái rượu. Hình ảnh bác Sa mà tôi quen biết tình cờ như duyên hội ngộ cũng thành chữ chạy dạt dào trên trang viết để thành bài viết thứ ba về một người đàn ông sinh bất phùng thời.

… dạo ấy, tôi mất việc ở hãng. Đi làm thế chân cho anh bạn ờ nhà hàng, anh ta đi Việt Nam cả tháng. Tôi đưa những phần ăn trưa vô bệnh viện thì gặp người đàn ông quét dọn hành lang có cái bảng tên Việt Nam hiếm hoi trong cái bệnh viện Mỹ yên ắng và lạnh lùng đến sợ. Cái tên “Sa Nguyen” của người lao công quét dọn hành lang làm tôi… “Kính chào nhà thơ tiền bối. Cho cháu hỏi thăm, phòng I.C.U đi lối nào?”

Lần sau, bác đang quét dọn, lau chùi trong phòng mổ nên mặc áo trắng như bác sĩ. Đầu đội nón trắng, bịt khẩu trang cũng trắng, chân đi giày vải trắng như thân cò. Thân cò lặn lội bờ ao vì miếng cơm manh áo gia đình đang làm tôi xúc động thì cái bảng tên “Sa Nguyen” lại làm tôi nổi hứng, tôi đọc: “có phải em mang trên áo bay/ hai phần gió thổi một phần mây…” bác ấy ngưng tay, kéo cái khẩu trang trễ xuống, cười nụ cười hiền và đọc tiếp: “… hay là em gói mây trong áo/ rồi thở cho làn áo trắng bay.” Một gìa một trẻ nên đôi bạn vong niên từ đó. Những hôm bác làm đêm, thể nào tôi cũng ghé thăm trên đường về nhà để uống ly trà, tán chuyện thời sự vu vơ cho thỏa lòng được nói tiếng Việt trong cái thành phố toàn mắt xanh mũi lõ.

Phan

………………………..

* trái tim người lính

(Kính tặng bác Sa)

em đi. nhà vắng, căn phòng trống
cơm nước anh lo mãi chẳng xong
mấy món đàn ông tù cải tạo
con bé mồ côi nó ốm tong
thương em nghiệt ngã đời con gái
lấy chồng khói lửa thời long đong
anh thua trận ấy đời đôi ngã
một nắng hai sương em gánh gồng
nuôi con còn bương trải nuôi chồng
mười năm cạn kiệt trái tim trong
anh về tóc trắng người thua trận
đầu con tang trắng mẹ ra đồng
em ơi! ngày giỗ tính theo năm
đời lính phong sương tính theo rằm
mỗi lần trăng sáng soi nhà vắng
anh viết lên tường một chữ: em
chữ đầu anh viết đã lem nhem
chữ cuối hôm nay mực ướt nhèm
rượu mừng đã uống con xuất giá
anh về với đất sống bên em.

Phan



--------------------------------------------------------------------------------


*Tuyệt tình cốc

Từ ngày tôi giúp bác Sa dựng lên cái Tuyệt tình cốc ngoài sân sau nhà bác. Tôi cũng muốn có một cái như vậy để tại ngoại những lúc cần yên tĩnh. Nhưng mỗi người mỗi cảnh. Nghĩ đến gia cảnh của tôi, chưa phải lúc cho mình tĩnh tọa. Không khéo lại nhàn cư vi bất thiện.

Hôm nay đến chơi Tuyệt tình cốc của bác Sa mới thích thú làm sao? Những dây mướp hương, mướp đắng leo xanh cả bốn bề vừa làm diệu nắng hè, vừa cho cảm giác nơi ở của một người quên-rồi-thế-sự, lãng nhân chăng? Trong cốc chỉ có một giường ngủ nhỏ, cái bàn viết con, vài quyển sách trộm không buồn lấy. Ngọn đèn bàn như đèn hột vịt ở quê nhà, có lẽ để đêm đêm chong đèn ngồi nhớ lại từng câu chuyện ngày xưa - tcs

Hôm nay tôi đi thọ giáo bác Sa món mới. Tôi đem đến miếng thịt bò loại ăn phở nặng đến cả kí lô. Bác Sa nhìn tôi ngao ngán mà phán rằng:

“Bao gìơ con mắt anh cũng to hơn cái bao tử. Tôi đã bảo chỉ độ nửa kí.”

“Bác đừng lo. Nếu nhiều thì cháu ‘to go’. Phải đem về khoe vợ nữa chứ.”

Bác Sa bắt tay vào việc bằng phong cách chậm rãi của người gìa. Bỏ miếng thịt lên tấm thớt, lạng đến không còn dính một chút mỡ. Đôi tay khằn năm tháng cũng thái ra được những lát thịt bò đỏ au. Bác đứng lâu qúa nên khi buông dao, thớt là ngồi phịch xuống chiếc ghế bố xoa bóp đầu gối, bắp chân. Vết sẹo đen sì dài theo bắp chuối là những gì còn lại của qúa khứ. Tôi chạnh lòng với ngày tháng cũ của bác khi nghe bác kể chuyện đời xưa:

“… Ngày xưa, tôi đi gài mìn. Khi tôi đặt những trái mìn ở đâu, chỉ có tôi với Trời biết. Nhưng khi phải đi tháo gỡ mìn của địch thì Trời lại chẳng nói tôi nghe. Tôi giải ngũ cũng bởi mìn của địch là chuyện gieo gío thì gặt bão. Một chút đau nhức về gìa nếu xóa được những đau nhức trong lòng thì có đau gấp mười lần tôi cũng chịu. Anh nghĩ có đúng không?…”

Tôi làm sao biết thế nào là đúng mà trả lời. Tôi đâu phải là người tham chiến. Tôi chỉ là nạn nhân chiến cuộc của cuộc chiến tương tàn mà mỹ từ hóa gọi tôi là chứng nhân lịch sử. Tôi gọi tôi là con ma đói của hòa bình. Kẻ tha phương cầu thực - tốt số đã sa vào hũ bơ sữa nước Mỹ. Trong đủ đầy sinh thói trưởng gỉa học làm sang. Bao gìơ tôi mới biết tới những khổ lụy mà thế hệ cha anh đang mang trong tâm tư!

Những người thích đùa như tôi thì nhiều lắm, suốt ngày chỉ kiếm cớ ăn nhậu là giỏi. Mở tiệc ăn mừng ngày vô quốc tịch Mỹ có khác nào đứa con nhà nghèo bỏ cha, bỏ mẹ. Đi xin làm con nuôi một gia đình giàu có để có ăn, có mặc. Vẻ vang gì mà khui rượu, khui bia… ăn mừng! Lúc no say lại khui ra chuyện trăm voi không được bát nước sáo. Những suy nghĩ miên man trong cái đầu ưa mặc cảm của tôi, chỉ có bác Sa là người thấu hiểu. Nên bác ưa cho tôi những lời khuyên…

Tiếng nước sôi reo vui trên bếp, tôi đi pha ấm trà theo lệnh bác Sa. Bác bỏ thịt đã thái vào cái thau nhựa, đổ vào đó hai lon nước dừa soda. Dùng đũa trộn đều. Bác bảo tôi đi uống trà, chờ cho chất soda trong nước dừa làm chín thịt. Khoảng hai mươi phút.

Tôi rót hai tách trà, ngồi uống với ông bạn gìa mà lúc có ba hột tôi thường gọi bằng Bố. Tội nghiệp bác ấy chỉ có một mụn con gái như làn khói mỏng đã quyện vào thân xác ma trơi của người chồng ốm không thua gì cô ấy. Nói theo Hoài Linh: Vợ chồng họ đi xe lửa không cần mua vé. Cứ đứng sát đường rầy - xe lửa chạy qua sẽ cuốn họ theo.

Thấy bác lặt rau răm, thái củ hành trắng. Tôi giúp thì không cho, bác ấy bảo tôi:

“Anh vắt cho tôi bốn qủa chanh vào cái bát, lược bỏ xác nhé. Tôi không thích làm cái việc vắt chanh bỏ vỏ.”

Tôi tự suy ra mình phải làm cái việc đê tiện ấy. Bởi miếng ăn, khoảng cách tuổi tác, tôi cũng đành nhịn nhục. Vắt bốn qủa chanh, đổ vào thau thịt một nửa theo lệnh bác Sa. Bác giải thích: chanh giúp cho nước dừa làm chín thịt. Dùng chanh chung với nước dừa để tránh tình trạng qúa chua như ngoài nhà hàng họ làm. Nước dừa ngoài tác dụng của chất soda làm chín thịt, mềm thịt, nó làm ngọt thịt một cách tự nhiên. Không phải xài bột ngọt cho món này.

Uống hai tuần trà. Tôi nhìn thau thịt đã tái như thịt tái trong tô phở. Bác Sa đổ hết ra rổ, chờ ráo nước dừa pha chanh vắt. Bác còn vắt bằng tay thêm cho thật ráo. Lại cho ngược vào thau, lần này bác nêm ít muối, chút đường, tiêu trắng, hai muỗng cà phê rượu Hennessy để khử mùi đông lạnh, cho vào phần nước chanh vắt còn lại, bỏ hết củ hành trắng thái sẵn vào trộn chung. Lại để mười phút nữa, củ hành ra nước và xìu xuống. Bác đi chiên bánh phồng tôm hiệu Quê Hương (chắc từ Việt Nam đưa qua). Tôi đi dọn bàn thành thạo như một tên tiểu nhị thứ thiệt. Lại bị mắng yêu:

“Đừng háu ăn thế! nhẩn nha nào!”

Bây gìơ bác Sa vắt thau thịt thật ráo nước lần cuối. Nêm nếm lần cuối, trộn vào ít rau răm, củ hành phi (loại bán sẵn ngoài chợ). Cho hết ra cái đĩa hột xoài, phủ lên một lớp rau răm thái nhống, đậu phông rang giã dập, ớt hiểm thái lát như hoa lạc giữa rừng răm. Nhìn cứ như một nấm mồ xanh cỏ. Hành phi như hoa vàng mấy độ ngả sang màu cánh dán, ớt đỏ như những cái huy chương không còn cần thiết cho một người đã nằm xuống - vương vãi. Chén nước mắm chấm chỉ có nước mắm với ớt hiểm thái lát. Tôi hỏi bác Sa:

“Hình như cháu nhớ. Thịt bò kỵ nước mắm mà bác Sa?”

“Tôi biết! Nhưng khi đã ngồi ăn uống với bạn bè thì nhất định phải có chén nước mắm. Nó là Quốc hồn, Quốc túy của dân ta. Chén nước mắm tuy nhỏ nhất trong bàn ăn, nhưng thường chiếm vị trí trung tâm, quy tụ được mọi người chấm chung vào đấy. Tình tự dân tộc cũng từ đấy mà ra. Anh em một nhà thương nhau hơn thương người hàng xóm vì họ đã chấm chung chén nước mắm từ khi biết nói. Nước miếng từ tất cả những cái đầu đũa hòa chung trong chén nước mắm tạo thành sự gắn bó gia đình. Vợ chồng chấm chung chén nước mắm ngày này qua ngày khác… tạo thành keo sơn.

Trên bàn ăn bây gìơ, mỗi người mỗi chén nước chấm nên không thiếu những chuyện huynh đệ tương tàn, ông ăn chả bà ăn nem.”

“Tóm lại. Theo ý bác là sự dây dưa nước miếng trong nước mắm tạo thành tình thương mến thương. Theo ý cháu, người ta hôn nhau lần đầu là biểu cảm, lần sau là khó cản bởi cơn ghiền chất nước mắm trong nước miếng của nhau?!”

“Anh thì chỉ giỏi những trò qủy quyệt! Thôi ăn đi.”

“ Vâng! mời bác!” (Không nói sớm giùm một chút! chờ hoài - nói thầm)

Bác Sa lại đều đều giọng gìa:

“Cái món này mà có xị rượu đế quê mình thì ngon tuyệt. Ở đây toàn rượu mùi, tôi không thích. Thằng rể mua cho tôi chai XO, uống cứ như uống nước hoa của phụ nữ. Tôi thích Glenfiddich, tương đối được nhất, gần nhất với rượu quê ta. Tôi thích đơn giản hơn cầu kỳ, của không mùi thường có vị, lại vừa túi tiền.”

Bác Sa lấy cái đĩa nhỏ, đơm một đĩa bò tái chanh. Rót ly trà bưng vô bàn thờ bác gái. Bác ấy đốt cây nhang. Thành tâm và lụ khụ khấn vái, như mời bà về ăn cơm. Bài học này khác hẳn món bò tái chanh. Tôi tự hỏi: còn được bao nhiêu người đàn ông như vầy trong trời đất đen thui màu bội bạc? Một thế hệ nhân lễ nghĩa trí tín đang lụi tàn. Tre gìa măng mọc… còi cọc.

Người xưa nói về ăn nhậu đơn giản là: “no say”, cái đạo lý no rồi mới say của người xưa nghe không bạt mạng như người nay: “không say không về ”. Đã say thì còn biết đường đâu mà về? Đó là tiền đề của ăn gian. Uống rượu chỉ có ăn gian là không say. Từ đó sinh ra ăn thua. Lúc tỉnh dậy trong phòng cấp cứu của bệnh viện thì ăn năn.

Tôi thưởng thức sự trình bày âm dương hòa hợp của rau răm, hành phi, đậu phộng rang. Thịt bò thuộc lành phối hợp với Scotch Whisky chắc chắn là dữ rồi. Nói tới đây, tôi sợ thầy Khê, nghe. Hồi đó thầy Khê dạy tôi về âm nhạc dân tộc thì tôi không nhớ gì hết, chỉ nhớ thuyết âm dương trong ẩm thực Việt Nam. Vịt luộc phải chấm nước mắm gừng vì vịt thuộc hàn - âm, phải phối hợp với gừng thuộc hỏa - dương. Thời ngày xưa hoàng thị của tôi, cơm không có mà ăn. Thầy ở Pháp về nói toàn vịt luộc với nước mắm gừng. Thèm bỏ…

Tôi thưởng thức bằng vị giác sau khi thị giác đã no, khứu giác đã đủ, cảm giác đã mòn mỏi. Cảnh giác thì không cần vì bác Sa không thuộc Hồi giáo cực đoan nên tôi không sợ khủng bố sinh học. Miếng thịt đã tái đến không còn cảm giác sợ thịt sống, bỏ vào miệng nghe ngọt ngọt, chua chua… không qúa chua như nhà hàng làm, thật. Cái ngọt tự nhiên của nước dừa và củ hành trắng không làm lợm giọng như bột ngọt. Rau răm the the, cay cay ớt, thơm thơm hành phi - đậu phộng rang giòn giòn. Cắn thêm miếng bánh phồng tôm rôm rốp… Thiên đàng và địa ngục gặp nhau trong màu hổ phách của Whisky. Lúc này chỉ sợ vợ kêu: Gìơ này anh ở đâu? Tôi tắt luôn cái điện thoại cầm tay, cho chắc.

Bác Sa ngồi nhâm nhi dưới bóng mát của giàn mướp. Những con ong cần mẫn say mật hoa mướp tận tình, tôi say bò tái chanh như chúng. Ong đi hút mật về nuôi gia đình ong - tôi đi nhậu nuôi ai? Không lẽ đi nhậu nuôi gia đình tôi. Xây hạnh phúc gia đình kiểu này là tiếp tay cho luật sư thêm giàu vì tối ngày làm hồ sơ ly dị không kịp. Khi no nê tôi ưa nghĩ lung lắm! Những con ong cần mẫn sẽ bay về nơi đâu? Bác Sa về đâu khi hoàng hôn cuộc đời đã tắt? Tôi mong cho bác được đoàn tụ với bác gái theo diện ông bà ở chốn thiên thai có động hoa vàng hay một hang động nào đó trong dải ngân hà xa tít. Nơi vĩnh hằng của những nguời yêu nhau trọn vẹn như bác và bác gái. Tôi nhìn cảnh ông gìa một mình, lòng lang dạ sói cũng ui ui buồn, nói chi lòng tôi, mới tới tầng ô trọc! Nhiều khi tôi cũng sợ cái lang bang trong tư duy tôi, nhất là lúc ba hột đắng uống hoài hóa ngọt. Uống như uống nước Ngọc tuyền / Từ đầu tiên mộng tới phiền muộn sau - BG. Để phá tan sự im lặng, tôi hỏi bác Sa:

“Bác ạ! Con bò ăn cỏ nên thịt nó lành, hiền. Người ta ăn thịt bò sao chỉ thấy lành chanh, lành choi…!?”

“Con bò ăn xong, nó biết nhai lại - con người thì không!”

“Vậy có thể nói: con heo ăn tất cả của thừa từ con người (cơm thừa canh cặn) nên nó động dục nhiều hơn động não. Con chó ăn đến phế phẩm của con người nên tính nết nó cũng tình cảm, nhớ dai, thông minh… Nhưng dồn chó đến chân tường thì quay cắn lại chủ. Phải vậy không bác?”

“Lý luận kiểu anh thì tôi chịu! Tư duy của anh cần phải có một chút giáo dục nữa… tiếc là thời anh đi học thì thầy giáo đi vượt biên hết rồi. Cái súc vật biện chứng như thế mà cũng nói ra được.”

“Bác có thấy: Con chó đầu đông thấy trộm nên sủa, con chó đầu tây có thấy ai đâu… cũng sủa. Từ đó cụm từ “chó hùa” ra đời để chỉ đặc tính loài chó. Trộm thì cứ trộm vì trộm biết chó sủa chó không cắn! Loài chó cắn chó không sủa thì đã tuyệt chủng theo đà tiến hóa của vạn súc vật. Nói theo di truyền học, loài chó cắn không sủa còn chăng chỉ là một gien lặn. Bao gìơ có đột biến gien thì cháu không biết. ”

Bác Sa cười rồi ngồi thừ ra đấy. Bác ấy thường như vậy. Rượu vào mà lời không ra, không biến những giòng suy tưởng thành lời. Có lẽ trong con người sau nhiều thăng trầm, bi hài của cuộc đời chỉ có thầm lặng là tử tế! Tôi không muốn bác ấy buồn vì những chuyện đã xưa như trái đất nên bắt chuyện trên trời dưới đất - vô thưởng vô phạt. Tôi hỏi thăm những người muôn năm cũ, bác ấy cũng không muốn nói. Chỉ ấm ớ như tôi không phải đối tượng có thể hiểu được những người tạm gọi là Anh em nhà Karamazov với bác. Bác Sa lại kể chuyện cho tôi nghe với ý gì không rõ!

“Ngày xưa, ông thầy tôi kể: Người tiểu đội trưởng dẫn mười hai người lính của mình đi tuần. Không may lọt ổ phục kích của địch, không may hơn là chỉ còn mình anh ta sống sót trở về. Người tiểu đội trưởng đến trình diện ông Đại đội trưởng - báo cáo tổn thất, trình bày chiến sự… Người tiểu đội trưởng nói với cấp trên: Lỗi tại tôi bất cẩn tạo nên tổn thất cho đơn vị. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm, tôi xin sẵn sàng thi hành mọi hình thức kỷ luật. Người Đại đội trưởng nhìn anh ta giây lát… ông ấy nói: Anh lên bệnh xá của đơn vị khám sức khỏe lại. Không bị gì thì cũng nghỉ ngơi ba ngày. Tôi sẽ giao cho anh mười hai người lính khác. Nhưng anh phải nhớ là đừng vấp một mô đá hai lần.* - tình trong chiến hào.

Anh thấy đấy, sự vấp ngã ở đời là điều không tránh khỏi. Người không khuyết điểm chỉ là một kẻ lười biếng không hơn không kém, thì lại thường công thành danh toại. Kẻ xông pha chỉ rước họa vào thân. Người tài đức lãnh đạo những người chính trực còn không thắng, thì những kẻ võ mồm mưu cầu gì đại sự? Không vấp một mô đá hai lần thì mấy ai?! Và thường là cái vấp lần sau trầm trọng hơn lần trước. Tôi đi vào quân ngũ như đi chơi thì xá gì chuyện đi qua biển. Nên gìơ mới ngồi đây thèm nắng quê nhà. Chẳng ai cấm tôi về, nhưng đường về quê xa lắc lê thê… không khéo lại là chuyện vấp mô đá lần thứ ba thì chết không nhắm mắt. Anh còn trẻ thì đi đứng cẩn trọng. Đừng đi ngang về tắt rồi ân hận sau này.”

Mặt trời lặn nẻo ngàn. Chai rượu cạn như mọi cuộc vui đều phải tàn. Tôi nói với bác Sa: Uống xong ly rượu cùng nhau / hẹn rằng mai sẽ quên nhau muôn đời .Oâng Bùi Giáng viết câu thơ tri kỷ ấy cho muôn đời sau. Bao gìơ bác Sa gặp ông ấy, cho cháu gởi lời kính bái tiên sinh. Bác Sa cười tiễn tôi ra về, mặt trời đã khuất. Vì sao hôm cô đơn trên bầu trời chứng dám cho cuộc chia tay lần cuối. Vì tôi không bao gìơ còn được ngồi với bác ấy lần nào nữa. Những lần gặp sau này trong nhà thương, bác ấy chơi với một rừng ống nhựa… Viết lại đây - buồn lắm! Cũng đâu cả năm trời, bác Sa nằm trong bệnh viện - ngày một héo tàn cho đến khi về với cát bụi. Ngày giỗ bác Sa, tôi ngồi uống ly rượu với anh con rể của bác ấy. Nhìn cái Tuyệt tình cốc đã biến thành cái storage (nhà kho) mà lòng buồn theo tình nghĩa xa xưa. Không còn những dây mướp hương, mướp đắng… Những con ong cần mẫn/ đã bay về nơi đâu/ nắng chan chứa vườn sau… Mong cho những linh hồn đọa đầy của một thời kỳ lịch sử được ngàn thu yên giấc trong cõi vĩnh hằng. Đừng vấp một mô đá hai lần. Bây gìơ thì bác ấy đã thực sự đi qua điều đó!

Phan

Thứ Ba, 17 tháng 7, 2007

“Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”

Thời Tông Tông Nguyễn văn Thiệu còn ngồi trên ngai vàng, Việt cộng không có ngán ông chút nào hết. Ngày nào chúng cũng pháo kích, đặt mìn, đào đường đắp mô, phá rối, khủng bố… đủ thứ chuyện trên đời, để lật nhào ông và làm cho chế độ tự do mau sụp đổ để chúng vào cai trị, đè đầu, đè cổ dân chúng miền Nam.

Thậm chí, chúng còn cho người “chui cao, luồn sâu” tận giường ngủ của ông để đêm đêm thọt cù lét cho ông nhột chơi nữa.

Nhưng khi, ông không còn cơ hội cầm cờ trong tay để phất nữa, thì chúng lại sợ và thù ông chí chết

Cả một đời làm tổng thống, ông Thiệu chỉ để lại cho hậu thế một câu danh ngôn “đáng đồng tiền bát gạo”, giá trị hơn nhiều tỉ Mỹ Kim, hơn hẳn 36 tấn vàng mà Bắc Bộ Phủ vội vàng bợ về Bắc chia chác cho nhau ngay những ngày đầu 75.

“Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”

Câu danh ngôn này, ba mươi mốt năm qua, đã làm cho Việt cộng xang bang xất bất. ( không phải cho người Việt hải ngoại tha bang thất quốc đâu)

Nó trở thành một câu “thần chú” vô cùng hiệu nghiệm để hoá giải các chiêu thức của Vi Xi đưa ra “mà mắt thiên hạ”.

Câu “thần chú” này được “nhân dân hóa” thành một “khẩu quyết” dễ nhớ, dễ thuộc để đối phó với ngón võ “Ơn Đảng, ơn Bác”.

Việt cộng bất cứ làm gì, nói gì, ban hành nghị quyết gì, người dân chỉ đọc câu “khẩu quyết” trên là mọi sự đều hóa giải thành con số không hết trọi.

Việt cộng lo sợ, điên đầu và căm thù cái “khẩu quyết” này vô cùng tận. Nhưng cũng không tìm ra chiêu thức mới nào để trừ khử tiêu diệt được nó.

Càng ngày cộng sản càng lộ chân tướng là con cáo đội lốt người, người ta mới thấy và khâm phục “tuệ nhỡn” của Tông Tông Thiệu. Nó giống y chang câu nói của tướng độc nhãn Do Thái Mosche Dayane: Muốn thắng Cộng sản thì hãy cho Cộng sản vô nhà.

Bây giờ thì cộng sản đã “lọt ổ” vô nhà rồi. Bây giờ thì cộng sản tuy tiếng rằng chiếm được đất nhưng đã thấm đòn bị thua. Từ thua tới thua trên mọi con đường: Chính trị, kinh tế, xã hội, nhân văn… nhất là nhân tâm. Người dân trong nước phản kháng chế độ hà khắc bằng cách bất hợp tác. Do sự kiêu căng, hãnh tiến và ngu dốt, họ đã kéo lùi dân tộc ngày càng trở về thời đồ đá, đồ đồng và bây giờ là đồ đểu.

Bây giờ thì Đảng ta ra sức hô hào đổi mới. “Đổi mới hay là ngỏm củ tỉ ” câu khẩu hiệu này đã được trương lên hơn hai mươi năm. Có lẽ dân miền Bắc thấy nó có đổi mới thật. Nhưng dân miền Nam thì thấy nó cũ xì. Nó đang trở lại y chang thời kỳ trước năm 1975 hay còn tệ hơn thế nữa.

Từ chiếc áo dài tha thướt được phục hồi thay cho bộ đồng phục vải Nam Định nhuộm nâu, nhuộm xám ngoài Bắc tràn vô, cho chí mấy cái “văn hóa đồi trụy” như thi tuyển hoa hậu, nhảy đầm…được Đảng ta ra sức phát huy và được long trọng gọi tên khác đi (tránh bắt chước tụi Ngụy) là “Duyên dáng Việt Nam” và “múa đôi” cho có vẻ “đậm đà bản sắc dân tộc” và “hoành tráng - ấn tượng”

Mấy bà già trầu, “má nuôi chiến sĩ” ngày xưa từng đào hầm, gánh gạo nuôi giấu “cán bộ ta” nay mất ruộng, mất nhà, ra vỉa hè nằm lăn lóc, xin ăn qua ngày, há hốc miệng ra, kêu lên:

- Chèng ơi! Sao thấy giống hồi thời Mỹ Ngụy dzậy cà? Nói cách mạng đổi mới sao không thấy tới mà cứ thấy thụt lùi hoài dzậy? Lão Thiệu nói thiệt đúng! Cách mạng mình nói dzậy mà không phải dzậy! Ơn Bác, ơn Đảng! Thiệt tình!

Nói dzậy mà không phải dzậy!

Mời độc giả xem qua cái quyết định dưới đây để coi Đảng ta “Nói dzậy mà…”

Quyết định số: 1568/QĐ-TTg, ngày 27 tháng 11 năm 2006

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Căn cứ Luật Đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003;

Xét đề nghị của Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương,

Quyết định:

Điều 1: Đồng ý chuyển mục đích sử dụng 58 ha đất khu nghĩa địa Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương do Quân khu 7, Bộ Quốc phòng quản lý sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triễn kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương.

Điều 2: Giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương…

Chỉ đạo việc quản lý khu nghĩa địa Bình An bình thường như các nghĩa địa khác theo qui định của pháp luật.



Điều 4:Bộ Quốc phòng (Quân khu 7) thực hiện việc di chuyển… hoàn tất trong tháng 7 năm 2007.

Thủ tướng Nguyễn tấn Dũng (ấn ký)
(Công báo số 09-10 (7/12/ 2006)

Trước khi xem cái Quyết định này có ý nghĩa gì, xin mời quí độc giả lượt qua môt đoạn phim ngắn về “quá trình công lao” của tướng râu kẽm Nguyễn cao Kỳ cho cái thành quả này.

Phim có tính chất hư cấu.

“Phó vương Kỳ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, vễnh hàm râu kẽm, hùng dũng tuyên bố với binh sĩ: - Chúng ta quyết đánh tụi Vi Xi đến giọt máu cuối cùng”. Xế chiều, trên TV người ta thấy Phó vương bay trực thăng ra hạm đội 7 của Hoa Kỳ. Cảnh tiếp theo Phó vương xô chiếc trực thăng xuống biển để hạ quyết tâm: - Không đánh đuổi được tụi Vi Xi ra khỏi nước, quyết không về! (Giống câu thề khi đi nhậu: Không say không về!)

Nhiều năm ( bắt chước Bác) tìm đường cứu nước tại Mỹ, Phó vương Kỳ bị thất bại liên miên. Đêm đêm ông mài kiếm dưới trăng, vừa uống X.O vừa chửi trời, chửi đất và chửi đời. Đời đã đá ông bầm dập. Không giống như trong hồi ký ông tự viết về đời mình như là “một đứa con cầu tự”. Đi đánh cá thì cá trốn ráo trọi. Bán ghe lên bờ, mở tiệm rượu. Khách chưa kịp đến mua thì Phó vương sẵn buồn tình trong lòng, nên uống hết sạch. Sập tiệm. Hết vốn vay mượn, phải đến ở nhờ nhà đàn em kiếm cơm qua ngày. Gia đình ly tán. Vợ là Đặng thị với con gái bỏ đi làm MC ca nhạc để mưu sinh.

Năm 1992, Phó vương làm đơn xin về nước, bắt chước Hàn Tín áp dụng “khổ nhục kế” để mưu đại sự. Bắc Bộ phủ vừa nghi kỵ vừa hận về mối thù cũ nên sổ toẹt đơn của Phó vương, không cho về.

Trong thời gian ẩn nhẫn đợi chờ thời cơ, Phó vương chiếm được trái tim bà vợ của đàn em mà mình đang ăn nhờ ở đậu. Người đàn em bị đàn anh “vi chủ thành khách” bèn “ta buồn ta đi lang thang bởi vì đâu!.

Tháng 6 năm 2003, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Việt cộng, Trần đình Bin, sang Mỹ làm công tác kiều vận, kêu gọi “đàn bò sữa đem sữa về nhiều thêm”. Phó vương chớp thời cơ mời Bin đi đánh gôn và ăn cơm nhà hàng. Dịp này, Phó vương xin Bin giúp cho về “thăm quê hương” một chuyến. Lấy cớ là tuổi già sắp theo Bác. Bin ngẫm nghĩ hồi lâu rồi gật đầu đồng ý giúp.

Năm đó, Phó vương về, đi lông rông, không làm nên tích sự gì vì Bắc Bộ phủ còn cho “âm binh” theo dõi và điều tra hành vi nhất cử nhất động “diễn tiến hoà bình” của tên phản động nhiều nợ máu với nhân dân.

Cũng thời gian đó, ở hải ngoại không hiểu được “chí lớn” của Phó vương cứ cho là tên phản bạn lừa thầy nên chửi rủa, thóa mạ kịch liệt. Trước những phản ứng gay gắt, giận dữ của tập thể “huynh đệ chi binh” và Cộng đồng người Việt hải ngoại, Phó vương chỉ nhếch hàm râu kẽm cười khinh bỉ. Cho bọn lính tráng và đám phó thường dân ganh ăn, ghét ở, là lũ chuột nhắt hồ đồ, là chim se sẻ làm sao biết được chí lớn của chim hồng, chim hộc.

Qua năm sau, Phó vương lập được công lớn. Lần này về nước, Phó vương dẫn theo mấy tay “đế quốc tư bản” mang kè kè túi bạc đô la xanh kếch sù, tìm kiếm đất đai tốt để lập nơi du hí. Bắc Bộ phủ thấy đô la đổ ra ào ào, híp mắt sung sướng. Từ đó, Phó vương được Đảng ta tin dùng, nhưng cũng “có mức độ”. Những lời nói của Phó vương đều được “trên” xem xét, mớm trước rồi mới được phát. Hoặc lúc cao hứng, bốc đồng Phó vương có phát ngôn loạn xị thì báo chí cũng được lệnh cắt xén, ráp nối thành những “hòn đá bắn hai chim”, làm cho Phó vương ở cái thế toòng teng “đi chẳng nỡ, ở không xong”.

Dịp may đến lần thứ hai, phước vô đơn chí, họa bất trùng lai, năm 2005, nhân dịp Tể Tướng Khải sang Mỹ cầu viện đô la, phu nhân mới của Phó vương (vợ của đàn em bị chiếm) thỏ thẻ với đức lang quận: -Thiếp có họ hàng với Tể Tướng Khải, tướng công nên tìm cách cận kề thì sẽ được nhiều lợi lộc về sau.

Vợ chồng Phó vương y kế, tìm cách lân la mời Tể tướng Khải đi “in roi” mấy chỗ nhảy sexy. Kết quả rất mỹ mãn. Tể tướng Khải hứng chí ra mặt.

Nhưng ban đầu, Tể Tướng Khải vẫn có thói quen “cảnh giác”, địch lúc nào cũng tìm cách xâm nhập phá hoại ta nên có ý nghi ngờ, e mụ này ý đồ “thấy sang bắt quàng làm họ” nên bắt mụ phải kinh qua “thử máu nhận họ”. Nếu đúng, mới cho lại gần.

Hai người nhỏ máu đầu ngón tay vào ly…nước lã. Hai giọt máu dần dần hòa vào nhau và lạ thay môt ngôi sao vàng hiện lên giữa màu máu đỏ tươi.

Thế là vui quá. Tha hương ngộ cố tri. Hỏi rõ ngọn ngành, té ra hai bên là thông gia.

Từ đó, những ngày ở tại Mỹ, Phó vương Kỳ với Tể Tướng Khải bá vai nhau đi đánh gôn và nhảy đầm, uống rượu và xem vũ sexy thoải mái.

Một hôm, đang lúc vui vẻ, Khải bỗng thở dài, mặt sụ xuống, tỏ vẻ buồn bã. Kỳ ướm lời hỏi han. Khải than rằng:

- Mấy năm nay, bọn Việt kiều gởi tiền về nước nhiều quá, gần bằng 1/5 tổng số tiền cả nước làm hộc máu một năm. Với món hời như thế, bất chiến tự nhìên thành, khoẻ re như bò kéo xe, nên Đảng ta thừa thắng xông lên, muốn moi thêm càng nhiều càng tốt, bèn kêu gọi “hòa hợp hòa giải” để chiêu dụ bọn nó mang đô la về nước làm ăn. Nhưng, kêu khản cả cổ, tốn nhiều giấy in nghị quyết này quyết định nọ vẫn chẳng thấy mấy đứa về. Chỉ tại cái thằng Thiệu nó đầu độc bà con ta là “Đừng tin những gì cộng sản nói”.Ta nghĩ đến đó là lòng thấy buồn, miệng ăn không thấy ngon, rượu X.O uống không thấy đậm đà, mấy em không còn mấy hấp dẫn như trước!

Thời cơ đến, Kỳ được dịp tỏ lòng tri kỷ, hiến kế:

-Tể tướng đừng lo lắng quá mà có hại cho mình rồng. Thần nghĩ, chiêu dụ bọn nó không khó gì. Bọn nó có tính nhân của đàn bà và hay quên. Bây giờ Đảng ta chỉ cần tỏ ra chút ít nhân đạo thì bọn nó sẽ “hồ hởi phấn khởi” quên hết quá khứ đau thương ngay ráo trọi.

- Bằng cách gì? - Khải hỏi tới.

- Trước tiên, theo ý Thần thì nên trả lại Nghĩa trang Quân đội Biên Hoà cho bọn họ.

- Tại sao trả cái nghĩa địa xác chết mà bọn nó lại yên lòng được?

- Hãy bắt chước Nguyễn Trãi “lấy chí nhân mà thay cường bạo”. Bước một Ta vờ hòa giải với người chết trước. Bước hai hòa giải với người sống. Khi được rồi thì ta nắm đầu chúng chẳng khó gì. Cái sách lược 10 ngày học tập để tỏ lòng nhân đạo khoan hồng cũng còn xài tốt lắm. Khi bọn chúng lũ lượt kéo về thì ta sẽ…

- Ừ! Nghe cũng phải. Để ta xem xét cẩn thận mới được.

Đó là rượu nói. Về đến nhà Tể tướng Khải quên tuốt lời hứa. Phó vương Kỳ lại được ( bị) người Việt hải ngoại chửi bới thêm một trận te tua nữa.

Nhưng cũng nhờ bà vợ có chút máu mủ thông gia với Tể Tướng Khải nên vợ chồng Phó vương Kỳ về Việt Nam đều đều như đi chợ để làm “Cò” và “trúng quả” nhiều lắm.

Có người tò mò hỏi:

- Tụi Việt cộng nó thù Ngài lắm. Sao bây giờ cho Ngài đi đi, về về Việt Nam như con thoi vậy?

Kỳ cười bí mật, hàm râu kẽm nhúc nhích lên xuống, hạ giọng thầm thì:

- Mấy “người anh em” họ tha thiết mời tôi về đấy chứ. Tôi nào có thèm lậy lục van xin như cái bọn bố láo, bố lếu ở ngoài này vu cho tôi. Tôi có sứ mạng!

Đùng một cái, Tể Tướng Khải bị Bắc Triều cho rớt đài. Anh nông dân du kích nửa mùa ở miền Tây là Nguyễn Tấn Dũng được Hồ Cẩm Đào đưa lên thay thế. Ban đầu, Bắc bộ phủ ai nấy đều ngạc nhiên lấy làm lạ. Một người như Dũng không có tí thành tích gì trong quá khứ, lại là dân miền Nam không tin được, bỗng chốc nhảy tót lên bàn độc. Sau, bức màn thâm cung bí sử được ông cựu TBT Nguyễn văn Linh hé ra mới biết: Nguyễn tấn Dũng và Nguyễn chí Vịnh đều là “Hổ chủng” của tướng Nguyễn chí Thanh, một tướng của Bắc triều đào tạo, giống như Nông đức Mạnh là “Long chủng” của “Bác Hồ muôn vàn kính” yêu vậy.

Mọi người lúc đó mới mừng rỡ, sung sướng thở phào ra: - À ra thế!

Thời gian cứ đủng đỉnh trôi và mấy cái sân gôn “hoành tráng đầy ấn tượng” ở Sài Gòn, Phú Quốc, Hà Nội…được hình thành.

Phó vương Kỳ trúng mối lớn, ăn chia huê hồng phần trăm với “mấy người anh em” một cách rất “ấn tượng” và vui vẻ trên mức tình cảm.

Trong lúc cụng ly X.O với “mấy người anh em” vấn đề “hòa hợp hòa giải” với người chết lại được Phó vương khoèo lại với Tể tướng Dũng.

Tể tướng Dũng trẻ,đẹp trai, mặt mày sáng sủa, tuy hơi dốt một chút, nhưng không sao. Bác Mười đã từng là thợ thiến heo, Bác Anh từng là phu đồn điền cao su có học hành gì đâu? Thì đã sao? Vẫn đánh thắng được ba tên đế quốc đầu sỏ thế giới. Nước ta vẫn từng bước tiến vững chắc tới hố Chủ Nghĩa Xã Hội đó mà.

Tể tướng Dũng tửu lượng rất cao, xưa kia lúc còn là du kích, đã từng chơi hàng lít đế Gò Đen, nên uống rượu X.O như uống nước lã. Lần này vừa cụng ly với Kỳ vừa bàn chuyện “lấy nhân nghĩa mà thay cho cường bạo” rất lấy làm tâm đắc.

Sau khi cạn chừng ba chai X.O Hennessy, Tể tướng Dũng vỗ vai Phó vương Kỳ và quyết:

- Nghe người anh em nói, tui thấy được quá! Tui chơi tới bến luôn!

Nói thì nói vậy, Phó vương về nhà thao thức chờ đợi “ Cú chơi tới bến”, không ngủ được, hai con mắt cứ trỏm lơ như hai cái vỏ con nghêu úp lên vậy.

Mãi cho đến ngày 27 tháng 11 năm 2006 mới thấy cái Quyết định ở trên ban hành. Phó vương Kỳ chụp vội và đọc cái Quyết định rất kỹ. Đọc tới đọc lui năm lần, bảy lượt vẫn không tin ở mắt mình cái hàng chữ ỡm ờ trong quyết định viết rành rành:

“Điều 1: Đồng ý chuyển mục đích sử dụng 58 ha đất khu nghĩa địa Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương do Quân khu 7, Bộ Quốc phòng quản lý sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triễn kinh tế-xã hội tỉnh Bình Dương.”

Phó vương Kỳ lẩm bẩm:

- Mẹ nó! Mình lại mắc lừa nó rồi! Hôm trước mình xin nó làm một “cú” thật ngoạn mục để mình lấy điểm đặng dằn mặt với cái bọn bố láo hải ngoại rằng là:

“Đảng và Nhà nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam xin trả lại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa cho thân nhân các tử sĩ Quân lực VNCH, được trùng tu phục hồi như cũ, để tỏ thành tâm thiện chí trong việc “hòa hợp hòa giải dân tộc”.

Mà bây giờ, trong quyết định, chúng lại nói khơi khơi “chuyển sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triễn kinh tế”.

Thế là thế nào? Thế có chết mình không chứ!

Hôm sau, Phó vương Kỳ ôm theo cái bản sao Quyết định lên Phủ Tể Tướng xin gặp Dũng để dọ hỏi xem người soạn thảo có viết nhầm hay không. Chầu chực mãi cho đến trưa, bụng đói, mắt hoa, tay chân bắt đầu bắt chuồn chuồn mới được Dũng cho kêu vào.

Phó vương Kỳ chưa kịp nói lời nào, Tể tướng Khải đã chặn họng:

- Tôi đã biết ý anh muốn nói gì rồi. Đây là quyết định của Bộ Chính trị, chứ không phải cá nhân tôi. Tôi có hứa với anh thật, nhưng anh cũng rõ là Đảng và Nhà nước ta đều ở trong cơ chế làm chủ tập thể. Việc anh nêu ý kiến thì tốt đấy. Nhưng Trưng Ương xét thấy mấy cái hài cốt của lính Ngụy đánh thuê cho Mỹ nằm đấy phí đất đi. Nay Đảng quyết định dụng 58 ha đất đó làm kinh tế thì tỉnh Bình Dương nói riêng và đất nước ta nói chung sẽ giàu to. Anh cứ tính nhẩm xem thì biết: Cứ 1 mét vuông trị giá sơ sơ chừng 1 lượng vàng y bốn số chín.

58 ha = 58.000 m2 x 1 lượng vàng = ???

- Thôi anh lui ra. Khỏi ý kiến, ý cò gì nữa. Đảng đã quyết rồi. Không thể sửa.

Nói xong, sai cận vệ đuổi ra cửa.

Phó vương Kỳ tính trong bụng chắc mẫm kỳ này lập công to nhưng không dè cú đá giò lái của Tể tướng Dũng còn độc hơn cú đà đao của Quan vân Trường hay cú hồi mã thương của La Thành nên đứng chết trân. Hai hàng râu kẽm trên mép bỗng quặp xuống, trở nên cứng hơn thép, làm cho môi trên không nhúc nhích được. Từ đó Phó vương Kỳ bị chứng á khẩu. Chỉ có miệng ăn chớ không có miệng nói.



Trở lại cái chuyện nghĩa địa Bình An và Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa.

Thế hệ sinh sau năm 1975 có lẽ không biết cái trò lập lờ đánh lận con đen về chữ nghĩa này: Nghĩa địa và nghĩa trang.

Suốt chiều dài chống cộng giữ nước hơn hai mươi năm, mười tám ngàn lính chiến VNCH miền Nam đã hy sinh và được chôn cất tại đây. Phần đất mà những người lính anh dũng đã yên nghĩ vĩnh viễn ở đây đã được Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa long trọng đặt tên là Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa.

Sau năm bảy lăm, không những Việt cộng bắt tất cả Quân, Cán, Chính miền Nam vào các trại tù để lao động khổ sai mà chúng còn giam cầm cả người chết để trả thù. Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa cũng bị giam cầm, canh giữ suốt ba mươi hai năm bởi Quân khu 7. Tính chính xác đến ngày hôm nay là 32 năm 2 tháng.

Chúng cố tình xóa đi cái tên “Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa” và thay vào đó cái tên “nghĩa địa Bình An” để người dân lâu ngày quên đi cái di tích này.

Hành động trả thù người chết của Việt Cộng để thỏa mãn lòng hận thù không thua gì hành động của Vua Gia Long đối với nhà Tây Sơn thuở xưa.

Câu “nghĩa tử là nghĩa tận” đối với cộng sản không có nghĩa lý gì.

Tất cả các nghĩa trang công hay tư khắp miền Nam đều bị cào mồ, cuốc mả, san bằng để chiếm dụng vào việc gọi là “dân sự”.

Nghĩa trang VNCH ở Cần Thơ, ở Gò Vấp, bị san bằng ngay trong những năm đầu tiên để xây nhà cho cán binh VC ở. Nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, nghĩa trang Bắc Việt, Nghĩa trang Chí Hòa cũng bị san phẳng để làm công viên.

Hãy ngẫm lại mà xem, hài cốt lính Mỹ rãi rác khắp nơi từ núi cao cho đến chốn rừng sâu, Việt cộng cũng cố công đi tìm từng lóng xương, để trao trả cho Chính quyền Mỹ. Còn mồ mả lính Cộng Hòa, những người anh em cùng da vàng máu đỏ thì bị cào đi là nghĩa làm sao?

Ngày xưa, Việt cộng xem Mỹ là kẻ thù không đội trời chung, nay lại trải thảm đỏ mời rước vào Dinh Chủ tịch nước vào Phủ Thủ tướng. Trong khi “những khúc ruột xa ngàn dặm” lại cấm cửa. Muốn vô nhà phải xin phép. Vậy cớ làm sao?

Tất cả chỉ vì đồng đô la màu xanh chứ không thể vì cái chữ “nhân” vô nghĩa.

Miệng thì hô hào “hãy quên thù hận cũ để hòa hợp hòa giải” mà bàn tay lông lá lại thò sang tận hai hòn đảo hoang ở Mã Lai và Nam Dương đập nát hai tấm bia của người tỵ nạn.bị bỏ thây dưới lòng đại dương trên đường chạy trốn cái chế độ bạo tàn. Hành động đó đã đủ nói lên cái chủ trương “giết tuyệt, diệt tận” của VC.

Tờ Nhân Dân trong số đề ngày 29 tháng 12/2006 có đăng một tin, tựa đề: “Xây dựng, quản lý và sử dụng nghĩa trang nhân dân phải theo qui hoạch”

Nội dung cho biết là Bộ Xây Dựng đang lấy ý kiến hoàn chỉnh dự thảo “Nghị định về xây dựng, quản lý và sử dụng nghĩa trang nhân dân” trình Thủ tướng trong thời gian tới.

Nhiều người có con em, chồng con hay thân nhân, bạn bè được chôn cất trong Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa bấy lâu nay, rất đau lòng vì không được bén mảng tới nơi để thăm viếng, thắp nén hương trên mộ hằng năm như trước, nay nghe thấy cái Quyết định vừa ban hành của Thủ tướng Việt cộng Nguyễn Tấn Dũng đã vội mừng. Và họ cho rằng cộng sản đã đến lúc hồi tâm chuyển ý. Đồ tể bậy giờ đã chịu bỏ dao xuống để thành Phật.

Nhưng qua những sự thật vừa liệt kê trên, cho thấy cộng sản không từ một thủ đoạn nào để xóa bỏ tất cả “tàn tích” của chế độ cũ.

Bao nhiêu di tích lịch sử đã bị phá bỏ, bao nhiêu nghĩa trang đã bị san bằng, thì cái Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa là cái gai cuối cùng Việt cộng phải nhổ đi thôi. Đã nhổ được cái gai trước mắt, thu được một số tiền khổng lồ từ người chết, lại được tiếng “hòa hợp hòa giải” thì ngu gì mà không làm.

Đạo lý là cái gì? Lương tâm là cái gì? Chỉ là thứ xa xỉ của bọn tiểu tư sản. Người cộng sản không có và cũng không cần những thứ vô bổ đó.

Nó không giúp ích gì cho công cuộc xây dựng và tiến lên Xã hội Chủ nghĩa, tiến tới Thế giới Đại đồng.

Rồi đây, sau thời gian ấn định, tháng 7 năm 2007, tỉnh Bình Dương chắc sẽ ra thông báo cho dân chúng khẩn cấp di dời mộ ở “nghĩa địa Bình An”. Mộ nào không di dời sẽ được coi là mộ hoang, chính quyền sẽ “giúp đỡ di dời”.

58 ha đất vàng ở đây sẽ được mau lẹ chia lô bán để phát triển kinh tế - xã hội.

Chẳng mấy chốc sau đó nhiều hotel ba sao, năm sao sẽ mọc lên. Sân gôn hoành tráng sẽ khánh thành. Nhiều nhà tắm hơi mát xa, cà phê ôm, làng nhậu… sẽ nở rộ. Đám tư bản đỏ cùng cậu ấm cô chiêu sẽ dập dìu kéo nhau tới đó ăn chơi du hí thả dàn.

Người dân nghèo đứng hai bên đường nhìn cảnh tượng đó sẽ ngậm ngùi than lên rằng: Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu nói không sai,

“Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”

Nguyễn Thanh Ty

Thứ Sáu, 13 tháng 7, 2007

Chủ tịch Nguyễn Minh Triết báo cáo

“… người Việt tại Mỹ cũng có một số phần tử phản động nhưng Nhà Trắng đã triệu tập họ để cảnh cáo trước khi ông đến Mỹ …”

Bộ chính trị đã họp để nghe chủ tịch Nguyễn Minh Triết báo cáo về chuyến công du Hoa Kỳ.

Mở đầu chủ tịch Nguyễn Minh Triết nói :

- Báo cáo các đồng chí, chuyến công du Mỹ của tôi đã đạt kết quả rất tốt. Ngay khi đặt chân lên đất Mỹ tôi đã vào ngay thành phố Niu Oóc, trung tâm của tư bản Mỹ, tôi và phái đoàn đã xâm nhập dễ dàng thị trường chứng khoán, cơ quan đầu não của nền kinh tế Mỹ. Sau đó tôi đã đến Oa Sinh Tơn, vào thẳng Nhà Trắng, nơi tổng thống Mỹ và bộ tham mưu làm việc, rồi trụ sở quốc hội Mỹ. Tôi cũng đã đến bang Ca Li Foóc Nha, bang giàu có nhất nước Mỹ. Tôi và phái đoàn không gặp một sự chống cự nào từ các lực lượng võ trang Mỹ.

Về khả năng hợp tác với Hoa Kỳ, ông Triết nói:

- Khả năng này là có thật, tuy nhiên nước Mỹ vẫn còn nhiều giới hạn. Họ chưa hiểu rõ thế nào là pháp luật, ngay cả ở cấp cao nhất. Tổng thống Mỹ cũng như các dân biểu, nghị sĩ đều đặt với tôi vấn đề nhân quyền, họ chất vấn tôi tại sao lại bắt giam một số người đối lập và đòi ta phải trả tự do cho các phạm nhân mà họ gọi là những người không cùng chính kiến. Tôi đã giải thích cho họ rằng nước ta không hề có việc đàn áp những người khác ý kiến, ngay trong nội bộ đảng ta cũng có những ý kiến khác nhau trên các vấn đề cụ thể. Tất cả những người bị bắt đều đã chỉ bị bắt vì vi phạm luật pháp. Nước ta không cho phép công dân hoạt động chính trị và có chính kiến ngoài khuôn khổ đảng và nhà nước, những phần tử xấu đó đã vi phạm qui định này và bị trừng trị như mọi thường phạm. Phải nói với các đồng chí về điểm này, các cấp lãnh đạo Mỹ tỏ ra chưa hiểu, họ còn kém về mặt luật pháp. Sự yếu kém về mặt luật pháp và an ninh của Mỹ biểu lộ rõ ràng trong sinh hoạt thường ngày. Họ thiếu hẳn chính sách hộ khẩu và các qui định về tạm trú, tạm vắng. Ai muốn đi đâu thì đi, ở đâu thì ở. Về thông tin báo chí thì quả thực là hỗn loạn, ai muốn ra báo cứ ra, gởi bất cứ gì lên mạng Internet cũng được. Từ chỗ không có luật pháp, Mỹ đi đến thái độ sai lầm khi cho rằng các biện pháp quản lý trị an của ta là vi phạm nhân quyền.

Chủ tịch Nguyễn Minh Triết nhận định rằng về mặt quản lý trị an Mỹ còn cần rất nhiều tiến bộ và Việt Nam sẵn sàng giúp Mỹ cải tiến.

So sánh với những chuyến công du trước đây của các đồng chí Nông Đức Mạnh, Lê Đức Anh, Trần Đức Lương và Phạm Văn Khải, chủ tịch Nguyễn Minh Triết cho rằng chuyến đi của ông đã gây được tiếng vang hơn hẳn. Trước đây những chuyến viếng thăm cao cấp này không có được một tin nhỏ, trái lại chuyến viếng thăm của ông ta đã là chủ đề của rất nhiều bài báo ; nhiều hãng truyền hình Mỹ cũng đã đưa lên hình ảnh của đồng bào tại Mỹ tiếp đón ông. Chủ tịch Nguyễn Minh Triết nhấn mạnh rằng tại khắp nơi ông đã đi qua, Niu Oóc, Oa Sinh Tơn cũng như Ca Li Foóc Nha, hàng ngàn đồng bào Việt Nam đã tập trung hai bên đường để đón ông nhưng chính quyền Mỹ đã ngăn cản không cho đồng bào đến gặp ông để trả đũa việc chính quyền ta ngăn cản không cho các dân biểu và nghị sĩ Mỹ gặp một số người có vấn đề tại Hà Nội trước đây. Báo chí Mỹ đều nhìn nhận rằng chưa bao giờ mà một quốc trưởng đến thăm nước Mỹ được nhiều người nghênh đón tưng bừng như vậy.

Trả lời câu hỏi của bộ trưởng công an Lê Hồng Anh về sự kiện có tin cho rằng những người Việt Nam biểu tình là để chống lại chuyến đi của ông, chủ tịch Triết nói rằng báo chí Mỹ đã thông tin sai lạc vì thiếu sự quản lý chặt chẽ của nhà nước. Chủ tịch Nguyễn Minh Triết nói thêm trong cộng đồng người Việt tại Mỹ cũng có một số phần tử phản động nhưng Nhà Trắng đã triệu tập họ để cảnh cáo trước khi ông đến Mỹ. Sau khi ông ra về, Nhà Trắng cũng đã triệu tập họ, ra lệnh cho họ phải im lặng. Sau đó những phần tử này đã không dám phát biểu gì cả.

Đáy

Thứ Năm, 12 tháng 7, 2007

Nhà Nước "Lo Cho Dân"

“Vợ chồng người bạn Việt kiều tốt bụng của chúng ta đã trở lại nơi định cư là đất nước Mỹ, không lưu lại đất nước mình, ăn Tết ở quê hương à?”

Một người bạn cà phê vỉa hè hỏi vậy, khi thấy cả tuần lễ rồi, vắng mặt vợ chồng người bạn Việt Kiều. Vợ chồng anh Ch. đều là bạn học cũ của chúng tôi, từ gần bốn mươi năm trước, ở đại học Văn Khoa Sài Gòn. Người thì gật đầu thay câu trả lời, người thì nói:

“Ðất nước mình bị ‘người nước mình’ chiếm mất từ trên ba mươi năm rồi, còn đâu nữa để mà ăn Tết ở quê hương?!

Anh Ch. từng “học tập cải tạo tập trung”, quá thấu hiểu, đầy trải nghiệm ở các miệt rừng-rú-học-đường của “thiên đường cộng sản”. Ấy tuy nhiên anh Ch. không can dự vào ý tưởng của “bà xã”, còn nguyên vẹn trong lành về quê hương đất nước. Nên “bà xã” anh Ch. hồn nhiên bực bội khi biết mấy ông Mỹ leo lên nóc nhà bảo tàng ở Thảo Cầm Viên Sài Gòn để bảo vệ an ninh cho tổng thống Mỹ tới đây, dịp hội nghị cấp cao APEC. Và chị còn nói: “Bây giờ chống cộng là lỗi thời rồi. Ở bên Mỹ, chả ai còn chú ý, để tâm vào cái việc chống cộng gì nữa. Nhà nước nào, phương Tây, đất Mỹ hay cộng sản cũng đều phải lo cho dân là chính.”

Anh em chúng tôi, kể cả anh Ch., đều phải chào thua nhận định của phụ nữ. Và chỉ còn biết bàn luận bên bàn cà phê với nhau, cho đỡ tức:

“Nói cái chuyện lo cho dân, phải nói hệt như vô số các ông Việt cộng, tức là những ông cộng-sản-thứ-thiệt, nguồn gốc xuất thân từ nông thôn miền Bắc xã hội chủ nghĩa (tràn ngập Hà Nội ngàn năm văn hiến đã mất): “Bà con chớ ‘no’, để nhà nước ‘no’.” Ðúng vậy, nhà nước no rồi (không cần nói ngọng), nên con cháu đích tôn của bác-và-đảng không cần ăn cái món ăn tinh thần là tư tưởng ‘Bác Hồ’. Vô số ‘con cháu đích tôn’ ấy du học bên Mỹ, để lại trọn vẹn món ăn tinh thần ấy cho người dân trong xứ sở được no. Chả biết những con cháu chúng ta, học các ngành chuyên môn ở trường lớp, ''được'' nhà nước bắt học cái môn lịch sử đảng cộng sản và chính trị các thứ (có ''tính cộng sản'' 100%) , tính vào điểm thi cuối năm và ra trường, thì nó sẽ tốt hay nó sẽ chỉ tệ hại cho việc học hành, kết quả chuyên môn của sinh viên?

Ở các nơi trên thế giới, nơi nào cũng hiểu được rằng, học giỏi là giỏi cái môn chính mà mình theo học, chứ không phải là giỏi cả những môn phụ. Các ông cộng sản, dù thôi nhai lại như con vẹt chỉ nói một câu ‘vừa hồng vừa chuyên’, nhưng thực tế, bây giờ (và đến bao giờ?), vẫn y như vậy. Sinh viên có đạt điểm cao về ngành học chuyên môn, mà không đạt điểm về môn chính trị lịch sử “bác và đảng” thì ‘tiêu’. Ðấy là no (ứ hơi) về tinh thần. Còn về thực phẩm để nuôi dưỡng thân thể, thì cứ dân cứ tha hồ mà no với vô số thứ thực phẩm chứa chất đầy hiểm họa: Thịt heo từ con heo có chích thuốc tăng trọng, rau quả có phun thuốc trừ sâu, thuốc cho trái to đẹp và được mùa thu hoạch...

Mới đây, ngành chức năng kiểm nghiệm chất độc hại của rau quả có phun thuốc trong khi trồng trọt, đưa ra thị trường tiêu thụ, lắc đầu: không thể rửa hết dư lượng thuốc phun ở rau xanh. Và chỉ còn kêu gọi nông dân hạn chế tối đa một số thuốc phun cho rau quả! Thế thì cũng phải chào thua, bởi người nông dân cũng phải có đồng tiền nuôi thân. Không có những thuốc phun (độc hại) ấy, rau quả nào đạt tiêu chuẩn để người tiêu dùng tiêu thụ, người nông dân lấy đâu đủ tiền để sống? Thôi thì chúng ta chấp nhận nói ngọng vậy: chúng ta vẫn luôn luôn ‘no’!”

Liêu Tú

Thứ Hai, 9 tháng 7, 2007

'Vô Ra Thằng Cha khi Nãy'

"Vô ra thằng cha khi nãy" là một thành ngữ người Việt thường nói để mô tả một sự kiện, một nhân vật cứ xuất hiện nhiều lần, dưới những hình thức khác nhau, khiến người ta tưởng lầm rằng đó là nhiều người, nhưng thực chất chỉ là một người, một "thằng cha ấy" mà thôi.

Ví dụ như trên sân khấu, nay thì khán giả thấy nhân vật nầy xuất hiện, chốc nữa lại thấy nhân vật khác nhưng thực chất cũng chỉ là một diễn viên mà thôi; khi anh ta đóng ông quan, khi đóng vai anh lính, còn thực chất cũng chỉ "một anh chàng", chỉ là "thằng cha khi nãy".

Cũng có thể đó là lời chê của khán giả khi họ bình phẩm một vở tuồng, một diễn viên khi vào khi ra sân khấu, cũng chỉ là "thằng cha" ấy mà thôi.

Đó là chuyện sân khấu cải lương hay kịch. Còn một thứ sân khấu khác nữa, cũng không kém nhàm chán. Đó là sân khấu chính trị. Trên sân khấu chính trị cũng có nhiều vở tuồng, nhiều nhân vật, coi cũng rất hấp dẫn. Tuy nhiên, trên những sân khấu chính trị của những chế độ độc tài, xem ra cũng có nhiều tuồng tích hấp dẫn, cũng có hiến pháp, cũng có phân quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, cũng có họp hành phê bình, cãi cọ, thậm chí đánh lộn nhau u đầu chảy máu, cũng có hoan hô và biểu quyết, nhưng tựu chung, cũng chỉ có một thằng: Đạo Diễn. Cho nên dù có nhiều tấn tuồng coi vui lắm, tưởng như dân chủ lắm, tự do lắm nhưng thực chất cũng chỉ là "Vô ra thằng cha khi nãy".

Trước đây nước ta có hai sân khấu chính trị. Một sân khấu ở trong Nam và một ở ngoài Bắc. Sân khấu nào coi cũng vui và cũng "hấp dẫn" đối với những người dân nhẹ dạ, dễ tin, ngu ngơ về những thủ đoạn chính trị.

Sân khấu trong Nam thì đã dẹp tiệm từ 30 tháng Tư rồi, đã "Nằm xuống trong lòng đất lạnh". Vì bài nầy nói chuyện phiếm nên tôi chẳng nhắc lại làm chi. Nói như Nhất Linh thì "Đời tôi để lịch sử xử". Lịch sử cũng sẽ xử cái sân khấu chính trị miền Nam đó. Bây giờ xin nói đôi điều "Thằng cha khi nãy" của sân khấu chính trị miền Bắc.

Sau khi nắm chính quyền nhờ cái gọi là "Cách Mạng Tháng Tám", Hồ Chí Minh xây dựng chế độ dân chủ cho nước Việt Nam hồi ấy. Bề gì thì cũng đã hô hào "Độc Lập - Tự Do". Nói là tự do mà một nước dân chủ không cho bầu quốc hội thì cũng kỳ cục nên mới có cuộc bầu cử quốc hội ngày 6 tháng 1 năm 1946. Bầu xong rồi mà đắc cử thì chỉ có cán bộ Cộng Sản với những người "ủng hộ Việt Minh". Nên nhớ cho rằng Việt Minh là một phong trào của Cộng Sản Việt Nam hay nói trắng ra là cái áo ngoài của họ. Trong quốc hội không có ai là người đối lập. Các đảng phái khác không tham gia hoặc tham gia nhưng không thể đắc cử được vì "Bầu cử không ngay thẳng" như lời cha tôi nói hồi ấy. Vì là đầu mùa dân chủ, vì là "người xưa", ăn nói còn dè dặt nên cha tôi không dùng những tiếng như người ta nói sau nầy như "bầu cử gian lận", "ăn gian phiếu", "tráo trở đổi thùng phiếu, đổi kết quả", v.v.

Do áp lực của "Quân Tàu Tưởng", tức là áp lực của mấy ông tướng Tàu phù thuộc phe Tưởng Giới Thạch, Hồ Chí Minh bèn nhường cho các "Đảng phái Quốc Gia" (Cộng Sản gọi là "Đảng phái phản động") 70 ghế trong quốc hội. Trò nầy chỉ là "hoãn binh chi kế" của Hồ già. Sau đó thì 70 ông đại biểu quốc hội trong cái trò nhường ghế đó, ai nhanh chân thì toàn mạng, ai chậm chân thì bị cho mò tôm dưới đáy sông. Mò tôm là một cách giết người bí mật và không còn dấu tích. Không cần bắn giết hay đâm chém gì cả, cứ cột một hòn đá cho thật nặng vào cổ nạn nhân rồi thả xuống giữa dòng sông. Hòn đá sẽ "keo sơn" giữ chặt nạn nhân cho đến khi xương thịt nạn nhân rã ra từng miếng nhỏ. "Ai biết mô mà tìm". Nhà văn Khái Hưng cũng bị Cộng Sản Việt Nam cho đi mò tôm theo cách như vậy đấy.

Năm 1955, sau khi Tây cuốn gói khỏi miền Bắc, quốc hội của chế độ Cộng Sản Việt Nam lại họp, lại bầu đi bầu lại mấy lần, bao giờ trong quốc hội của chế độ Cộng Sản Việt Nam cũng có đại biểu ba đảng "đàng hoàng". Một là đại biểu đảng Cộng Sản, hai là đại biểu đảng Xã Hội, ba là đại biểu đảng Dân Chủ. Nói tới đại biểu tức là nói tới đảng. Vậy thì miền Bắc hồi ấy có ba đảng: Đảng Cộng Sản, đúng đầu là "Bác Hồ muôn vàn kính yêu" của Nông Thị Xuân, hai là ông Nghiêm Xuân Yên đảng trưởng (hay chủ tịch gì đó cũng được) của đảng Dân Chủ, ba là ông Nguyễn Xiển của đảng Xã Hội. Hễ một khi đại biểu đảng Cộng Sản Hà Nội đưa ra một cái gì đó, chẳng hạn là một nghị quyết, một tuyên cáo (lên án đế quốc Mỹ thả bom miền Bắc chẳng hạn), một đạo luật để "giữ gìn kỹ cương phép nước" đại biểu hai đảng kia "triệt để ủng hộ" hay "nhất trí hoan hô". Ông Nguyễn Xiển là một người hay nhìn trời nhìn đất và nhìn trăng sao vì ông nguyên là cán sự khí tượng; còn ông Nghiêm Xuân Yêm tuy là "dòng dõi", tuy là "sinh viên" nhưng theo nhận xét của nhiều người ông có cái tật hay ngủ, nhất là khi vào ngồi trong nghị trường. Nhờ bệnh hay ngủ mà ông được một đời an nhàn sung sướng.

Đến khi "giải phóng miền Nam" xong rồi, ông Nguyễn Xiển cho đăng trên nhật báo Nhân Dân nhiều bài viết, ca ngợi "Thiên tài của Đảng Ta". Sao lại "đảng ta" nhỉ? Ông ta là thủ lĩnh đảng Xã Hội, tại sao gọi đảng Cộng Sản là "đảng ta". Có gì khó hiểu đâu mà thắc mắc. "Vô Ra Thằng Cha Khi Nãy" cả đấy. Dù là đảng Xã Hội của ông thầy bói thời tiết Nguyễn Xiển hay là đảng Dân Chủ của ông sinh viên hay ngủ gật Nghiêm Xuân Yêm, cũng chỉ do một mẹ sinh ra, người mẹ đó là đảng Cộng Sản Việt Nam. Bà Âu Cơ còn đẻ ra được một trăm cái trứng thì đảng Cộng Sản Việt Nam có đẻ ra đảng Xã Hội, đảng Dân Chủ, rồi đặt hai cái nôi trong tòa nhà quốc hội mà ru con thì cũng chỉ là "Vô Ra Thằng Cha Khi Nãy".

Sau đại hội Cộng Sản Việt Nam lần thứ tư (tháng 12/1976), Cộng Sản Việt Nam thấy cần phải đổi tuồng mới trên sân khấu chính trị, đảng Lao Động lột áo trở ra sân khấu trong vai chính đảng Cộng Sản Việt Nam, và hai tài tử phụ Dân Chủ và Xã Hội được nghỉ hưu non, cho về vườn. Bấy giờ thì không còn "Vô Ra Thằng Cha Khi Nãy" nữa mà độc chỉ có "Một mình Thằng Chả" mà thôi.

Lê Duẩn là người tự cao, tự đại. Duẩn làm cái việc mà Hồ Chí Minh không làm được: "Thống nhất đất nước", rửa mặt cho Hồ Chí Minh cái tội cắt đôi đất nước Việt Nam ở vĩ tuyến 17, và "Mở ra một thời kỳ phồn vinh nhất trong lịch sử đất nước". Qua hai cái đó, y thấy y công lớn hơn hết những nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, mắng luôn Hồ Chí Minh "Bác biết gì!" Trên đời nầy, tự cổ chí kim, không ai bằng "Tổng bí thư sơ học yếu lược" nên y bèn cho hai anh tép riu Nguyễn Xiển và Nghiêm Xuân Yêm về vườn để nghiên cứu về "đảng ta" của chính ta và tiếp tục ngủ giấc ngàn thu, xuống âm phủ nhìn trăng sao mây gió để đoán thời tiết cho Diêm Vương.

Một thời mấy ông "Mặt Trận Giải Phòng Miền Nam" thấy mình to lắm. Nhiều ông thì được chức chủ tịch. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ thì được chức chủ tịch mặt trận lớn (Cả miền Nam), luật sư Trịnh Đình Thảo thì được chức chủ tịch nhỏ (Mặt trận Dân tộc dân chủ hòa bình gì gì đó), Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát thì được chức thủ tướng, tướng Trần Văn Trà thì được chức tư lệnh, và "tướng" Nguyễn Thị Định thì được chức Phó tư lệnh, nhưng sau 30 tháng Tư, "Thống nhất đất nước" thì được "Ngồi chơi xơi nước". Nguyễn Hữu Thọ tuy là Phó chủ tịch Quốc Hội nhưng khi nhân được đơn khiếu nại của chồng Nguyễn Thị Vàng thì vội vàng "ém" đơn. Nếu lương tâm một ông luật sư như Nguyễn Hữu Thọ, một ông miền Nam thẳng tính "Dẫu thấy bất bằng mà tha", "lương tâm cắn rứt" thì tới nha sĩ bẻ mẹ nó cái răng của lương tâm đi để nó lkhỏi "cắn rứt". Ông Phó thủ tướng Huỳnh Tấn Phát thì vê quê cũ ở Gò Công đắp mền nằm ngủ, "tướng không quân" Trần Văn Trà về Hà Nội làm thứ trưởng "Không bộ" Quốc Phòng.

Trên sân khấu, "nhờ đã thống nhất đất nước" nên bây giờ rộng hơn, thoáng hơn, nhưng nhìn đi nhìn lại cũng chỉ "Vô Ra Thằng Cha Khi Nãy" hay nói cách khác là chỉ có Cộng Sản "Một mình một chợ" mà thôi.

Sở dĩ Cộng Sản sắm những tấn tuồng "Vô Ra Thằng Cha Khi Nãy" hay "Một mình Một Chợ" là vì họ là đảng của giai cấp công nhân", "phục vụ đất nước", vì "chống lại tư sản, địa chủ bóc lột", v.v.

Nếu bọn tư bản là người ngoài đảng, nếu bọn địa chủ là người ngoài đảng, chúng sẽ bóc lột tàn tệ và trắng trọn công nhân, nông dân, chúng sẽ đàn áp nhân dân lao động.

Vậy để tránh cho nhân dân lao động khỏi bị bóc lột và đàn áp, đảng Cộng Sản Việt Nam cho đảng viên nám giữ lấy vai trò của bọn chủ tư bản, vai trò bọn địa chủ bóc lột. Nói như thế có nghĩa là đảng viên, nếu ai có tiền bạc, có vốn liếng từ nay có thể đứng ra làm "nhiệm vụ kinh tế", có thể lập nhà máy, hãng xưởng, mua cổ phiếu để làm ông chủ, mua đất đai để làm địa chủ.

Khi đảng viên làm ông chủ tư bản, khi đảng viên làm địa chủ, thì "vì lý tưởng Cộng Sản", "vì lợi ích của nhân dân lao động", "vì tổ quốc xã hội chủ nghĩa", người dân việt Nam sẽ được "đảng ta" "phục vụ" kỹ hơn nữa, nhiều hơn nữa, "tích cực" hơn nữa, "triệt để" hơn nữa, chắc chắn chẳng mấy chốc nước ta sẽ thành đạt một "thời kỳ vẻ vang nhất trong lịch sử dân tộc" như "Đồng Chí Tổng Bí Thư Lê Duẫn kính mến" đã hứa cuội (hứa hẹn).

Từ là "Đảng của giai cấp công nhân" nay trở thành "Chủ của giai cấp công nhân", như thế cũng chỉ là "Vô Ra Thằng Cha Khi Nãy".

Từ là "người đầy tớ trung thành của nhân dân" nay bỗng trở thành ông chủ tư bản là "người bóc lột nhân dân". Thế cũng chỉ là "Vô Ra Thằng Cha Khi Nãy".

Bọn phản động và "Những thế lực thù địch" thấy rõ nguy cơ của chúng đang bị mất phần ăn ở trong nước. Chúng sẽ "ra sức chống lại đường lối chính sách của đảng ta". Chúng nói rằng "đảng ta" cho đảng viên làm nhiệm vụ kinh tế là để "rửa tiền" là một sự "vu cáo trắng trợn", chúng nói rằng khi đảng viên làm nhiệm vụ kinh tế, tự biến thành những ông chủ, địa chủ bỏ rơi chủ nghĩa Mác là một sự xuyên tạc và ngụy biện nhằm lật đổ vai trò lãnh đạo của đảng.

Chắc chắn "bác" Hồ ở dưới âm phủ sẽ rất vui mừng khi thấy đảng viên giàu có. May ra khi giàu có, chúng sẽ mua vàng mả cùng cho "bác" một cái mền vì hiện "bác" đang bị Diêm Vương trị tội, đêm đêm lạnh lẽo vô cùng.

"Bác" Hồ ơi! "Bác" có khôn thiêng thì hãy về đây mà xem con cháu của "bác" đang "vận dụng chủ nghĩa Mác một cách trí tuệ" để lột cho tới cái quần lót của nhân dân lao động Việt Nam.

Tuệ Chương hoànglonghải

Thứ Sáu, 6 tháng 7, 2007

Chân Và Giả



“… Cái gì giả nghĩa là đã từng có thật nhưng bây giờ không còn nữa thì người ta mới làm giả để tưởng nhớ - theo nghĩa tinh thần như tượng thuyền nhân vượt biển, theo nghĩa tiện dụng như cái chân-gỉa của người thương binh. Khi người ta làm gỉa như hai thí dụ trên là vì cái thật qúy gía không còn. Nhưng cái thật vẫn còn mà người ta cứ làm gỉa là gỉa dối như hột xoàng gỉa (không đeo hột xoàng đâu có chết). Còn làm gỉa để gạt người gạt mình là gỉa nhân gỉa nghĩa như thức ăn chay (trai) được trình bày qua hình thức mặn (mạng). Không ăn đùi gà, heo quay bằng bột cũng đâu có chết.”

“Thưa tiên sinh! Hôm nay tiên sinh, ốm?!”

“Tôi chẳng ốm đau gì sất.”

“Tiên sinh hiểu lầm rồi! Ý tôi muốn nói là tiên sinh liệu hồn! không khéo thì tiên sinh ốm đòn.”

(Cả bàn cười ha hả).

“Tôi biết! Cánh đàn ông ngoài garage này không nỡ đánh tôi vì nhìn đi nhìn lại thì tôi to xác nhất, các bà trong nhà thì còn lo ăn chay cho no bụng để có sức mà bàn về việc đai-ẹt (diet). Sau đó lo… lo qua lo lại hai cái lọ, chẳng ai rỗi hơi mà tẩm quất cho tôi. Các ông còn nhớ người xưa có câu: ‘điếc hay ngóng, ngọng hay nói’ với câu: ‘xấu ưa làm tốt, dốt ưa nói chữ’ là thói đời nó thế! Người nông dân nắng mưa dãi dầu nên ưa nằm mơ thấy mình là quân vương, sống trong nhung lụa. Hoàng thượng sống trong nhung lụa thì lại thường nằm mơ thấy mình ra đồng với cái cày, con trâu cho đời thanh thản. Tương tự như thế! Những người học thật thường ẩn dật, nên ngoài lề đường mới nhiều học gỉa, tiên sinh… chữ nghĩa bây giờ rẻ nên người ta xài hoang!”

“Vậy! Xin hỏi: Tiên sinh đây là học gỉa hay học thật, ạ!”

“Tôi bảo ông dốt thì ông không tin vì ông tin tôi dốt hơn ông. Nhưng tôi nói ngược lại, nói cho đúng ý ông thì ông hoang mang vì ông cũng đâu tin ông giỏi đến thế! Sau đó, ông đổ thừa cho tôi là kẻ nịnh để ông không chịu trách nhiệm về việc tôi khen ông giỏi - khi có ai chất vấn ông. Nhưng thâm tâm ông hài lòng với ý nghĩ mình giỏi một cách trí trá hơn cả câu nịnh bợ - cũng gỉa trá nốt - nếu tôi có nói. Cái chân và gỉa trệu trạo muôn đời để cùng tồn tại cho mọi thành phần, mọi hoàn cảnh… có thể lý giải được những việc không nên làm trở thành chấp nhận được và những việc đương nhiên trở thành vô lý - khi cần. Nếu tôi là học thật thì tôi đã ngồi nhà gãi đầu gối chứ đâu cất công đến đây để hầu chuyện các ông dốt thâm căn cố đế mà trường hợp cá nhân tôi đã chứng thực được câu: ‘ở bầu thì tròn ở ống thì dài’; ‘gần mực thì đen gần đèn thì sáng’ có tự ngàn đời.”

“Chắc tiên sinh đã thấy sao hộ mạng của tiên sinh tắt hôm nay?”

“Thì sang năm, các ông được đi ăn giỗ kẻ hèn này!”

“Lão này hôm nay phải gió thì phải!”

“ Đùa với các ông cho vui. Đừng ai đánh tôi nhé. Tôi mà biết vợ chồng gia chủ nhà này cho ăn chay thì tôi đã ở nhà làm homework, (xe cần thay nhớt, cần rửa, cỏ chưa cắt, tóc chưa hớt…) Nhưng cái tật ham vui và nhất là… ham ăn. Đúng là tham thực cực thân mà mò đến đây”.

“Thế tiên sinh đã nghe: ‘miếng ăn qúa khẩu thì tàn’?”

“Tôi biết cả: ‘không ăn một miếng lộn gan lên đầu’ Nhưng thật tình mà nói thì tôi không thích mấy - khi nhìn món ăn chay mà làm cho giống cái đùi gà (một cọng xả giống giống như cái xương đùi của con gà, chung quanh bọc mì căn, nhân bên trong là đậu hũ, nấm mèo với cà rốt xắt sợi, bún tàu…) Công nhận là ngoài những người phụ nữ chỉ biết đi mua thì người phụ nữ Việt Nam khéo tay mà theo tôi là nhất thế giới, nhìn y như cái đùi gà chiên ngoài tiệm ông gìa mắt kính (Kentucky). Không biết khi cúng, người được cúng có nổi giận?! Khi ăn, người mời ăn và người được mời ăn có lừa được mình là ‘real chicken’ hay không?!

Tôi thì chịu, ban nãy đến đây, tôi thấy dĩa heo quay đỏ tươi trên bàn. Ỉ chỗ thân tình nên tôi rón ngay một miếng - khai vị. Ai dè, hoàn toàn là bột. Lớp đỏ tươi bên ngoài nhìn hấp dẫn như da heo quay, kế đến lớp trắng trong như mỡ, đến lớp đục màu thịt heo chín. Lớp bột trong cùng còn quét màu nâu-nâu-đen, nướng cháy cháy y như heo quay chánh hiệu ông Tàu. Bỏ vô miệng rồi mới biết là hiệu ông… Phật.

Thời buổi này lường gạt lấn sân vô tới cửa thiền môn rồi sao trời? Đến khi vỡ lẽ ra là ngày tẩy trần nên các bà cho ăn chay. Thế là tôi thất vọng! Ra đây uống bia với các ông, không biết các ông có cảm giác (cảm nhận) như tôi: Cữ hễ ăn chay thì thèm mặn, ăn cơm thì thèm phở, (đừng nghĩ lung tung đấy nhá!) Nhân danh sự ấm ức cá nhân, tôi kể về thịt chó bảy món cho các ông nghe vì đêm qua tôi khó ngủ, cứ trằn trọc mãi mới nghĩ ra là mình nhớ thịt chó! Coi như chuyện ăn mặn nói ngay ăn chay nói dóc”.

“Chúng tôi thấy tiên sinh chỉ còn có ăn đòn là biết thân…”

“ Trong đám không dám đánh mình vì sợ thì có ngày, có kẻ bỗng hết sợ! Và trong đám không nỡ đánh mình vì thương thì cũng có ngày, có kẻ hết thương! Nên tôi biết dừng lại ở cái chừng mực… sắp ăn đòn! Yên chí đi.

… các ông biết không? Thịt chó ăn theo miền nên đừng nói là ở đâu có con chó ngon nhất; ở đâu nấu ngon nhất, cũng trật hết. Thần dân cẩu xực (là ăn thịt chó chứ đừng nghĩ là ăn như chó, tiếng Tàu nói ngược, nó thế!) cùng đồng ý với nhau là: nhất mực nhì vàng tam khoang tứ đốm. Nhưng không có bốn thứ cao cấp ấy thì con vằn, con vện cũng ngon như thường bởi người hiểu biết đâu có mấy: ‘đông mè hè khuyển’ là kinh điển. Mùa đông lạnh nên hỏa nhiệt tâm thân không bốc ra ngoài được, các cụ ta ăn cá mè là loại thực phẩm hàn - mát để giải bớt thân nhiệt. Mùa hè nóng làm cho thân nhiệt bốc qúa, tâm thân bị hàn nên ăn thịt chó là thực phẩm hỏa - nóng để sưởi lòng. Ý nghĩa của câu ‘đông mè hè khuyển’ được giải thích theo thuyết âm dương trong y học cổ truyền và tư tưởng phương Đông là thế.

Như người Đại Hàn, nội cái tên quốc gia của họ, nghe đã đóng băng nhưng họ chén thịt chó vào loại nhất hành tinh là vì con người và con chó có thể ăn chung mọi loại thực phẩm - trừ phế phẩm từ con người thì con chó không phải giành với con người. Nhưng con gì sống chung với con người thì cũng đồng nghĩa với trên đà tuyệt chủng! Con người ăn con chó để bảo toàn thực phẩm cho mình ở miền gía băng. Nghèo đói thì ai dư hơi mà nghĩ đến thuyết âm dương. Nam Hàn mới khá lên đây thôi, cứ vào Nhà hàng của một dân tộc, nếm qua các món ăn đặc sản của họ thì đoán được dân tộc đó giàu hay nghèo. Ẩm thực, ngoài việc nói lên Văn hóa dân tộc, nó còn nói lên sự giàu nghèo thâm căn cố đế của dân tộc ấy. Có ai tìm được cái đầu cá hay ruột cá trong Nhà hàng Mỹ? Con tôm lớn đã đành, con tôm bé teo, họ cũng bóc vỏ chứ không ăn cho có chất vôi (can-xi) như lý giải ở những nước nghèo.

Còn ở quê ta, miền Bắc thuộc xứ lạnh nhưng đâu phải nhà ai cũng có ao cá mè để ăn. Các cụ ta ăn thịt chó bốn mùa vì đói nghèo cũng như Đại Hàn vậy. Trong miền Nam nóng bỏ bu, đúng là nên ăn thịt chó theo câu: ‘đông mè hè khuyển’ nhưng chẳng ai ăn trước khi có người Bắc di cư vào Nam mà đúng nhất là trước khi Hòa bình lập lại. Sau ’75 không ăn thịt chó thì ăn thịt nhau à? Có thịt gì đâu mà ăn! Ơn cách mạng là ở chỗ đó. Trước ’75, người miền Nam không ăn thịt chó, người Bắc có ăn bởi nhớ quê xưa chứ không phải đói cá, đói thịt đến phải ăn thịt chó trong đất miền Nam. Nói tóm lại: Thuyết âm dương bát ngát nên chỉ giành cho giới học gỉa khi trà dư tửu hậu; giới học thật - tay làm hàm nhai tay quai miệng trễ thì có cái bỏ vào miệng đã là may trên một đất nước điêu linh. Trên tinh thần ấy, tôi kể các ông nghe:

Gia đình tôi thuộc diện di cư (Bắc ’54), tôi đi tàu há mồm vào Nam từ khi còn rất bé nên chẳng nhớ gì nhiều về quê hương Bắc bộ. Người trong Nam hát nhạo người Bắc di cư là: ”từ Bắc vô Nam tay cầm bó rau, tay kia cầm sợi dây để trói con cầy…” không sai, không sai vì chính tôi được ăn thịt chó ngay trên tàu há mồm. Mẹ tôi dấu cách nào thì tôi không biết, cứ thỉnh thoảng bỏ vào miệng tôi một miếng thịt luộc đã khô săn, cho có chất thịt… chó, làm như không ăn thì mất gốc Bắc không bằng! Trên tàu, họ có cho ăn tử tế! Tôi còn nhớ thế. Nhưng tôi nhớ cái mùi thịt chó luộc đã mươi ngày ấy đến đêm qua, đến hết đời tôi cũng có thể lắm! Tôi nhớ song song với hình ảnh đoàn người di cư xuống tàu như đàn gia súc, có những ông Tây cao to xịt thuốc trừ chấy rận. Không có họa cộng sản thì con người đâu bị chà đạp nhân phẩm, khinh khi đến đụng chạm vào lòng tự ái ngay trên quê hương mình để đời đời ấn tượng trong tuổi thơ.

Theo ông cụ tôi thì thịt chó luộc xong ăn ngay sẽ bị khai khai mùi nước tiểu trẻ con, nên người sành điệu là luộc xong cái đùi trước của con chó (đùi trước ăn thịt luộc, đùi sau ăn rựa mận là sành điệu) thịt luộc treo lên gác bếp giăm hôm, chẳng thiu thối gì đâu, (thịt chó có cái đặc biệt là ăn bị giắt răng đến hôm sau cũng không hôi, treo đến khô không hư) khi hạ xuống thái lát vừa ăn thì thịt rất săn chắc vì đã róc hết nước, bay hết mùi khai, chấm miếng mắm tôm, ăn kèm với cái lá mơ, lát riềng non thái mỏng thì linh hồn bay đến thiên đàng. Chắc thế nên mới có truyện: “Trẻ con không được ăn thịt chó” của đại văn hào Ngô Tất Tố, đã lột mặt nạ để phô ra bộ mặt thật của con người và cuộc sống trên một miền đất nước lầm than.

Nhưng khi miếng thịt chó di cư, khi vào miền Nam rồi thì chỉ có nhịn thèm vì không thấy người trong Nam ăn thịt chó nên các cụ di cư ưa nhắc nhau như chúng ta giờ đây ưa nói về những món ăn bình dân ở quê nhà - tùy miền của người nói (kể). Sau ’75 thì Nam Bắc một nhà - đói rách như nhau nên ăn thịt chó có tính thống nhất từ Bắc vô Nam. (Món chó xào lăn, hầm nước dừa bắt đầu xuất hiện ở những xóm làng miền Nam. Đạo đời xào xáo là chó nấu chao, ướp chao nướng vỉ).

Riêng tôi, nhiều đêm nằm nhớ thịt chó như nhớ người yêu. Tôi nói bà xã thì bà ấy hỏi ngược lại mình: “Bây giờ về Việt Nam, liệu anh còn dám ăn không?” Tôi thật không trả lời được vì chính mình đã thay đổi rồi thì phải?! Bởi cứ nhìn những đứa trẻ trong nhà mình, chúng nó ôm ấp, hôn hít con chó như người bạn thân thì mình có nỡ ăn thịt bạn của con mình không? Nói ra thì sợ người đời mắng nhiếc: trưởng gỉa học làm sang. Tôi nín thinh như lúa trong bồ tới hôm nhà tôi xin đâu miếng mẻ, bà ấy đi chợ mua cá trê, riềng, thì là… đủ gia vị để thực hiện món cá trê om mẻ. Đến lúc hỏi tôi: “Anh còn nhớ ngày xưa mẹ nấu món này ra sao không?”

Tôi trổ tài liền! Ôi thôi. Tôi bày la liệt cái nhà bếp. Vợ tôi dọn dẹp thấy tội luôn. Tội nhất là bà ấy phải lồng đến mấy lượt bao ny-lon để trút nồi cá trê om mẻ của tôi vào và đi bỏ thùng rác”.

“Nam mô a di đà Phật! Bạch tiên sinh, hôm nay bọn hèn không ăn chay thì đã khiêng tiên sinh ném xuống bể bơi. Chuyện bá vơ thế cũng kể.”

“Nhưng tôi thành công món khác, các ông ạ! Để tôi kể cho các ông nghe trước, nếu được chấp nhận thì lần sau họp mặt, tôi làm cho các ông thưởng thức.”

“Được. Tiên sinh mà bá vơ thêm một lần nữa thì chúng tôi xử trảm tiên sinh đấy!”

“…thế này, tôi cho là thất bại cái món cá trê om mẻ bởi hai nguyên do: Cá trê đông lạnh nên thịt con cá bị ứ máu trong đó mà phát tanh (tanh khiếp). Thứ hai, mẻ ở đây vàng vàng chứ không trắng như hũ mẻ ngày xưa ở nhà tôi. Tôi vào Sở làm hỏi một chị bạn - Bắc rặt. Chị cho biết: Con mẻ ở đây yếu lắm, không khỏe như con mẹ! Mẻ Mỹ không ăn cơm thiu, cơm thừa như bên nhà được. Chị phải nấu cháo đặc, để nguội cho mẻ ăn và giữ vệ sinh cẩn thận cho hũ mẻ trong tủ bếp, nghĩa là nơi không nóng cũng không lạnh, không sáng cũng không tối, thì mẻ mới trắng được. Mẻ bị vàng nghĩa là có qúa nhiều con mẻ chết trong đó nên khi nấu lên ăn có hậu đăng đắng. Té ra mẻ vàng thì đắng mẻ trắng thì chua, mẻ chùa thì… tôi không biết! (Các ông cười cái gì? Đừng có mà ăn chay nghĩ mặn!)”

“Đúng là đồ con mẻ…”

“Nhưng không có con mẻ thì cũng phiền lắm cơ! Tôi tự gầy cho mình một hũ mẻ, trắng phau nhá! (Đừng có cười. Để tôi nói) J Tôi nhớ da diết cái mùi rựa mận ăn với bún tươi - khi mà ngày nào cũng xoay quanh mấy món chán chết được. Tôi lại ra tay cho vợ được dọn dẹp nhà bếp, nhưng lần này thành công mỹ mãn. Tôi đi chợ mua giò heo nhưng chỉ mua móng thôi, không mua phần trên đầu gối, lắm thịt thì ngon gì? Phải gân gân sần sật… mới đã! Vợ tôi dặn với theo: ‘mua giò Việt Nam ít mỡ, không lông anh nhá!’ Tôi thì không hảo ngoại nhưng nghĩ mua giò bên chợ Hồng-Kông ngon hơn, tôi thấy hệ thống tủ lạnh ở chợ ấy có uy tín! Phần các bà sợ bên chợ Hồng-Kông bán mắc hơn bên chợ Việt Nam chút đỉnh. Ai dè, giò Việt Nam không mỡ không lông thật các ông ạ! Giò Hồng-Kông lông không với mỡ, phát ớn. May là tôi không ghé chợ Mỹ! Chẳng biết còn kinh đến đâu?

Đem về, tôi cho lên lò nướng, mở lửa đùng đùng mà chẳng thấm vào đâu, chờ đến bao giờ nó mới cháy vàng như thui đây chớ! Tôi lấy cái đèn khò hàn máng xối, tôi khò lũ móng heo cháy vàng ươm, thơm nức mũi. Vợ tôi đem rửa nước, bà ấy lấy cục chùi soong, chùi nồi, chùi sạch đến trắng ra như chưa thui. (Vợ tôi mà không phá tôi thì bà ấy chịu không được! Hay cốt ý trả thù lần trước thì còn trong nghi án.) Tôi giận run vì tất tần tật đã công giã tràng. Tôi đành khò lần nữa, lần này tôi khò cho cháy đen luôn, khi rửa lại nó vàng sỉn ngả sang màu hơi nâu là vừa, các ông ạ! Thơm lắm.

Tôi ướp tí muối, đường, bột ngọt, tiêu trắng, cooking wine rồi để đấy. Đi xem hũ mẻ thì trắng có trắng, tôi khều một tí đưa lên kính hiển vi, cộng quân ngo ngoe thấy ớn! Bọn nằm vùng cỡ nào cũng lọt vô được bí mật quốc gia. Tôi phân vân vì lâu qúa không ăn mẻ, chả biết có sao không đây? Tôi cho chúng vào máy xay sinh tố, bấm nút năm phút trả thù! Chúng nó chóng mặt cả lũ khi tôi đưa lên kính hiển vi lần thứ hai hay chết tan xác hết bọn phỉ rồi thì phải! Tôi biết chúng đã chết tan xác trong ấy nhưng nhìn đỡ sợ. Tôi lược lại, bỏ xác nhưng xác cũng chẳng còn vì cái máy xay sinh tố nhà tôi nhìn vào đến bốn lưỡi dao-thấy ớn. Tôi bắc nồi giò ướp sẵn lên bếp, đổ nước mẻ vào nấu. Vợ tôi giã riềng bằng cối đá, tôi nhớ khi xưa ăn rựa mận ưa bị lảm xảm trong miệng bởi xác riềng giã trong cái nón sắt của lính, thế là tôi cho riềng vào máy xay, xay và lọc vài tua thì loại được xác riềng ra khỏi món tổng hợp. Khi đổ nước riềng vào nồi giò đang sôi với mẻ, hơi rựa mận bốc lên ngay, các ông ạ! Tôi chỉ còn việc ngồi canh cho giò chín tới (cứng qúa ăn không được mà mềm qúa thì ngán).

Trong nhà, vợ tôi luộc bún. Tôi ngồi đọc báo ngoài sau hè cũng là ngồi canh lửa, vớt bọt. Hình ảnh xa xưa lại thoáng hiện những gương mặt trong gia đình. Những anh em tôi khi còn nhỏ cứ tò tò sau lưng ông cụ nhà tôi chờ từ chó chết đến chó chín! Bố tôi chỉ ra tay khi nấu thịt chó chứ thức ăn ngày thường thì mẹ tôi nấu. Bố tôi có thói quen khi mời bạn bè về nhà thì vợ con trở thành những người phục vụ, nhưng hôm nào ông cụ nấu cho vợ con ăn thì dứt khoát không tiếp bạn bè. (Dù họ có vô tình đến, cũng chỉ mời ly nước trà rồi tiễn khách chứ không mời ở lại ăn như người trong Nam thường dùng câu: “gặp bữa…” Bố tôi không đi đâu trong ngày phục vụ vợ con dù bất kỳ ai rủ rê, mời mọc).

Tôi nhớ mãi hình ảnh anh em tôi được ngồi bàn ăn bảnh chọe như người lớn, bố mẹ tôi thành hai người phục vụ chứ không phải con nít thì múc cho một tô là xong! Bố mẹ tôi tôn trọng con nít ngang với người lớn là một tiến bộ bị lên tiếng nhất so với những gia đình chú bác của tôi. Ở nhà chú bác, con nít chỉ được ăn sau khi dọn bàn của người lớn ở nhà trên xuống-còn gì ăn nấy! Ký ức không đẹp ấy đeo đẳng cả đời cô em họ tôi. Bây giờ cô ấy dọn bàn cho con nít ăn trước, còn gì người lớn ăn sau để trả thù tiền kiếp, cũng là một cách trả thù ngạo mạn đấy chứ! Tôi rất thích được cô em họ gọi mời ăn uống vì nó làm sống lại hình ảnh gia đình tôi thuở xưa.

Tôi vẫn thấy mùi hương chưa phải lắm! Chưa đúng mùi rựa mận nên bàn với vợ. Nhà tôi lần này không phá tôi như lần trước, bà ấy lấy hũ mắm tôm cho vào một muỗng (muỗng cà phê), mùi bốc lên ngay! Y chang. “Mươi phút nữa là giò vừa ăn đấy anh ạ!” Chẳng biết mùi rựa mận có làm cho hương sắc thêm đậm đà mà ăn nói ngọt ngào đến lạ! Bà ấy đi dọn bàn ăn tử tế, trông xom tụ lắm! Tôi nghĩ gì không biết? Bảo nhà tôi dọn cúng bố mẹ trước đi rồi mình ăn.

Khi mùi gỉa cầy quyện với mùi hương (nhang) trên bàn thờ, tôi thấy hãnh diện hơn thành qủa đạt được trên nước Mỹ! Tấm lòng đối với tiền nhân mới đích thực là cái cần - hơn cái có. Đầu óc khoa học kỹ thuật trong tôi thì bảo là các cụ đã là cát bụi vô tri nhưng lòng thành thì thấy hai cụ đang chén gỉa cầy hể hả. Tôi tự hỏi lại mình: Đâu là chân? Đâu là gỉa? Đi tìm sự rạch ròi giữa chân và gỉa để làm gì khi đời sống vốn dĩ hư-thực. Các ông thấy sao?”

“Vấn đề là cuối cùng thì chị nhà phải lồng mấy cái bịt ny-lon?”

“Không. Lần này ngon lành. Nhà tôi không nể mặt ông bác sĩ cảnh báo cholesteron gì nữa! bà ấy làm tới thấy thương luôn. Tôi dấm dẳng được vài miếng thấy ngon, no cơn thèm hơn là no bụng. Tôi hiểu ra một điều là ký ức cũng biết đói chứ chả riêng gì cái bao tử. Nếu các ông muốn thử thì tôi cũng không tiếc công đâu. Tuần sau nhé?”

“Để chúng tôi xem lại phần bảo hiểm nhân thọ cho kỹ, chắc ăn rồi ăn gỉa cầy tiên sinh nấu sau vậy!”

“Ngon thật đấy! Nhưng tôi trình bày với các ông để nghị sự xem mình có nên gọi món ấy là “Giò heo nấu mẻ” cho nó chính xác với nó! Tại sao phải gọi là gỉa cầy trong khi nó là giò heo. Giò heo có cái ngon khác với thịt chó. Người Việt thì dù ở đâu cũng cứ tự hào mình là người Việt, sao phải mang tên Mỹ để nghe lủng củng cái lỗ tai người khác? Bộ tên Mỹ thì con người có gía trị hơn sao? Các ông tưởng tượng ngài Bob họ Vũ thì ra cái thể thống gì? Còn gì là học gỉa!”

Tiên sinh diễn thuyết tới lên đèn mới ra về, vài tuần sau tiên sinh triệu tập khách thưởng ngoạn toàn học gỉa với tiên sinh, chẳng có học thật nào góp mặt nhưng món giò heo nấu gỉa cầy của tiên sinh thì ngon thật. Nên mọi người đồng ý cho tiên sinh chính thức gọi món ấy là: “giò heo nấu mẻ” chứ không gọi là gỉa cầy để mất uy-tín-con-heo.

Phan

Thứ Hai, 2 tháng 7, 2007

Tháng sáu nhớ…bài ca không quên

Tháng sáu. Đơn giản là sáu tháng đầu năm đã qua mà vẫn chưa làm được gì. Sáu tháng cuối năm sẽ làm được gì đây? Hay rồi cũng như sáu tháng đầu năm! Thời gian cứ lặng lẽ đánh cắp tuổi đời của chúng ta đi, có phiền trách thì nó trả cho mớ tóc bạc để ngồi bàn trưởng thượng trong những cuộc họp mặt thân quyến. Mới ngày nào, trong nhà đám giỗ, tôi thuộc loại coi xe hay chạy đi mua nước đá cho người lớn uống bia. Bây gìơ đã có cháu gọi bằng ông Út. Bọn nhỏ lăng xăng như tôi ngày xưa, bao gìơ chúng nó gọi nhau về ăn giỗ ông Út?!

Sáng nay thức dậy, ngồi với ly cà phê thường ngày. Sáng tháng sáu chưa gì đã hâm hấp nóng. Hệ thống tưới cỏ tự động, làm công việc của nó đúng gìơ như một người công nhân gương mẫu. Nhờ hơi nước bay bay mà nghe mát mẻ, tinh thần sảng khoái. Tháng sáu với tôi nhiều kỷ niệm vì tôi có nhiều người bạn cùng sinh tháng sáu. Nếu trừ tôi ra thì những người sinh tháng sáu đều trai tài; gái sắc. Tháng sáu có ngày Father’s Day. Tôi ngồi nghe những âm xưa trong tiếng lá xào xạc với chút gío đầu hè sáng sớm. Chợt nhớ hai câu: Tâm dụ phụ thân sinh bất lão/ bất ly phụ tử khả vô sầu. Muốn viết hai câu nữa cho thành bài tứ tuyệt, nhưng tới đó bí… và đã hơn hai mươi năm. Phải chăng khi cảm xúc qua rồi thì cảm tác cũng khó! Ngồi đọc lại đoản văn cũ mà tôi đã viết năm ’82 về người cha không còn nữa trong cảm nhận về ơn nghĩa sinh thành.

Đêm. Tôi vô bệnh viện với cha tôi đã nằm trong đó cả tháng nay. Làm vệ sinh cho cha tôi xong. Cho ăn, uống thuốc… báo cáo tình hình gia đình, đài BBC nói gì?… Cha tôi yên giấc trong tấm đắp phập phồng làn hơi yếu ớt. Nhìn mấy ông gìa tỉnh lẻ chung quanh thiếu người chăm sóc, còn thảm thương hơn, khó ai cầm lòng cho đặng. Tôi giúp ngưới này, lại không bỏ được người kia. Hỏi han người nọ… cuối cùng mệt phờ mới hiểu sao y tá ở bệnh viện Việt Nam ít cười! Tôi đi tìm không khí để thở.

Ngoài trời đã tối đen như mực, mặt trời lặn tự bao gìơ? Màn đêm buông xuống phố phường một màu đen ảm đạm, những bóng cây me cổ thụ rộng tàn đu đưa tí gío đêm trên tầng cao. Không gian ngộp thở của đường phố đã trở lại yên ắng phần nào cho những sinh hoạt về đêm của lề đường không đèn. Những cô gái ăn sương đã tề tựu dưới hàng me đêm. Nói cười, chửi rủa nhau ơi ơí… Vài chiếc xích lô đạp tạt qua - chóng vánh rồi đi. Tôi ngồi trên lan can lầu một của bệnh viện vì trong phòng mùi ê-te nồng nặc, mùi bệnh nhân nằm lâu - ít tắm, mùi toilet thiếu nước dội và người lau chùi, mùi nước tiểu nồng nặc hơi thuốc tây… thật khó phân biệt sinh khí và tử khí nơi đây.

Nhưng cũng không bằng tiếng rên rỉ của những người gìa bệnh hoạn nghe qúa thê lương so với tuổi đời qúa trẻ của tôi. Thần Chết cứ lởn vởn đâu đây để cắp đi những sinh linh thừa thãi trong cuộc sống bon chen từ miếng ăn, giấc ngủ… từng ngày.

Tôi nghĩ dại. Chết như mấy người lính trong phim Thế chiến thứ hai: băng ngang giao thông hào, trúng viên đạn rồi lăn ra chết vậy mà khỏe hơn chết gìa, chết bệnh… chết trong cô đơn như ông Tư đêm qua. Con gái ông tên Lựa (chả biết ông Tư lựa kiểu gì mà cô con gái đen nhẻm như Miên). Lựa nhờ tôi coi chừng ông Tư cho cô ấy về quê ở Rạch Sỏi, lấy thêm tiền lên mua thuốc, tiền ăn ở, tiền viện phí… Chắc nhà không có tiền sẵn nên cô ấy phải chờ gia đình xoay xở. Ở đây ông Tư đi lặng lẽ không người thân. Tội nghiệp hết sức. Tôi lại nhớ Sư cô ngoài Chùa sư nữ mà mẹ tôi ưa đi, Sư cô nói: “Sự chết thanh thản hay vật vã là bằng chứng của sự sống lương thiện hay gian ác!” Sư cô nói lúc tôi còn nhỏ nhưng nhớ lắm vì lần đó ông Hai Dữ trong xóm làm nghề thọt tiết heo. Ông rống lên như heo bị thọt tiết mấy ngày mà không chết được. Người ta phải lấy con dao hai lưỡi mà ông đã thọt tiết heo cả đời, gỉa bộ thọt sát bên cổ ông, lưỡi dao cắm xuống giường. Hứng cái xô đựng tiết dưới giường y như ông đã giết những con heo trong suốt đời ông. Ông Hai Dữ mới chết được. Gia đình ông thôi làm nghề ấy nữa.

Tôi suy ra ông Tư là một người hiền. Chiều qua tôi xả khăn ướt lau mình cho ông, xin thay tấm trải giường, nhưng người ta nói chưa tới ngày thay. Hình như nơi đây. Khi bệnh nhân chết rồi, người ta mới thay tấm trải giường luôn thể, cho người mới bớt sơ! Tôi thay đồ sạch cho ông Tư, cho uống thuốc… Ông không ăn bữa chiều của bệnh viện, tôi linh cảm được ông khó qua đêm. Tôi khuấy cho ông ly sữa, là tôi ăn cắp của một bệnh nhân khác - vào đây đã dăm hôm nhưng chưa chào hỏi ai một câu - gần đất xa trời rồi. Gia đình ông ta người Tàu, chắc có tiền nhưng người thân sợ lây nhiễm nên không ai vào chăm nom. Cứ bỏ cho y tá với ít tiền ‘bồi dưỡng’ như mướn con ở. Họ lấy tiền tươi rói - xỉa xói ai hay? Người nhà quay lưng với người thân thì họ cũng quay lưng với bệnh nhân. Sống chết mặc bay. Lương y như từ mẫu. Mà “từ” là “bỏ”.

Nói đến sữa thời ấy là một thứ xa xỉ, đắt đỏ. Không phải ai cũng có tiền mua. Trộm cắp như rươi trong bệnh viện. Gặp hoài hình ảnh một người gìa đi không vững trên đôi chân, vịn thành giường lần từng bước vào toilet nhưng nách không rời hộp sữa đặc có đường. Chẳng phải đem vào pha chế gì trong đó. Chỉ vì để ngoài thì hộp sữa không cánh mà bay. Trộm cắp nơi nơi… ngời ngời toàn trộm cắp. Cả nước là ăn trộm. Tôi cũng là một thằng ăn trộm làm nhơ danh Lương Sơn Bạc. Dù không trộm cho mình, trộm của người giàu dư gỉa chia cho người nghèo thiếu thốn - theo luật 108. May là cha tôi ở tù về, quan cha tự khẳng định mình: “Tau thuộc thành phần không thể cải tạo… nên chỉ uống cà phê đen. Đời đen như mõm chó rồi con ạ! Uống sữa chỉ thêm trắng lòng.”

Ông Tư uống ly sữa tôi ăn cắp được và pha cho ông như Phan Thanh Giản uống thuốc độc, thều thào dặn tôi nói lại với con cháu ông: “Ráng đưa ông về quê chôn cất”. Ông đi theo Phật lúc nửa đêm lặng lẽ đến tội nghiệp cho một đời người nông dân hiền lành. Lúc nhắm mắt cô quạnh không thân nhân, một thằng bá vơ - tôi, nhỏ giọt nước mắt cho phận người hơn là tình thân tôi có với ông.

Đêm nay về khuya lành lạnh, lại một người ra đi. Mấy người y công đẩy một bệnh nhân vừa chết xuống nhà xác. Tôi đứng nghiêm, cúi đầu, tiễn biệt người qúa cố. (Một thói quen từ bài Công dân giáo dục lớp ba.) Người trung niên ngoài ba mươi đi sau lặng lẽ, nấc lên tiếng lòng thê thiết: “Má ơi…” nghe não lòng. Không biết là vợ hay em gái anh ta đi sau, chị cúi đầu chào lại và cám ơn tôi đã trang nghiêm và thành kính chào tiễn biệt má của chị. Tiếng chị văng vẳng theo hành lang xa dần: “Thôi anh! (đừng khóc nữa) Bình tĩnh đi để lo đưa má về chôn cất”. Cũng ngộ - hai người này: Nữ bình tĩnh hơn nam. Tôi gỉa tưởng nếu là cha tôi… Tôi đang ở đây một mình. Rồi trách mình nghĩ dại. Nhưng nếu là mẹ tôi… Tôi cũng như anh kia thôi. Con gái thương mẹ kiểu chia sẻ, con trai thương mẹ thầm lặng hơn. Tiếng lòng con trai đã ứa ra là hết rồi.

Hành lang bệnh viện về khuya, sương đêm rờn rợn da người. Khơi khơi tôi nghĩ về bà gìa mới chết. Một mẹ cùng hai con. lê la trên đường mòn… Bây gìơ chỉ còn hai con. Mồ côi liếm lá đầu đường. Nghĩ về người mẹ di cư của tôi - canh cánh bên lòng quê cha đất tổ - mù khơi. Nghĩ về người-mẹ-Việt-Namï. Tôi chẳng thấy người mẹ nào sung sướng. Toàn những người mẹ âm thầm theo cách riêng của mình để nuôi dạy đàn con. Khi con lớn thì mẹ đã gìa. Sống như cái bóng không còn che mát được cho ai nên ưa bị bỏ quên theo năm tháng. Chợt một ngày biếng ăn, lười nói… Mẹ thầm lặng ra đồng coi như xong một kiếp người không may - trời sinh ra làm Mẹ. Đời người phụ nữ quê tôi. Không nghĩ thì thôi. Nghĩ đến là muốn ứa nước mắt.


*


Ngoài bờ tường bệnh viện nhộn nhịp sự sống về đêm. Những câu thô lỗ giọng nam, giọng nữ cứ réo rắc như bản tình ca hè phố rồi theo màn sương đêm lắng dịu. Tiếng con nít khóc khàn do đói và vòi mẹ làm tôi chú ý. Ở gốc me, người mẹ trẻ đang ngã gía với khách hàng là tên ma cô đầu đường xó chợ nào đó. Sự thỏa thuận miễn cưỡng diễn ra chóng vánh, họ tự nhiên hành lạc như thú hoang lạc đàn. Đứa bé cứ khóc, bò quanh chân họ. Tên ma cô đá nó, nó khóc ré lên. Mẹ nó xô tên ma cô ra, cãi vã… Hai bên lại xáp vô bản hợp đồng theo luật cung cầu của Tạo hóa trừng phạt con người. Đứa bé cứ khóc, bò quanh như người giám thị tinh tường. Một chứng nhân lịch sử của nước mất nhà tan. Thời kỳ qúa độ của Sàigòn đổi chủ. Phất phơ lá cờ máu trong sương đêm bên ngôi nhà ai vừa bị đánh tư sản hay đã vượt biên gì đó. U hoài.

Tôi ngồi nhìn sinh hoạt nửa đêm dưới lề đường Xã hội chủ nghĩa và viết đúng lý thuyết đã học: “Văn học phải phản ánh trung thực đời sống. Văn học phải phục vụ đời sống của nhân dân lao động…” Tôi viết: … người mẹ đĩ da xanh tóc rối. xỏa xuống đời bóng tối mây mưa. lấm thân còn bị lọc lừa. nhân danh thời cuộc có chừa ai cho. mẹ ngồi đón khách co ro. đêm về ong bướm tò mò tìm hoa. thượng vàng hạ cám trẻ gìa. cung cầu theo luật được là trao tay. bằng lòng kẻ được người may. phải đứa mặt dày ăn quỵt còn la. nhân gian một cõi ta bà. mẹ ngồi câu độ canh tà hiện sinh. lẳng lơ cúc áo vô tình. hay là cố ý khoe bình sữa tươi? thương người mẹ đĩ đôi mươi. bỏ con không nỡ nên người bán thân. con bò con khóc quẩn chân. ma cô tức giận bớt phần tiền chơi. chửi nhau rân một góc trời. đù má đù mẹ đã đời thằng coi. tính không ra kẻ thiệt thòi! mai đứa bé lớn có đòi được không? vì ai mẹ đĩ chổng mông. thiên hạ là chồng con cái không cha. màn trời chiếu đất không nhà. bán trôn nuôi miệng nghĩa là vinh quang. phất phơ cờ đỏ sao vàng. dật dờ váy đĩ cởi nàng bán trôn. gío lên thốc mộ oan hồn. âm binh các đảng thả hồn nỉ non. người coi con mắt mỏi mòn. kẻ mua chung cuộc thấm đòn giang mai. Chúa Trời, Đức Phật là ai? bỏ người mẹ đĩ bên ngoài vọng môn. lời ru đêm vắng mỏi mòn. à ơi! con ngủ cho tròn tuổi thơ. mẹ ngồi thân xác vật vờ. bên đời hiu quạnh bóng mờ ôm con. lòng đêm ôm ấp Sàigòn. bút bi bơm mực mất còn giấy thô. đường về âm phủ mơ hồ. chữ nghiêng chữ ngả cơ đồ Việt Nam.

Hiện thực hiện lên trang giấy của tôi. Tôi đang suy nghĩ về tính hiện thực Xã hội chủ nghĩa trong văn thơ cách mạng, trong ký sự của mình. Tiếng ồn bát nháo đánh thức không gian yên ắng về sáng. Chiếc xe vận tải cũ kỹ mang hàng chữ: “Xí nghiệp quốc doanh vận tải số 5”, chạy ì ạch trên đường như chuyến xe đời từ từ thắng lại. Công an từ trên thùng xe nhảy xuống. Tiếng la hét khủng bố hòa vào tiếng hét la bị khủng bố. Người người chạy toán loạn. Mẹ đĩ bật dây từ gốc me bên đường, bị kẹt đứa con nên không nhanh chân được. Bị tóm cổ, tống lên thùng xe. Công an Cộng sản không bắt con nít theo Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hay vì chút tiền bán trôn nuôi miệng đang ở trong lưng quần mẹ đĩ. Con nít không có và giữ tiền, bắt nó làm chi. Tiếng gào khóc thất thanh của mẹ đĩ từ van nài đến khóc lóc “con tôi”. Cuối cùng là chửi rủa khi người ta bị ức hiếp đến đường cùng. Chửi rủa làm cản trở nhân viên công lực đang thi hành nhiệm vụ là phản độngï. Mẹ đĩ bị đánh một cái bá súng AK vào lưng. Mẹ oằn người như con chó trúng cây đòn gánh của bà bán rong, rên ử ử… rồi im bặt trong thùng xe khi bị tống vào như người công nhân vệ sinh ném con mèo chết bởi xe cán vào chiếc xe ba gác be ván ép cao đến Thiên đình - cuối thế kỷ 20 - chỉ có ở Việt Nam. Chiếc xe chạy đi như xe bắt chó mới tóm được vài con, phải ra Ông Tạ gấp cho kịp chợ. Đứa bé khóc thất thanh khi bị dứt ra khỏi hơi ấm của mẹ. Nó bò lên Niết bàn hay bò về Âm phủ?! Nó bò tìm hơi ấm và lời ru của mẹ với giấc mơ làm người không thành. Gốc me gìa không ôm ấp nó nữa vì thần me đã vượt biên nên nó khóc. Bơ vơ. Lạc loài. Còn từ ngữ nào tàn độc hơn để nói hết thú tính của những người cộng sản vô lương! Đánh đập phụ nữ, bạc đãi trẻ em. Họ ăn lông ở lỗ trong rừng nhiều năm nên tính người thoái hóa. Họ chỉ còn thú tính bản năng trong xã hội con người. Họ đột ngột ra thành phố sau chiến thắng, hành xử như bầy sói hoang với dân đen như bầy cừu đã bị người chăn cừu bỏ lại trong cái nông trại nát bét mà ông không còn thiết tha hai từ: “ông chủ”.

Chiếc loa phóng thanh trên cột đèn trong bệnh viện báo sáng bằng giọng hát Cẩm Vân: “…Có một bài ca không bao gìơ quên, là lời đất nước tôi chẳng phút bình yên… có một bài ca không bao gìơ quên, là lời mẹ ru con đêm đêm… bài ca tôi không quên tôi không quên… tháng ngày vất vả…”

Loa phát thanh chuyển sang phần tin tức buổi sáng - chả có gì đáng quan tâm. Những đồng nghiệp của mẹ đĩ sau một hồi chạy toán loạn đã trở về chốn cũ. Người đàn bà nào đó ẵm đứa bé tội tình trong muôn lời rủa xả bọn công an. Nó biết điều và thân phận nên rúc vào ngực người đàn bà tìm hơi ấm. Nó ngủ ngoan trên tay người đàn bà ấy - chờ sáng. Nhưng mặt trời không bao gìơ mọc cho tương lai của nó dù sáng mai mẹ nó sẽ được thả ra sau khi người ta đã lấy hết những đồng tiền bán trôn nuôi miệng, nuôi con của mẹ đĩ. Những đồng tiền dơ bẩn mà linh thiêng, lẽ ra để mua gì ăn cho nó và mẹ nó. Những người công an béo tốt được nuôi sống bằng vốn trời cho của mẹ đĩ, là Hiện thực Xã hội chủ nghĩa. Từ “vĩ đại” đi kèm với tên lãnh tụ, lẽ ra phải nhường cho mẹ đĩ. Người mẹ vĩ đại nhất trong tư duy hai mươi tuổi của tôi.

Xét về mặt xã hội thì không ai coi trọng mẹ đĩ, nhưng có mắt thấy tai nghe thì mới thấy sự vĩ đại của tình mẫu tử. Mẹ đĩ có thể không biết cha của đứa bé. Nhưng nó. Đứa con thơ là nhúm ruột của mình nên yêu thương bằng tình mẫu tử thiêng liêng. Hơn những người giàu có, trí-thức-thời… tư bản đỏ mới lên ngôi ở Sàigòn - thời ấy. Cho con đi du học Đông Aâu để lấy cái tiếng có con du học nước ngoài để lòe thiên hạ, khẳng định mình thuộc giới thượng lưu đỏ Sàigòn, hơn là thật sự chăm lo cho tương lai con cái. Sự thành đạt của con cái ở nước ngoài phản cảm với cái tôi bịp bợm của người mẹ thành khoảng cách mẹ-con, không còn dung hợp. Giải thích ngụy biện bằng lời tên thầy bói chết bầm, trôi sông lạc chợ, ăn nói vô lương: “Mẹ con chị không hạp tuổi ở gần”. Tình nghĩa mẹ-con có thế thôi. Nên thời buổi sinh ra những đứa con mồ côi khi cha mẹ còn sống! Sự giàu sang bất chính có cái gía của nó.

Cha tôi rọ rậy trong phòng. Tôi vô giúp ông đi tiểu, uống nước. Trở ra với những giòng chữ rất thật của tôi trên tờ giấy mềm vì ướt hơi sương. Trời hừng đông như không có gì đêm qua. Tôi cất mảnh giấy vào túi áo và đến trường. Những nụ cười trên môi của mấy cô bạn học - lạt nhách. Sau khi điểm danh theo thông lệ. Tôi trốn lên thư viện. Ngủ không được, viết không được. Viết thật như tờ giấy trong túi áo tôi thì không được chấp nhận thậm chí còn bị đi tù. Nhưng viết láo toét thì lương tâm để đâu? Sống trong thời buổi lương tâm không bằng lương thực. Nhiều thầy cô đáng kính trước đây đã phải vứt lương tâm vô thùng rác vì miếng cơm manh áo. “Người dạy học phải có cái tâm nhân ái, dạy văn là dạy làm người - học văn là học làm người.” Nguyên tắc giáo dục là như thế! Nhưng người dạy Văn nay đâu? Người học văn mai đây không thoát vượt biên thì tương lai vô định. Nghĩ đến hai chữ “tương lai” mà ngán ngẩm.


*


Nhiều năm qua rồi. “Dòng đời” là từ ngữ vừa hay vừa đúng trong tiếng Việt. Dòng đời trôi chảy mãi với tháng năm. Tôi vẫn cất giữ những năm tháng dại khờ, trong đó có Mẹ đĩ như một kỷ niệm không quên. Cất giữ tiếng hát Cẩm Vân với “bài ca không quên”. Người ca sĩ có gương mặt buồn như thời đại và đất nước Việt Nam sau “giải phóng”.

Nơi này, người ta nghĩ ra ngày Mother’s day để vinh danh, tưởng niệm… người Mẹ - một hành vi nhân bản của loài người tiến bộ. Từ ngữ Cộng sản mà lại đúng trong xã hội Tư bản. Tôi không quên được người mẹ vĩ đại mà ít nhất một lần tôi đã gọi người là Mẹ đĩ.

Mỗi năm trên quê hương của sự tôn trọng phụ nữ và con nít, ngày Mother’s day lại nhắc nhở tôi chốn quê nhà: Không biết người Mẹ đĩ năm xưa có còn trên cõi đời vì hành nghề ấy thì làm sao tránh khỏi những căn bệnh xã hội - chết người. Đứa bé năm xưa đã bò được tới đâu trong xã hội ‘bottom line’ của nó? Lịch sử rồi qua đi, con người, thời đại cũng qua đi. Tôi lỡ mang ký ức một ‘chứng nhân lịch sử’. Hy vọng tôi là chứng nhân cuối cùng của lịch sử tối đen nơi quê nhà.

Mỗi năm. Nhìn, nghe các con tôi rù rì rủ rỉ trong phòng - khóa cửa, để bất ngờ đem ra cho mẹ một món qùa. Tôi thầm cảm ơn Thượng Đế đã ban phát ân sủng xuống gia đình tôi. Trong hạnh phúc nhỏ nhoi của một gia đình tha phương cầu thực. Người chủ gia đình vẫn còn âm ỉ trong sâu xa một ký ức không quên. Ký ức của một chứng nhân lịch sử. Tháng sáu cho cha tôi chỉ là đọc lại một thời đã qua. Tôi có người cha: “Đời đen như mõm chó rồi con ạ! Uống sữa chỉ thêm trắng lòng.”

Phan