Thứ Sáu, 20 tháng 7, 2007

đi ăn giỗ

Thanh gọi tôi.

“Anh khoẻ không? Cho em xin lỗi, đúng một năm rồi em mới gọi anh.”

“Cho anh câu xin lỗi được không?... để em khoẻ!”

“Chị nhà thật khéo chọn anh! Aên nói làm mát dạ người khác quá đi!”

“Cảm ơn em. Có chuyện gì mà gọi anh vậy? Cô em.”



“… em biết anh không thích gặp lại kỷ niệm, nhất là những người mà anh đã trân qúy, thương mến. Anh sống hết lòng với người sống để khi người đi kẻ ở không có gì ân hận nữa vì anh đã có qúa nhiều ân hận. Em à!”

“… nhưng lần này là giỗ mãn tang bố em nên em phải mời anh cho được!”

“… một lần nữa thôi!... ha!”

Nhà bác Sa vẫn còn số cũ, đường xưa. Tôi không vội vô nhà để có thời gian ngắm nhìn kỷ niệm. Chắc vợ chồng Thanh trong nhà đã thấy tôi qua cửa sổ nên họ mở cửa, mời tôi vô.

Tôi thắp nén hương cho bác Sa gái thì không còn nhớ đã bao nhiêu lần, nhưng bác trai thì nhớ - bạn tôi mà. Bác, mới đó đã thành người thiên cổ được ba năm, thời gian như bóng câu qua cửa. Tấm hình người lính Việt Nam Cộng Hòa trên ban thờ đã hoen ố thời gian, tấm hình không nói lên tuổi tác người chết lúc mất thì cũng nói lên ý nghĩa tấm ảnh thờ. Một là người chết trận nên thờ ảnh mặc quân phục, hai là chưa toại nguyện đời lính nên dặn con cháu thờ ảnh lính - Bác Sa thuộc loại thứ hai.

Bữa giỗ mãn tang một người qúa cố được ba năm theo phong tục Việt Nam thì có gì để người ăn giỗ phải bận lòng ngoài việc ăn nhậu khi nỗi buồn đã cũ. Nhưng đám giỗ bác Sa không ồn ào như… đám giỗ. Thanh là con gái độc nhất của bác, Tấn là chồng của Thanh, ông Vàng là bạn lính của bác và tôi. Sau màn nghi lễ, kết thúc màn ăn nhậu trong thân tình qúy hiếm nơi đất khách quê người. Bác Vàng từ gĩa thân chủ Thanh để ra về, không quên nói với di ảnh bác Sa: “Không lâu nữa đâu ông bạn. Tôi với ông nhậu chung bàn như ngày xưa ở phố núi cao, phố núi đầy sương…”

Bọn trẻ chúng tôi cười cay mắt với tình đồng đội của thế hệ cha anh. Tôi cũng xin kíu và nhận lãnh công vụ đưa bác Vàng về cho tiện, khỏi gọi con bác đến đón. Nhưng Tấn nói: “Em đón bác Vàng đó! để em đưa bác về cho đúng lời hứa, anh ngồi nhà chơi với Thanh chút đi, em về là nhậu tiếp cho đã một bữa.”

Thanh gom gọn những món ăn dang dở trên bàn, dọn dẹp qua loa cho trống mắt. Tôi trở thành người thừa vì Thanh không cho phụ. Tôi còn biết làm gì trong thời gian chờ Tấn về là ngồi nhìn di ảnh bác Sa trên bàn thờ (bệ lò sưởi). Mắt tôi dừng lại ở hai cuốn báo Ca Dao mà trong trí nhớ tôi, một cuốn có bài thơ: “Trái tim người lính”*, cuốn kia có truyện ngắn: “Tuyệt tình cốc”*.

Một lần trong đời bầu bạn với người đáng tuổi cha mà tôi kính mến là bác Sa. Tôi viết về bác đâu phải để thờ! tôi viết cho tình bạn vong niên nhưng con gái bác đã hiểu lầm tôi nên thượng lên bệ lò sưởi là không phải lắm đâu! nhưng có nên nói không đây trước một tấm lòng?!

Tấn trở về mau chóng để thực sự bắt đầu cuộc nhậu không cần giữ lễ với cha chú, không cần sợ bác Vàng lo âu về con cháu của người bạn qúa cố.

Rồi cuộc vui nào cũng phải tàn để hẹn lại lần sau trong rắc rối của tình đời. Trước khi tôi ra về, Thanh cứ muốn tôi ra sân sau để xem lại những ngày tháng cũ! Tôi chiều ý cô chủ nhà cho vui vẻ trọn vẹn một ngày tưởng nhớ người thân, chứ tôi không bao giờ muốn nhìn lại những di vật của người thân đã khuất vì tôi cũng ưa mềm lòng.

“Tuyệt tình cốc” là công trình sáng tạo, mồ hôi, công sức của tôi với bác Sa. Sau ba năm tiêu điều theo quy luật cái gì cũng tàn. Nay nó lại trở về nguyên trạng sạch sẽ, u tịnh như một cái am của người tu hành. Những giây mướp xanh um một góc sân và cho bóng mát để ai thấy cũng muốn nán lại uống ly trà, ngồi nhìn trời mây trong thanh tịnh một trưa hè. Tôi nói với Thanh: “… những con ong cần mẫn/ đã bay về nơi đây…” Cô ấy trầm ngâm một lát mới nói: “… thì em đọc câu: những con ong cần mẫn/ đã bay về nơi đâu/ nắng chan chứa vườn sau…” trong truyện “Tuyệt tình cốc” của anh. Em hiểu ra anh không những nặng tình với bố em mà cũng nặng tình với cái Tuyệt tình cốc này lắm! Nên em với anh Tấn mới không làm nhà kho nữa mà dọn dẹp lại cho vừa ý anh. Từ nay, anh muốn ghé qua lúc nào tùy ý! Vợ chồng em tặng anh cái Tuyệt tình cốc của bố em để anh thủ thỉ với cụ khi xem hoa nở khi chờ trăng lên*… (Kiều)”

Lòng tôi vui như tết. Ngày xưa Thanh không thích tôi đã đành, tôi còn đọc được trong mắt cô ấy sự nghi ngại về một người chỉ lớn hơn cô không bao nhiêu tuổi mà sao kết bạn với bố của cô! Bố của cô là người thầm lặng, sống khép kín mà sao lại quen biết và có vẻ thân tình với tôi đến rủ rê về nhà chè chén. Tôi biết ngày ấy, Thanh nhìn tôi với ý ngại ngần làm sa đọa ông cụ chứ không khinh tôi, cũng không… nhiều thứ! Nhưng chuyện qua rồi còn nhắc nhớ làm chi.

Anh bạn trẻ-Tấn loay hoay trong bếp, tưởng dọn dẹp phụ vợ, ai dè anh đã pha được ấm trà. Khay tách hẳn hoi, coi bộ Tấn là người hiếu khách và rất biết hưởng thụ. Tôi bảo Thanh đỡ hắn cái khay vì hắn còn kẹp theo phích nước nóng. Tôi kéo cái bàn con dời vô bóng mát của giàn mướp. Chúng tôi ngồi uống trà ba người, chuyện vãn. Thanh đột ngột hỏi tôi một câu mà tôi rất không ngờ:

“Anh Phan ạ! Trong bài thơ ‘Trái tim người lính’, anh viết tay trên tờ giấy bạc của bao thuốc lá mà anh tặng bố em thì anh viết: ‘mỗi lần trăng sáng soi nhà vắng’ mà sao khi anh cho lên báo Ca dao thì anh lại sửa thành: ‘mỗi lần trăng sáng soi nhà bếp’. Em thấy từ ‘nhà vắng’ thơ hơn ‘nhà bếp’, anh có thể giải thích thêm?”

“… Em có thể cho anh hỏi một câu trước khi anh trả lời, không?”

“Em sẵn sàng. Mời anh.”

“…sao em không hỏi câu nào khác mà phải đúng câu đó trong bài thơ?”

“Chuyện vầy! Anh Phan. Một bữa đi học, đi làm về, em ngồi ăn cơm một mình dưới bếp. Bất chợt nhìn thấy trên tường có vệt đen-bút chì. Em đứng dậy xem thì thấy chữ “E” và chữ “M”, đọc theo tiếng Việt là chữ “em” viết hoa “EM”. Nhưng em lại nghĩ là bố viết tắt chữ Mỹ- chữ gì đó trong công việc làm của bố. Sau chữ “EM” viết hoa là bốn gạch tạo thành hình vuông, không nhớ bao nhiêu hình vuông vì em không đếm. Sau nữa là nhiều lần định hỏi bố: ‘sao không ghi note trên bảng, trên lịch chẳng hạn mà ghi trên tường cho bẩn tường?’ Nhưng em quên hỏi nhiều lần đến lần nhớ thì nghĩ lại: không nên hỏi vì bố em là người ngăn nắp, sạch sẽ như anh đã biết! Khi bố viết lên tường thì chắc chắn không phải do cẩu thả!

Sau đó em quên luôn, đến hôm em lau bụi bức ảnh thờ của mẹ, lau đến bát nhang thờ mới thấy tờ giấy bạc gấp làm tư dưới bát nhang-là lần đầu em đọc bài thơ ‘Trái tim người lính’ của anh. Em hiểu liền về chữ “em” mà bố đã ghi trên tường nhà bếp, nhưng muộn rồi. Trước khi tụi em làm đám cưới, anh Tấn xin phép bố cho sơn sửa lại căn nhà cho khang trang. Sau đó, bố em cứ ưa ngồi nhìn bức tường nhà bếp, cách nhìn lạ lắm! Mới đầu, em tưởng bố không ưng màu sơn. Đến một lần nửa đêm, em ra nhà bếp uống nước, thấy bố ngồi bất động, mắt nhìn chỗ bố ghi trên tường-đã trắng mới-đã xóa sạch những vết viết chì xám đen. Nước mắt bố lăn dài xuống tận cằm, xuất thần.

Em trở vô phòng khóc hết nước mắt. Em tưởng bố em buồn về việc em sắp lấy chồng. Hôm sau, em kể anh Tấn nghe, anh Tấn cũng nghĩ là bố không ưng màu sơn nên anh đến xin lỗi bố-để con sơn lại. Bố nói không cần. Khi hai đứa em hiểu được những vệt chì đen và chữ “em” qua bài bài thơ anh tặng bố thì… chỉ còn hối hận! Bố em không viết gì thêm từ đó.”

“Ra thế! Bài thơ anh viết cũng bởi cảm hứng từ chuyện kể về chữ ‘em’. Lúc anh viết trong đầu thì dùng từ ‘nhà bếp’ vì thật sự chữ ‘em’ được viết trên tường nhà bếp. Khi anh viết trên laptop của anh thì anh cũng thấy từ ‘nhà vắng’ thơ hơn như em nghĩ. Nhưng khi bỏ lên báo thì anh lại nghĩ đến tính trung thực nên cho đăng là ‘nhà bếp’ cho nó đúng với sự thật.”

Tấn ngồi nghe chuyện của tôi với Thanh, đến đây anh ta mới lên tiếng:

“Chữ nghĩa rắc rối thế sao? anh Phan. Theo em thì… nhà bếp đúng mà không thơ, nhà vắng thì thơ mà không đúng! Sao anh không viết là ‘bếp vắng’ cho vừa đúng vừa thơ!”

Tôi chưa kịp nghĩ thì Thanh lên tiếng:

“…đừng nghe anh Tấn nhà em. Nghe lời kỹ sư điện tử thì thể nào chữ nghĩa cũng tử vì điện đó anh Phan ơi!”

Thấy hai người bạn trẻ hạnh phúc, tôi vui thật sự về người thân, vui với bác Sa chỉ còn là những những làn khói xanh bốc lên từ nén hương khi người thân nhớ bác, thắp lên. Tôi qúy họ hơn họ biết vì tôi dở là không nói yêu ai khi tôi yêu họ đậm đà. Cuối cùng, tôi nói với Tấn:

“Anh đã là người ẩu nhất về chữ nghĩa rồi đấy! Được dịp trò chuyện với những nhà thơ mới biết họ chịu bỏ cả bài thơ vì không ưng một từ mà tìm không được từ thay thế đúng nghĩa, đúng vần, đúng điệu… cái tiếng Việt của mình dùng để truyền đạt thông tin thì dễ nhưng khi dùng để nói lên tâm tư tình cảm, diễn tả tâm linh thì người sau thường giẫm chân những người đi trước, nhất là ngôn ngữ thơ. Nên càng về sau này càng hiếm những bài thơ hay, không bởi sự hạn chế kiến thức vì đời sống ngày càng văn minh, khoa học kỹ thuật giúp con người có kiến thức rộng hơn cha ông ta ngày xưa, nhưng thơ thì muôn đời nghèo nàn ở khả năng sáng tạo từ cho thơ.”

Thanh hỏi tôi về món bò tái chanh trong ‘Tuyệt tình cốc’ mà hôm nay cô ấy làm lần đầu để giỗ bố và đãi tôi với bác Vàng. Tôi chẳng biết nói sao cho hết niềm vui trong lòng vì thật ra miếng ăn qúa khẩu thì tàn. Cái nghĩ đến nhau mới còn hoài trong kẻ có lòng. Ước gì đời sống được đối xử với nhau bằng tấm lòng để mỗi người còn có chút gì để nhớ để quên, để ấm áp trong đời sống lạnh lùng - cơm áo nơi đây.

Đường về nhà tôi không xa nên chưa dứt những suy tư thì đã về đến nhà. Cầm cái laptop ra sân là tôi gõ miết theo ánh tà dương chưa kịp tối. Nghĩ đến cô con gái bác Sa nay làm giỗ bố thịnh soạn như thế mà khâm phục tấm lòng nữ giới. Người Việt ảnh hưởng văn hóa Tàu nên cũng trọng nam khinh nữ như Tàu: nhất nam viết hữu thập nữ viết vô. Nhưng thực tế cuộc đời thì bác Sa được nhờ con gái, bố tôi được phúc con dâu vì năm nào cũng thế! Hiền thê tôi bất ngờ nói trong bữa cơm tối: “Anh ơi! Năm nay giỗ bố vào ngày đúng là thứ năm, thứ sáu gì đó. Anh muốn giỗ vào chủ nhật trước đó hay sau? Anh định mời những ai? Cho em biết để em liệu.”

Ích gì? Bổ béo gì con trai mà cầu tự! Ngồi nghĩ lung thì hình ảnh bác Sa lại tuôn theo những dòng chữ hiện lên màn hình laptop. Bác cũng mong có đứa con trai nhưng ý trời không thuận đến lúc mất. Nếu có linh hồn để về ăn giỗ thì chắc bác đã thấy mình sai dù sinh tiền bác đã yêu thương hết lòng cô con gái rượu. Hình ảnh bác Sa mà tôi quen biết tình cờ như duyên hội ngộ cũng thành chữ chạy dạt dào trên trang viết để thành bài viết thứ ba về một người đàn ông sinh bất phùng thời.

… dạo ấy, tôi mất việc ở hãng. Đi làm thế chân cho anh bạn ờ nhà hàng, anh ta đi Việt Nam cả tháng. Tôi đưa những phần ăn trưa vô bệnh viện thì gặp người đàn ông quét dọn hành lang có cái bảng tên Việt Nam hiếm hoi trong cái bệnh viện Mỹ yên ắng và lạnh lùng đến sợ. Cái tên “Sa Nguyen” của người lao công quét dọn hành lang làm tôi… “Kính chào nhà thơ tiền bối. Cho cháu hỏi thăm, phòng I.C.U đi lối nào?”

Lần sau, bác đang quét dọn, lau chùi trong phòng mổ nên mặc áo trắng như bác sĩ. Đầu đội nón trắng, bịt khẩu trang cũng trắng, chân đi giày vải trắng như thân cò. Thân cò lặn lội bờ ao vì miếng cơm manh áo gia đình đang làm tôi xúc động thì cái bảng tên “Sa Nguyen” lại làm tôi nổi hứng, tôi đọc: “có phải em mang trên áo bay/ hai phần gió thổi một phần mây…” bác ấy ngưng tay, kéo cái khẩu trang trễ xuống, cười nụ cười hiền và đọc tiếp: “… hay là em gói mây trong áo/ rồi thở cho làn áo trắng bay.” Một gìa một trẻ nên đôi bạn vong niên từ đó. Những hôm bác làm đêm, thể nào tôi cũng ghé thăm trên đường về nhà để uống ly trà, tán chuyện thời sự vu vơ cho thỏa lòng được nói tiếng Việt trong cái thành phố toàn mắt xanh mũi lõ.

Phan

………………………..

* trái tim người lính

(Kính tặng bác Sa)

em đi. nhà vắng, căn phòng trống
cơm nước anh lo mãi chẳng xong
mấy món đàn ông tù cải tạo
con bé mồ côi nó ốm tong
thương em nghiệt ngã đời con gái
lấy chồng khói lửa thời long đong
anh thua trận ấy đời đôi ngã
một nắng hai sương em gánh gồng
nuôi con còn bương trải nuôi chồng
mười năm cạn kiệt trái tim trong
anh về tóc trắng người thua trận
đầu con tang trắng mẹ ra đồng
em ơi! ngày giỗ tính theo năm
đời lính phong sương tính theo rằm
mỗi lần trăng sáng soi nhà vắng
anh viết lên tường một chữ: em
chữ đầu anh viết đã lem nhem
chữ cuối hôm nay mực ướt nhèm
rượu mừng đã uống con xuất giá
anh về với đất sống bên em.

Phan



--------------------------------------------------------------------------------


*Tuyệt tình cốc

Từ ngày tôi giúp bác Sa dựng lên cái Tuyệt tình cốc ngoài sân sau nhà bác. Tôi cũng muốn có một cái như vậy để tại ngoại những lúc cần yên tĩnh. Nhưng mỗi người mỗi cảnh. Nghĩ đến gia cảnh của tôi, chưa phải lúc cho mình tĩnh tọa. Không khéo lại nhàn cư vi bất thiện.

Hôm nay đến chơi Tuyệt tình cốc của bác Sa mới thích thú làm sao? Những dây mướp hương, mướp đắng leo xanh cả bốn bề vừa làm diệu nắng hè, vừa cho cảm giác nơi ở của một người quên-rồi-thế-sự, lãng nhân chăng? Trong cốc chỉ có một giường ngủ nhỏ, cái bàn viết con, vài quyển sách trộm không buồn lấy. Ngọn đèn bàn như đèn hột vịt ở quê nhà, có lẽ để đêm đêm chong đèn ngồi nhớ lại từng câu chuyện ngày xưa - tcs

Hôm nay tôi đi thọ giáo bác Sa món mới. Tôi đem đến miếng thịt bò loại ăn phở nặng đến cả kí lô. Bác Sa nhìn tôi ngao ngán mà phán rằng:

“Bao gìơ con mắt anh cũng to hơn cái bao tử. Tôi đã bảo chỉ độ nửa kí.”

“Bác đừng lo. Nếu nhiều thì cháu ‘to go’. Phải đem về khoe vợ nữa chứ.”

Bác Sa bắt tay vào việc bằng phong cách chậm rãi của người gìa. Bỏ miếng thịt lên tấm thớt, lạng đến không còn dính một chút mỡ. Đôi tay khằn năm tháng cũng thái ra được những lát thịt bò đỏ au. Bác đứng lâu qúa nên khi buông dao, thớt là ngồi phịch xuống chiếc ghế bố xoa bóp đầu gối, bắp chân. Vết sẹo đen sì dài theo bắp chuối là những gì còn lại của qúa khứ. Tôi chạnh lòng với ngày tháng cũ của bác khi nghe bác kể chuyện đời xưa:

“… Ngày xưa, tôi đi gài mìn. Khi tôi đặt những trái mìn ở đâu, chỉ có tôi với Trời biết. Nhưng khi phải đi tháo gỡ mìn của địch thì Trời lại chẳng nói tôi nghe. Tôi giải ngũ cũng bởi mìn của địch là chuyện gieo gío thì gặt bão. Một chút đau nhức về gìa nếu xóa được những đau nhức trong lòng thì có đau gấp mười lần tôi cũng chịu. Anh nghĩ có đúng không?…”

Tôi làm sao biết thế nào là đúng mà trả lời. Tôi đâu phải là người tham chiến. Tôi chỉ là nạn nhân chiến cuộc của cuộc chiến tương tàn mà mỹ từ hóa gọi tôi là chứng nhân lịch sử. Tôi gọi tôi là con ma đói của hòa bình. Kẻ tha phương cầu thực - tốt số đã sa vào hũ bơ sữa nước Mỹ. Trong đủ đầy sinh thói trưởng gỉa học làm sang. Bao gìơ tôi mới biết tới những khổ lụy mà thế hệ cha anh đang mang trong tâm tư!

Những người thích đùa như tôi thì nhiều lắm, suốt ngày chỉ kiếm cớ ăn nhậu là giỏi. Mở tiệc ăn mừng ngày vô quốc tịch Mỹ có khác nào đứa con nhà nghèo bỏ cha, bỏ mẹ. Đi xin làm con nuôi một gia đình giàu có để có ăn, có mặc. Vẻ vang gì mà khui rượu, khui bia… ăn mừng! Lúc no say lại khui ra chuyện trăm voi không được bát nước sáo. Những suy nghĩ miên man trong cái đầu ưa mặc cảm của tôi, chỉ có bác Sa là người thấu hiểu. Nên bác ưa cho tôi những lời khuyên…

Tiếng nước sôi reo vui trên bếp, tôi đi pha ấm trà theo lệnh bác Sa. Bác bỏ thịt đã thái vào cái thau nhựa, đổ vào đó hai lon nước dừa soda. Dùng đũa trộn đều. Bác bảo tôi đi uống trà, chờ cho chất soda trong nước dừa làm chín thịt. Khoảng hai mươi phút.

Tôi rót hai tách trà, ngồi uống với ông bạn gìa mà lúc có ba hột tôi thường gọi bằng Bố. Tội nghiệp bác ấy chỉ có một mụn con gái như làn khói mỏng đã quyện vào thân xác ma trơi của người chồng ốm không thua gì cô ấy. Nói theo Hoài Linh: Vợ chồng họ đi xe lửa không cần mua vé. Cứ đứng sát đường rầy - xe lửa chạy qua sẽ cuốn họ theo.

Thấy bác lặt rau răm, thái củ hành trắng. Tôi giúp thì không cho, bác ấy bảo tôi:

“Anh vắt cho tôi bốn qủa chanh vào cái bát, lược bỏ xác nhé. Tôi không thích làm cái việc vắt chanh bỏ vỏ.”

Tôi tự suy ra mình phải làm cái việc đê tiện ấy. Bởi miếng ăn, khoảng cách tuổi tác, tôi cũng đành nhịn nhục. Vắt bốn qủa chanh, đổ vào thau thịt một nửa theo lệnh bác Sa. Bác giải thích: chanh giúp cho nước dừa làm chín thịt. Dùng chanh chung với nước dừa để tránh tình trạng qúa chua như ngoài nhà hàng họ làm. Nước dừa ngoài tác dụng của chất soda làm chín thịt, mềm thịt, nó làm ngọt thịt một cách tự nhiên. Không phải xài bột ngọt cho món này.

Uống hai tuần trà. Tôi nhìn thau thịt đã tái như thịt tái trong tô phở. Bác Sa đổ hết ra rổ, chờ ráo nước dừa pha chanh vắt. Bác còn vắt bằng tay thêm cho thật ráo. Lại cho ngược vào thau, lần này bác nêm ít muối, chút đường, tiêu trắng, hai muỗng cà phê rượu Hennessy để khử mùi đông lạnh, cho vào phần nước chanh vắt còn lại, bỏ hết củ hành trắng thái sẵn vào trộn chung. Lại để mười phút nữa, củ hành ra nước và xìu xuống. Bác đi chiên bánh phồng tôm hiệu Quê Hương (chắc từ Việt Nam đưa qua). Tôi đi dọn bàn thành thạo như một tên tiểu nhị thứ thiệt. Lại bị mắng yêu:

“Đừng háu ăn thế! nhẩn nha nào!”

Bây gìơ bác Sa vắt thau thịt thật ráo nước lần cuối. Nêm nếm lần cuối, trộn vào ít rau răm, củ hành phi (loại bán sẵn ngoài chợ). Cho hết ra cái đĩa hột xoài, phủ lên một lớp rau răm thái nhống, đậu phông rang giã dập, ớt hiểm thái lát như hoa lạc giữa rừng răm. Nhìn cứ như một nấm mồ xanh cỏ. Hành phi như hoa vàng mấy độ ngả sang màu cánh dán, ớt đỏ như những cái huy chương không còn cần thiết cho một người đã nằm xuống - vương vãi. Chén nước mắm chấm chỉ có nước mắm với ớt hiểm thái lát. Tôi hỏi bác Sa:

“Hình như cháu nhớ. Thịt bò kỵ nước mắm mà bác Sa?”

“Tôi biết! Nhưng khi đã ngồi ăn uống với bạn bè thì nhất định phải có chén nước mắm. Nó là Quốc hồn, Quốc túy của dân ta. Chén nước mắm tuy nhỏ nhất trong bàn ăn, nhưng thường chiếm vị trí trung tâm, quy tụ được mọi người chấm chung vào đấy. Tình tự dân tộc cũng từ đấy mà ra. Anh em một nhà thương nhau hơn thương người hàng xóm vì họ đã chấm chung chén nước mắm từ khi biết nói. Nước miếng từ tất cả những cái đầu đũa hòa chung trong chén nước mắm tạo thành sự gắn bó gia đình. Vợ chồng chấm chung chén nước mắm ngày này qua ngày khác… tạo thành keo sơn.

Trên bàn ăn bây gìơ, mỗi người mỗi chén nước chấm nên không thiếu những chuyện huynh đệ tương tàn, ông ăn chả bà ăn nem.”

“Tóm lại. Theo ý bác là sự dây dưa nước miếng trong nước mắm tạo thành tình thương mến thương. Theo ý cháu, người ta hôn nhau lần đầu là biểu cảm, lần sau là khó cản bởi cơn ghiền chất nước mắm trong nước miếng của nhau?!”

“Anh thì chỉ giỏi những trò qủy quyệt! Thôi ăn đi.”

“ Vâng! mời bác!” (Không nói sớm giùm một chút! chờ hoài - nói thầm)

Bác Sa lại đều đều giọng gìa:

“Cái món này mà có xị rượu đế quê mình thì ngon tuyệt. Ở đây toàn rượu mùi, tôi không thích. Thằng rể mua cho tôi chai XO, uống cứ như uống nước hoa của phụ nữ. Tôi thích Glenfiddich, tương đối được nhất, gần nhất với rượu quê ta. Tôi thích đơn giản hơn cầu kỳ, của không mùi thường có vị, lại vừa túi tiền.”

Bác Sa lấy cái đĩa nhỏ, đơm một đĩa bò tái chanh. Rót ly trà bưng vô bàn thờ bác gái. Bác ấy đốt cây nhang. Thành tâm và lụ khụ khấn vái, như mời bà về ăn cơm. Bài học này khác hẳn món bò tái chanh. Tôi tự hỏi: còn được bao nhiêu người đàn ông như vầy trong trời đất đen thui màu bội bạc? Một thế hệ nhân lễ nghĩa trí tín đang lụi tàn. Tre gìa măng mọc… còi cọc.

Người xưa nói về ăn nhậu đơn giản là: “no say”, cái đạo lý no rồi mới say của người xưa nghe không bạt mạng như người nay: “không say không về ”. Đã say thì còn biết đường đâu mà về? Đó là tiền đề của ăn gian. Uống rượu chỉ có ăn gian là không say. Từ đó sinh ra ăn thua. Lúc tỉnh dậy trong phòng cấp cứu của bệnh viện thì ăn năn.

Tôi thưởng thức sự trình bày âm dương hòa hợp của rau răm, hành phi, đậu phộng rang. Thịt bò thuộc lành phối hợp với Scotch Whisky chắc chắn là dữ rồi. Nói tới đây, tôi sợ thầy Khê, nghe. Hồi đó thầy Khê dạy tôi về âm nhạc dân tộc thì tôi không nhớ gì hết, chỉ nhớ thuyết âm dương trong ẩm thực Việt Nam. Vịt luộc phải chấm nước mắm gừng vì vịt thuộc hàn - âm, phải phối hợp với gừng thuộc hỏa - dương. Thời ngày xưa hoàng thị của tôi, cơm không có mà ăn. Thầy ở Pháp về nói toàn vịt luộc với nước mắm gừng. Thèm bỏ…

Tôi thưởng thức bằng vị giác sau khi thị giác đã no, khứu giác đã đủ, cảm giác đã mòn mỏi. Cảnh giác thì không cần vì bác Sa không thuộc Hồi giáo cực đoan nên tôi không sợ khủng bố sinh học. Miếng thịt đã tái đến không còn cảm giác sợ thịt sống, bỏ vào miệng nghe ngọt ngọt, chua chua… không qúa chua như nhà hàng làm, thật. Cái ngọt tự nhiên của nước dừa và củ hành trắng không làm lợm giọng như bột ngọt. Rau răm the the, cay cay ớt, thơm thơm hành phi - đậu phộng rang giòn giòn. Cắn thêm miếng bánh phồng tôm rôm rốp… Thiên đàng và địa ngục gặp nhau trong màu hổ phách của Whisky. Lúc này chỉ sợ vợ kêu: Gìơ này anh ở đâu? Tôi tắt luôn cái điện thoại cầm tay, cho chắc.

Bác Sa ngồi nhâm nhi dưới bóng mát của giàn mướp. Những con ong cần mẫn say mật hoa mướp tận tình, tôi say bò tái chanh như chúng. Ong đi hút mật về nuôi gia đình ong - tôi đi nhậu nuôi ai? Không lẽ đi nhậu nuôi gia đình tôi. Xây hạnh phúc gia đình kiểu này là tiếp tay cho luật sư thêm giàu vì tối ngày làm hồ sơ ly dị không kịp. Khi no nê tôi ưa nghĩ lung lắm! Những con ong cần mẫn sẽ bay về nơi đâu? Bác Sa về đâu khi hoàng hôn cuộc đời đã tắt? Tôi mong cho bác được đoàn tụ với bác gái theo diện ông bà ở chốn thiên thai có động hoa vàng hay một hang động nào đó trong dải ngân hà xa tít. Nơi vĩnh hằng của những nguời yêu nhau trọn vẹn như bác và bác gái. Tôi nhìn cảnh ông gìa một mình, lòng lang dạ sói cũng ui ui buồn, nói chi lòng tôi, mới tới tầng ô trọc! Nhiều khi tôi cũng sợ cái lang bang trong tư duy tôi, nhất là lúc ba hột đắng uống hoài hóa ngọt. Uống như uống nước Ngọc tuyền / Từ đầu tiên mộng tới phiền muộn sau - BG. Để phá tan sự im lặng, tôi hỏi bác Sa:

“Bác ạ! Con bò ăn cỏ nên thịt nó lành, hiền. Người ta ăn thịt bò sao chỉ thấy lành chanh, lành choi…!?”

“Con bò ăn xong, nó biết nhai lại - con người thì không!”

“Vậy có thể nói: con heo ăn tất cả của thừa từ con người (cơm thừa canh cặn) nên nó động dục nhiều hơn động não. Con chó ăn đến phế phẩm của con người nên tính nết nó cũng tình cảm, nhớ dai, thông minh… Nhưng dồn chó đến chân tường thì quay cắn lại chủ. Phải vậy không bác?”

“Lý luận kiểu anh thì tôi chịu! Tư duy của anh cần phải có một chút giáo dục nữa… tiếc là thời anh đi học thì thầy giáo đi vượt biên hết rồi. Cái súc vật biện chứng như thế mà cũng nói ra được.”

“Bác có thấy: Con chó đầu đông thấy trộm nên sủa, con chó đầu tây có thấy ai đâu… cũng sủa. Từ đó cụm từ “chó hùa” ra đời để chỉ đặc tính loài chó. Trộm thì cứ trộm vì trộm biết chó sủa chó không cắn! Loài chó cắn chó không sủa thì đã tuyệt chủng theo đà tiến hóa của vạn súc vật. Nói theo di truyền học, loài chó cắn không sủa còn chăng chỉ là một gien lặn. Bao gìơ có đột biến gien thì cháu không biết. ”

Bác Sa cười rồi ngồi thừ ra đấy. Bác ấy thường như vậy. Rượu vào mà lời không ra, không biến những giòng suy tưởng thành lời. Có lẽ trong con người sau nhiều thăng trầm, bi hài của cuộc đời chỉ có thầm lặng là tử tế! Tôi không muốn bác ấy buồn vì những chuyện đã xưa như trái đất nên bắt chuyện trên trời dưới đất - vô thưởng vô phạt. Tôi hỏi thăm những người muôn năm cũ, bác ấy cũng không muốn nói. Chỉ ấm ớ như tôi không phải đối tượng có thể hiểu được những người tạm gọi là Anh em nhà Karamazov với bác. Bác Sa lại kể chuyện cho tôi nghe với ý gì không rõ!

“Ngày xưa, ông thầy tôi kể: Người tiểu đội trưởng dẫn mười hai người lính của mình đi tuần. Không may lọt ổ phục kích của địch, không may hơn là chỉ còn mình anh ta sống sót trở về. Người tiểu đội trưởng đến trình diện ông Đại đội trưởng - báo cáo tổn thất, trình bày chiến sự… Người tiểu đội trưởng nói với cấp trên: Lỗi tại tôi bất cẩn tạo nên tổn thất cho đơn vị. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm, tôi xin sẵn sàng thi hành mọi hình thức kỷ luật. Người Đại đội trưởng nhìn anh ta giây lát… ông ấy nói: Anh lên bệnh xá của đơn vị khám sức khỏe lại. Không bị gì thì cũng nghỉ ngơi ba ngày. Tôi sẽ giao cho anh mười hai người lính khác. Nhưng anh phải nhớ là đừng vấp một mô đá hai lần.* - tình trong chiến hào.

Anh thấy đấy, sự vấp ngã ở đời là điều không tránh khỏi. Người không khuyết điểm chỉ là một kẻ lười biếng không hơn không kém, thì lại thường công thành danh toại. Kẻ xông pha chỉ rước họa vào thân. Người tài đức lãnh đạo những người chính trực còn không thắng, thì những kẻ võ mồm mưu cầu gì đại sự? Không vấp một mô đá hai lần thì mấy ai?! Và thường là cái vấp lần sau trầm trọng hơn lần trước. Tôi đi vào quân ngũ như đi chơi thì xá gì chuyện đi qua biển. Nên gìơ mới ngồi đây thèm nắng quê nhà. Chẳng ai cấm tôi về, nhưng đường về quê xa lắc lê thê… không khéo lại là chuyện vấp mô đá lần thứ ba thì chết không nhắm mắt. Anh còn trẻ thì đi đứng cẩn trọng. Đừng đi ngang về tắt rồi ân hận sau này.”

Mặt trời lặn nẻo ngàn. Chai rượu cạn như mọi cuộc vui đều phải tàn. Tôi nói với bác Sa: Uống xong ly rượu cùng nhau / hẹn rằng mai sẽ quên nhau muôn đời .Oâng Bùi Giáng viết câu thơ tri kỷ ấy cho muôn đời sau. Bao gìơ bác Sa gặp ông ấy, cho cháu gởi lời kính bái tiên sinh. Bác Sa cười tiễn tôi ra về, mặt trời đã khuất. Vì sao hôm cô đơn trên bầu trời chứng dám cho cuộc chia tay lần cuối. Vì tôi không bao gìơ còn được ngồi với bác ấy lần nào nữa. Những lần gặp sau này trong nhà thương, bác ấy chơi với một rừng ống nhựa… Viết lại đây - buồn lắm! Cũng đâu cả năm trời, bác Sa nằm trong bệnh viện - ngày một héo tàn cho đến khi về với cát bụi. Ngày giỗ bác Sa, tôi ngồi uống ly rượu với anh con rể của bác ấy. Nhìn cái Tuyệt tình cốc đã biến thành cái storage (nhà kho) mà lòng buồn theo tình nghĩa xa xưa. Không còn những dây mướp hương, mướp đắng… Những con ong cần mẫn/ đã bay về nơi đâu/ nắng chan chứa vườn sau… Mong cho những linh hồn đọa đầy của một thời kỳ lịch sử được ngàn thu yên giấc trong cõi vĩnh hằng. Đừng vấp một mô đá hai lần. Bây gìơ thì bác ấy đã thực sự đi qua điều đó!

Phan

Không có nhận xét nào: