Thứ Hai, 2 tháng 7, 2007

Tháng sáu nhớ…bài ca không quên

Tháng sáu. Đơn giản là sáu tháng đầu năm đã qua mà vẫn chưa làm được gì. Sáu tháng cuối năm sẽ làm được gì đây? Hay rồi cũng như sáu tháng đầu năm! Thời gian cứ lặng lẽ đánh cắp tuổi đời của chúng ta đi, có phiền trách thì nó trả cho mớ tóc bạc để ngồi bàn trưởng thượng trong những cuộc họp mặt thân quyến. Mới ngày nào, trong nhà đám giỗ, tôi thuộc loại coi xe hay chạy đi mua nước đá cho người lớn uống bia. Bây gìơ đã có cháu gọi bằng ông Út. Bọn nhỏ lăng xăng như tôi ngày xưa, bao gìơ chúng nó gọi nhau về ăn giỗ ông Út?!

Sáng nay thức dậy, ngồi với ly cà phê thường ngày. Sáng tháng sáu chưa gì đã hâm hấp nóng. Hệ thống tưới cỏ tự động, làm công việc của nó đúng gìơ như một người công nhân gương mẫu. Nhờ hơi nước bay bay mà nghe mát mẻ, tinh thần sảng khoái. Tháng sáu với tôi nhiều kỷ niệm vì tôi có nhiều người bạn cùng sinh tháng sáu. Nếu trừ tôi ra thì những người sinh tháng sáu đều trai tài; gái sắc. Tháng sáu có ngày Father’s Day. Tôi ngồi nghe những âm xưa trong tiếng lá xào xạc với chút gío đầu hè sáng sớm. Chợt nhớ hai câu: Tâm dụ phụ thân sinh bất lão/ bất ly phụ tử khả vô sầu. Muốn viết hai câu nữa cho thành bài tứ tuyệt, nhưng tới đó bí… và đã hơn hai mươi năm. Phải chăng khi cảm xúc qua rồi thì cảm tác cũng khó! Ngồi đọc lại đoản văn cũ mà tôi đã viết năm ’82 về người cha không còn nữa trong cảm nhận về ơn nghĩa sinh thành.

Đêm. Tôi vô bệnh viện với cha tôi đã nằm trong đó cả tháng nay. Làm vệ sinh cho cha tôi xong. Cho ăn, uống thuốc… báo cáo tình hình gia đình, đài BBC nói gì?… Cha tôi yên giấc trong tấm đắp phập phồng làn hơi yếu ớt. Nhìn mấy ông gìa tỉnh lẻ chung quanh thiếu người chăm sóc, còn thảm thương hơn, khó ai cầm lòng cho đặng. Tôi giúp ngưới này, lại không bỏ được người kia. Hỏi han người nọ… cuối cùng mệt phờ mới hiểu sao y tá ở bệnh viện Việt Nam ít cười! Tôi đi tìm không khí để thở.

Ngoài trời đã tối đen như mực, mặt trời lặn tự bao gìơ? Màn đêm buông xuống phố phường một màu đen ảm đạm, những bóng cây me cổ thụ rộng tàn đu đưa tí gío đêm trên tầng cao. Không gian ngộp thở của đường phố đã trở lại yên ắng phần nào cho những sinh hoạt về đêm của lề đường không đèn. Những cô gái ăn sương đã tề tựu dưới hàng me đêm. Nói cười, chửi rủa nhau ơi ơí… Vài chiếc xích lô đạp tạt qua - chóng vánh rồi đi. Tôi ngồi trên lan can lầu một của bệnh viện vì trong phòng mùi ê-te nồng nặc, mùi bệnh nhân nằm lâu - ít tắm, mùi toilet thiếu nước dội và người lau chùi, mùi nước tiểu nồng nặc hơi thuốc tây… thật khó phân biệt sinh khí và tử khí nơi đây.

Nhưng cũng không bằng tiếng rên rỉ của những người gìa bệnh hoạn nghe qúa thê lương so với tuổi đời qúa trẻ của tôi. Thần Chết cứ lởn vởn đâu đây để cắp đi những sinh linh thừa thãi trong cuộc sống bon chen từ miếng ăn, giấc ngủ… từng ngày.

Tôi nghĩ dại. Chết như mấy người lính trong phim Thế chiến thứ hai: băng ngang giao thông hào, trúng viên đạn rồi lăn ra chết vậy mà khỏe hơn chết gìa, chết bệnh… chết trong cô đơn như ông Tư đêm qua. Con gái ông tên Lựa (chả biết ông Tư lựa kiểu gì mà cô con gái đen nhẻm như Miên). Lựa nhờ tôi coi chừng ông Tư cho cô ấy về quê ở Rạch Sỏi, lấy thêm tiền lên mua thuốc, tiền ăn ở, tiền viện phí… Chắc nhà không có tiền sẵn nên cô ấy phải chờ gia đình xoay xở. Ở đây ông Tư đi lặng lẽ không người thân. Tội nghiệp hết sức. Tôi lại nhớ Sư cô ngoài Chùa sư nữ mà mẹ tôi ưa đi, Sư cô nói: “Sự chết thanh thản hay vật vã là bằng chứng của sự sống lương thiện hay gian ác!” Sư cô nói lúc tôi còn nhỏ nhưng nhớ lắm vì lần đó ông Hai Dữ trong xóm làm nghề thọt tiết heo. Ông rống lên như heo bị thọt tiết mấy ngày mà không chết được. Người ta phải lấy con dao hai lưỡi mà ông đã thọt tiết heo cả đời, gỉa bộ thọt sát bên cổ ông, lưỡi dao cắm xuống giường. Hứng cái xô đựng tiết dưới giường y như ông đã giết những con heo trong suốt đời ông. Ông Hai Dữ mới chết được. Gia đình ông thôi làm nghề ấy nữa.

Tôi suy ra ông Tư là một người hiền. Chiều qua tôi xả khăn ướt lau mình cho ông, xin thay tấm trải giường, nhưng người ta nói chưa tới ngày thay. Hình như nơi đây. Khi bệnh nhân chết rồi, người ta mới thay tấm trải giường luôn thể, cho người mới bớt sơ! Tôi thay đồ sạch cho ông Tư, cho uống thuốc… Ông không ăn bữa chiều của bệnh viện, tôi linh cảm được ông khó qua đêm. Tôi khuấy cho ông ly sữa, là tôi ăn cắp của một bệnh nhân khác - vào đây đã dăm hôm nhưng chưa chào hỏi ai một câu - gần đất xa trời rồi. Gia đình ông ta người Tàu, chắc có tiền nhưng người thân sợ lây nhiễm nên không ai vào chăm nom. Cứ bỏ cho y tá với ít tiền ‘bồi dưỡng’ như mướn con ở. Họ lấy tiền tươi rói - xỉa xói ai hay? Người nhà quay lưng với người thân thì họ cũng quay lưng với bệnh nhân. Sống chết mặc bay. Lương y như từ mẫu. Mà “từ” là “bỏ”.

Nói đến sữa thời ấy là một thứ xa xỉ, đắt đỏ. Không phải ai cũng có tiền mua. Trộm cắp như rươi trong bệnh viện. Gặp hoài hình ảnh một người gìa đi không vững trên đôi chân, vịn thành giường lần từng bước vào toilet nhưng nách không rời hộp sữa đặc có đường. Chẳng phải đem vào pha chế gì trong đó. Chỉ vì để ngoài thì hộp sữa không cánh mà bay. Trộm cắp nơi nơi… ngời ngời toàn trộm cắp. Cả nước là ăn trộm. Tôi cũng là một thằng ăn trộm làm nhơ danh Lương Sơn Bạc. Dù không trộm cho mình, trộm của người giàu dư gỉa chia cho người nghèo thiếu thốn - theo luật 108. May là cha tôi ở tù về, quan cha tự khẳng định mình: “Tau thuộc thành phần không thể cải tạo… nên chỉ uống cà phê đen. Đời đen như mõm chó rồi con ạ! Uống sữa chỉ thêm trắng lòng.”

Ông Tư uống ly sữa tôi ăn cắp được và pha cho ông như Phan Thanh Giản uống thuốc độc, thều thào dặn tôi nói lại với con cháu ông: “Ráng đưa ông về quê chôn cất”. Ông đi theo Phật lúc nửa đêm lặng lẽ đến tội nghiệp cho một đời người nông dân hiền lành. Lúc nhắm mắt cô quạnh không thân nhân, một thằng bá vơ - tôi, nhỏ giọt nước mắt cho phận người hơn là tình thân tôi có với ông.

Đêm nay về khuya lành lạnh, lại một người ra đi. Mấy người y công đẩy một bệnh nhân vừa chết xuống nhà xác. Tôi đứng nghiêm, cúi đầu, tiễn biệt người qúa cố. (Một thói quen từ bài Công dân giáo dục lớp ba.) Người trung niên ngoài ba mươi đi sau lặng lẽ, nấc lên tiếng lòng thê thiết: “Má ơi…” nghe não lòng. Không biết là vợ hay em gái anh ta đi sau, chị cúi đầu chào lại và cám ơn tôi đã trang nghiêm và thành kính chào tiễn biệt má của chị. Tiếng chị văng vẳng theo hành lang xa dần: “Thôi anh! (đừng khóc nữa) Bình tĩnh đi để lo đưa má về chôn cất”. Cũng ngộ - hai người này: Nữ bình tĩnh hơn nam. Tôi gỉa tưởng nếu là cha tôi… Tôi đang ở đây một mình. Rồi trách mình nghĩ dại. Nhưng nếu là mẹ tôi… Tôi cũng như anh kia thôi. Con gái thương mẹ kiểu chia sẻ, con trai thương mẹ thầm lặng hơn. Tiếng lòng con trai đã ứa ra là hết rồi.

Hành lang bệnh viện về khuya, sương đêm rờn rợn da người. Khơi khơi tôi nghĩ về bà gìa mới chết. Một mẹ cùng hai con. lê la trên đường mòn… Bây gìơ chỉ còn hai con. Mồ côi liếm lá đầu đường. Nghĩ về người mẹ di cư của tôi - canh cánh bên lòng quê cha đất tổ - mù khơi. Nghĩ về người-mẹ-Việt-Namï. Tôi chẳng thấy người mẹ nào sung sướng. Toàn những người mẹ âm thầm theo cách riêng của mình để nuôi dạy đàn con. Khi con lớn thì mẹ đã gìa. Sống như cái bóng không còn che mát được cho ai nên ưa bị bỏ quên theo năm tháng. Chợt một ngày biếng ăn, lười nói… Mẹ thầm lặng ra đồng coi như xong một kiếp người không may - trời sinh ra làm Mẹ. Đời người phụ nữ quê tôi. Không nghĩ thì thôi. Nghĩ đến là muốn ứa nước mắt.


*


Ngoài bờ tường bệnh viện nhộn nhịp sự sống về đêm. Những câu thô lỗ giọng nam, giọng nữ cứ réo rắc như bản tình ca hè phố rồi theo màn sương đêm lắng dịu. Tiếng con nít khóc khàn do đói và vòi mẹ làm tôi chú ý. Ở gốc me, người mẹ trẻ đang ngã gía với khách hàng là tên ma cô đầu đường xó chợ nào đó. Sự thỏa thuận miễn cưỡng diễn ra chóng vánh, họ tự nhiên hành lạc như thú hoang lạc đàn. Đứa bé cứ khóc, bò quanh chân họ. Tên ma cô đá nó, nó khóc ré lên. Mẹ nó xô tên ma cô ra, cãi vã… Hai bên lại xáp vô bản hợp đồng theo luật cung cầu của Tạo hóa trừng phạt con người. Đứa bé cứ khóc, bò quanh như người giám thị tinh tường. Một chứng nhân lịch sử của nước mất nhà tan. Thời kỳ qúa độ của Sàigòn đổi chủ. Phất phơ lá cờ máu trong sương đêm bên ngôi nhà ai vừa bị đánh tư sản hay đã vượt biên gì đó. U hoài.

Tôi ngồi nhìn sinh hoạt nửa đêm dưới lề đường Xã hội chủ nghĩa và viết đúng lý thuyết đã học: “Văn học phải phản ánh trung thực đời sống. Văn học phải phục vụ đời sống của nhân dân lao động…” Tôi viết: … người mẹ đĩ da xanh tóc rối. xỏa xuống đời bóng tối mây mưa. lấm thân còn bị lọc lừa. nhân danh thời cuộc có chừa ai cho. mẹ ngồi đón khách co ro. đêm về ong bướm tò mò tìm hoa. thượng vàng hạ cám trẻ gìa. cung cầu theo luật được là trao tay. bằng lòng kẻ được người may. phải đứa mặt dày ăn quỵt còn la. nhân gian một cõi ta bà. mẹ ngồi câu độ canh tà hiện sinh. lẳng lơ cúc áo vô tình. hay là cố ý khoe bình sữa tươi? thương người mẹ đĩ đôi mươi. bỏ con không nỡ nên người bán thân. con bò con khóc quẩn chân. ma cô tức giận bớt phần tiền chơi. chửi nhau rân một góc trời. đù má đù mẹ đã đời thằng coi. tính không ra kẻ thiệt thòi! mai đứa bé lớn có đòi được không? vì ai mẹ đĩ chổng mông. thiên hạ là chồng con cái không cha. màn trời chiếu đất không nhà. bán trôn nuôi miệng nghĩa là vinh quang. phất phơ cờ đỏ sao vàng. dật dờ váy đĩ cởi nàng bán trôn. gío lên thốc mộ oan hồn. âm binh các đảng thả hồn nỉ non. người coi con mắt mỏi mòn. kẻ mua chung cuộc thấm đòn giang mai. Chúa Trời, Đức Phật là ai? bỏ người mẹ đĩ bên ngoài vọng môn. lời ru đêm vắng mỏi mòn. à ơi! con ngủ cho tròn tuổi thơ. mẹ ngồi thân xác vật vờ. bên đời hiu quạnh bóng mờ ôm con. lòng đêm ôm ấp Sàigòn. bút bi bơm mực mất còn giấy thô. đường về âm phủ mơ hồ. chữ nghiêng chữ ngả cơ đồ Việt Nam.

Hiện thực hiện lên trang giấy của tôi. Tôi đang suy nghĩ về tính hiện thực Xã hội chủ nghĩa trong văn thơ cách mạng, trong ký sự của mình. Tiếng ồn bát nháo đánh thức không gian yên ắng về sáng. Chiếc xe vận tải cũ kỹ mang hàng chữ: “Xí nghiệp quốc doanh vận tải số 5”, chạy ì ạch trên đường như chuyến xe đời từ từ thắng lại. Công an từ trên thùng xe nhảy xuống. Tiếng la hét khủng bố hòa vào tiếng hét la bị khủng bố. Người người chạy toán loạn. Mẹ đĩ bật dây từ gốc me bên đường, bị kẹt đứa con nên không nhanh chân được. Bị tóm cổ, tống lên thùng xe. Công an Cộng sản không bắt con nít theo Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hay vì chút tiền bán trôn nuôi miệng đang ở trong lưng quần mẹ đĩ. Con nít không có và giữ tiền, bắt nó làm chi. Tiếng gào khóc thất thanh của mẹ đĩ từ van nài đến khóc lóc “con tôi”. Cuối cùng là chửi rủa khi người ta bị ức hiếp đến đường cùng. Chửi rủa làm cản trở nhân viên công lực đang thi hành nhiệm vụ là phản độngï. Mẹ đĩ bị đánh một cái bá súng AK vào lưng. Mẹ oằn người như con chó trúng cây đòn gánh của bà bán rong, rên ử ử… rồi im bặt trong thùng xe khi bị tống vào như người công nhân vệ sinh ném con mèo chết bởi xe cán vào chiếc xe ba gác be ván ép cao đến Thiên đình - cuối thế kỷ 20 - chỉ có ở Việt Nam. Chiếc xe chạy đi như xe bắt chó mới tóm được vài con, phải ra Ông Tạ gấp cho kịp chợ. Đứa bé khóc thất thanh khi bị dứt ra khỏi hơi ấm của mẹ. Nó bò lên Niết bàn hay bò về Âm phủ?! Nó bò tìm hơi ấm và lời ru của mẹ với giấc mơ làm người không thành. Gốc me gìa không ôm ấp nó nữa vì thần me đã vượt biên nên nó khóc. Bơ vơ. Lạc loài. Còn từ ngữ nào tàn độc hơn để nói hết thú tính của những người cộng sản vô lương! Đánh đập phụ nữ, bạc đãi trẻ em. Họ ăn lông ở lỗ trong rừng nhiều năm nên tính người thoái hóa. Họ chỉ còn thú tính bản năng trong xã hội con người. Họ đột ngột ra thành phố sau chiến thắng, hành xử như bầy sói hoang với dân đen như bầy cừu đã bị người chăn cừu bỏ lại trong cái nông trại nát bét mà ông không còn thiết tha hai từ: “ông chủ”.

Chiếc loa phóng thanh trên cột đèn trong bệnh viện báo sáng bằng giọng hát Cẩm Vân: “…Có một bài ca không bao gìơ quên, là lời đất nước tôi chẳng phút bình yên… có một bài ca không bao gìơ quên, là lời mẹ ru con đêm đêm… bài ca tôi không quên tôi không quên… tháng ngày vất vả…”

Loa phát thanh chuyển sang phần tin tức buổi sáng - chả có gì đáng quan tâm. Những đồng nghiệp của mẹ đĩ sau một hồi chạy toán loạn đã trở về chốn cũ. Người đàn bà nào đó ẵm đứa bé tội tình trong muôn lời rủa xả bọn công an. Nó biết điều và thân phận nên rúc vào ngực người đàn bà tìm hơi ấm. Nó ngủ ngoan trên tay người đàn bà ấy - chờ sáng. Nhưng mặt trời không bao gìơ mọc cho tương lai của nó dù sáng mai mẹ nó sẽ được thả ra sau khi người ta đã lấy hết những đồng tiền bán trôn nuôi miệng, nuôi con của mẹ đĩ. Những đồng tiền dơ bẩn mà linh thiêng, lẽ ra để mua gì ăn cho nó và mẹ nó. Những người công an béo tốt được nuôi sống bằng vốn trời cho của mẹ đĩ, là Hiện thực Xã hội chủ nghĩa. Từ “vĩ đại” đi kèm với tên lãnh tụ, lẽ ra phải nhường cho mẹ đĩ. Người mẹ vĩ đại nhất trong tư duy hai mươi tuổi của tôi.

Xét về mặt xã hội thì không ai coi trọng mẹ đĩ, nhưng có mắt thấy tai nghe thì mới thấy sự vĩ đại của tình mẫu tử. Mẹ đĩ có thể không biết cha của đứa bé. Nhưng nó. Đứa con thơ là nhúm ruột của mình nên yêu thương bằng tình mẫu tử thiêng liêng. Hơn những người giàu có, trí-thức-thời… tư bản đỏ mới lên ngôi ở Sàigòn - thời ấy. Cho con đi du học Đông Aâu để lấy cái tiếng có con du học nước ngoài để lòe thiên hạ, khẳng định mình thuộc giới thượng lưu đỏ Sàigòn, hơn là thật sự chăm lo cho tương lai con cái. Sự thành đạt của con cái ở nước ngoài phản cảm với cái tôi bịp bợm của người mẹ thành khoảng cách mẹ-con, không còn dung hợp. Giải thích ngụy biện bằng lời tên thầy bói chết bầm, trôi sông lạc chợ, ăn nói vô lương: “Mẹ con chị không hạp tuổi ở gần”. Tình nghĩa mẹ-con có thế thôi. Nên thời buổi sinh ra những đứa con mồ côi khi cha mẹ còn sống! Sự giàu sang bất chính có cái gía của nó.

Cha tôi rọ rậy trong phòng. Tôi vô giúp ông đi tiểu, uống nước. Trở ra với những giòng chữ rất thật của tôi trên tờ giấy mềm vì ướt hơi sương. Trời hừng đông như không có gì đêm qua. Tôi cất mảnh giấy vào túi áo và đến trường. Những nụ cười trên môi của mấy cô bạn học - lạt nhách. Sau khi điểm danh theo thông lệ. Tôi trốn lên thư viện. Ngủ không được, viết không được. Viết thật như tờ giấy trong túi áo tôi thì không được chấp nhận thậm chí còn bị đi tù. Nhưng viết láo toét thì lương tâm để đâu? Sống trong thời buổi lương tâm không bằng lương thực. Nhiều thầy cô đáng kính trước đây đã phải vứt lương tâm vô thùng rác vì miếng cơm manh áo. “Người dạy học phải có cái tâm nhân ái, dạy văn là dạy làm người - học văn là học làm người.” Nguyên tắc giáo dục là như thế! Nhưng người dạy Văn nay đâu? Người học văn mai đây không thoát vượt biên thì tương lai vô định. Nghĩ đến hai chữ “tương lai” mà ngán ngẩm.


*


Nhiều năm qua rồi. “Dòng đời” là từ ngữ vừa hay vừa đúng trong tiếng Việt. Dòng đời trôi chảy mãi với tháng năm. Tôi vẫn cất giữ những năm tháng dại khờ, trong đó có Mẹ đĩ như một kỷ niệm không quên. Cất giữ tiếng hát Cẩm Vân với “bài ca không quên”. Người ca sĩ có gương mặt buồn như thời đại và đất nước Việt Nam sau “giải phóng”.

Nơi này, người ta nghĩ ra ngày Mother’s day để vinh danh, tưởng niệm… người Mẹ - một hành vi nhân bản của loài người tiến bộ. Từ ngữ Cộng sản mà lại đúng trong xã hội Tư bản. Tôi không quên được người mẹ vĩ đại mà ít nhất một lần tôi đã gọi người là Mẹ đĩ.

Mỗi năm trên quê hương của sự tôn trọng phụ nữ và con nít, ngày Mother’s day lại nhắc nhở tôi chốn quê nhà: Không biết người Mẹ đĩ năm xưa có còn trên cõi đời vì hành nghề ấy thì làm sao tránh khỏi những căn bệnh xã hội - chết người. Đứa bé năm xưa đã bò được tới đâu trong xã hội ‘bottom line’ của nó? Lịch sử rồi qua đi, con người, thời đại cũng qua đi. Tôi lỡ mang ký ức một ‘chứng nhân lịch sử’. Hy vọng tôi là chứng nhân cuối cùng của lịch sử tối đen nơi quê nhà.

Mỗi năm. Nhìn, nghe các con tôi rù rì rủ rỉ trong phòng - khóa cửa, để bất ngờ đem ra cho mẹ một món qùa. Tôi thầm cảm ơn Thượng Đế đã ban phát ân sủng xuống gia đình tôi. Trong hạnh phúc nhỏ nhoi của một gia đình tha phương cầu thực. Người chủ gia đình vẫn còn âm ỉ trong sâu xa một ký ức không quên. Ký ức của một chứng nhân lịch sử. Tháng sáu cho cha tôi chỉ là đọc lại một thời đã qua. Tôi có người cha: “Đời đen như mõm chó rồi con ạ! Uống sữa chỉ thêm trắng lòng.”

Phan

Không có nhận xét nào: