Thứ Hai, 2 tháng 7, 2007

Đâu là sự thật? Về việc chính quyền cưỡng chế kê biên nhà tài sản ông Nguyễn Hồng Quang

Ông Nguyễn Hồng Quang sinh năm 1920 ( 87 tuổi ) cư trú tại 04 đường Tô Vĩnh Diện – Tổ 3 – Phường Hoa Lư – TP. Pleiku – Gia lai, Cán bộ hưu trí, Tin Chúa năm 2006, hiện đang sinh hoạt tại Hội thánh Tin lành Pleiku, Tel;059824385 – Mobifon:0983811258,

Ông Nguyễn Hồng Quang tham gia sinh hoạt đảng cộng sản vào ngày 15/08/1945, chính thức kết nạp đảng vào năm 1949, đến năm 1982 ông Nguyễn Hồng Quang bị khai trừ ra khỏi đảng cộng sản Việt nam, Vì lý do ông tham gia đấu tranh tiêu cực trong thời kỳ bao cấp, cho nên ông Nguyễn Hồng Quang chỉ còn lại quyền lợi cán bộ hưu trí. Vào năm 2003, Ủy ban nhân dân tỉnh Gia lai – Kon tum đã cấp cho ông Nguyễn Hồng Quang một mảnh đất tại số 47 Tô Vĩnh Diện bây giờ, có diện tích 230m2, đến năm 1994 Ủy ban nhân dân tỉnh Gia lai – Kon tum cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở mang số 340/CN/UB ngày 06/07/1994, do phó chủ tịch tỉnh Gia lai – Kon tum, ông Đào Quang Phổ đã ký.

TÌM HIỂU HỒ SƠ:
Vào năm 1995, Vợ chồng ông Nguyễn Hồng Quang có mượn của ông Nguyễn Tương 2 chỉ vàng 9t8, lúc bây giờ vợ chồng ông Tương đòi lại 2 chỉ vàng 9t8 thì vợ chồng ông Nguyễn Hồng Quang không có điều kiện để trả, cho nên vợ chồng ông Nguyễn Hồng Quang có ý định chuyển nhượng mảnh đất được nhà nước cấp lại cho vợ chồng ông Tương với giá 45 chỉ vàng 9t8 ,, thì vợ chồng ông Tương đồng ý, sau đó vợ chồng ông Quang viết một giấy tay chuyển nhượng làm mẫu, hai bên chưa ký vì ông Quang chờ vợ chồng ông Tương giao đủ vàng rồi mới ký và giao toàn bộ chứng từ nhà đất cho vợ chồng ông Tương, nhưng ông Quang chờ hoài không thấy vợ chồng ông Tương giao 45 chỉ vàng,

Vào năm 1997 trong lúc vợ chồng ông Tương chưa giao 45 chỉ vàng cho vợ chồng ông Quang, trong tay ông Tương cũng chưa có hồ sơ chứng từ về mảnh đất của vợ chồng ông Quang, vậy mà vợ chồng ông Tương đứng ra bán mảnh đất của ông Quang cho bà Rơchăm Phớt với giá 72 chỉ vàng 9t8, như vậy ông Tương đã có tính toán trước,

Đến năm 2002 ông Nguyễn Hồng Quang làm đơn xin phép xây dựng nhà ở được ông Phạm Tấn Ca trưởng phòng tài nguyên môi trường thành phố Pleiku xác nhân, bên cạnh ông Nguyễn Hồng Quang cũng được ông Võ Ngọc Thành Chủ tịch UBND thành phố Pleiku cấp giấy phép xây dựng mang số 77,GP-XD ngày 10/06/2002,

Vào năm 2002, khi bà RơchâmPhớt thấy vợ chồng ông Quang cất nhà thì bà Phớt làm đơn kiện vợ chồng ông Tương đòi lại 72 chỉ vàng 9t8, lúc bây giờ vợ chồng ông Tương cũng đâm đơn kiện vợ chồng ông Quang với lý do đã nhận 45 chỉ vàng 9t8 rồi mà không giao đất, Vợ chồng ông Quang thì cho rằng chưa nhận 45 chỉ vàng 9t8 thì làm sao giao đất, sự việc xảy ra có nhiều mâu thuẫn, hai bên liên tục khiếu nại và được các cơ quan tòa án cấp tỉnh cho tới tòa án tối cao vẫn chưa có kết luận chính xác giải quyết thỏa đáng,

Vào ngày 03/08/2004 Tòa án nhân dân thành phố Pleiku giải quyết vụ án tranh chấp đất đai giữa vợ chồng ông Tương và vợ chồng ông Quang, theo kết luận bản án số 34/DSST, ngày 03/082004, ông chủ tọa phiên tòa Nguyễn Văn Châu đã ký, kết luận như sau, Tòa án buộc vợ chồng ông Quang phải trả lại vợ chồng ông Tương 45 chỉ vàng 9t8 và thiệt hại 386.025.000đ, 288.000đ tiền giám định chữ viết (bản photo) 135.000đ tiền định giá, 15.600.000đ, án phí dân sự sơ thẩm,

Theo bản án số:23/DS-PT ngày 06/04/2005 của tòa án nhân dân tỉnh Gialai, do ông Võ Văn Bình, (Thẩm phán chủ tọa phiên tòa) cũng có cùng quyết định giống bản án số:34/DSST, ngày 03/08/2004 của tòa án thành phố Pleiku,

Viện kiểm sát tối cao nghiêm cứu hồ sơ của vụ án tranh chấp đất, giữa vợ chồng ông Tương và vợ chồng ông Quang có nhiều mâu thuẫn vì chứng cứ mập mờ không rõ ràng, căn cứ bản án số 23/DSPT, ngày 06/04/2005 của tòa án tỉnh Gialai, và bản án 34/DSST, tòa án thành phố Pleiku, ngày 03/08/2004, hai bản án kết luận không khách quan thiếu chuẩn xác, Viện kiểm sát tối cao ra quyết định số 113/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 16/10/2006, do ông Khuất Văn Nga phó viện trưởng đã ký đình chỉ thi hành bản án,

Vì Viện kiểm sát tối cao cho tòa án thành phố Pleiku và tòa án tỉnh Gia lai căn cứ trên bản viết tay giấy giao vàng photo ngày 04/04/1995 (BL,26) cho đi giám định không có bản gốc để đối chiếu làm cơ sở kết luận cho nên không có giá trị pháp lý, vì Viện kiếm sát cho rằng, cần làm rõ người mạo chữ ký của ông Quang, ai đã đã mạo chữ ký của ông Quang ký vào bản photo nhận 45 chỉ vàng? Cho nên tòa án cấp sơ thẩm căn cứ tài liệu photo kết để kết luận ông Quang nhận 45 chỉ vàng của ông Tương là không có cơ sở vững chắc,

Căn cứ một số hợp đồng sử dụng đất đề ngày 04/04/1995 do vợ chồng ông Tương tự lập chuyển nhượng cho bà Phớt do cô Hương con bà Phớt đứng tên không có vợ chồng ông Quang ký phần chuyển nhượng đất, ông Quang chỉ ký phần (tổ dân phố) vì lúc bây giờ ông Quang làm tổ trưởng tổ dân phố,

Vào ngày 22/03/2007 Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giám đốc thẩm số:75/200-DS-GĐT, do ông Ngô Anh Dũng (Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tối cao) quyết định, không chấp nhận khán nghị 113/QĐ-KNGĐT-V5, ngày 16/01/2006 của Viện trưởng viện kiểm sát tối cao, Tóa án tối cao công bố giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 23/DS-PT ngày 06/04/2005 của tòa án nhân dân tỉnh Gialai,

Vào ngày 09/05/2006, Báo pháp luật TpHcM, do cơ quan viện kiểm sát tối cao phát hành, có đăng bài báo với tựa đề "Sự thật vẫn chưa được làm rõ” bài báo cũng nêu rõ ra 3 dự kiện, Mập mờ từ một thỏa thuận?: Chứng cứ chỉ là…các bản photo ?: Bản photo cũng được giám định ?

Báo pháp luật Gialai đăng bài “Khi phiên tòa xử mà không xét” Những điều vô lý chỉ có tòa không biết ?

Báo Gia lai đăng bài “xung quanh bản án được tuyên, dựa trên chứng cứ sao chép lại giấy nhận vàng “

Cũng vào lúc 8h20 ngày 14/06/2007, Ủy ban nhân dân thành phố Pleiku tổ chức đoàn cưỡng chế đủ các ban nghành đến cưỡng chế kê biên tài sản nhà ông Nguyễn Hồng Quang, tại số 47 tổ 3, phường Hoa Lư, TP.Pleiku, Gia lai, theo văn bản cưỡng chế của UBND thành phố Pleiku thì vào ngày 27/06/2007, UBND thành phố Pleiku sẽ định giá và bán đấu giá tài sản, văn bản do Nguyễn Thứ Trưởng chấp hành viên, đội thi hành án dân sự thành phố Pleiku ký cùng ngày,

HOÀN CẢNH GIA ĐÌNH:
Chúng tôi đã tìm hiểu với bà con dân khu phố 3 cũng như một số cán bộ đảng viên lão thành cho biết, Vợ chồng ông Nguyễn Hồng Quang đã lớn tuổi, tính tình hiền hòa chất phát, vợ chồng ông Nguyễn Hồng Quang sống với bà con khu phố cũng như các mối quan hệ trong xã hội rất tốt, là một cán bộ lão thành ông làm tròn trách nhiệm đối với dân, tuy mới tin Chúa, nhưng hai ông bà thường xuyên đến Hội thánh cầu nguyện mỗi chủ nhật rất trung tín, ông bà Quang cũng có một cô con gái là cô Nguyễn Thị Nguyên đã lập gia đình, Hiện giờ hai ông bà ở với nhau trên căn nhà này.

NHỮNG ĐIỀU VÔ LÝ:
1. Đất ông Nguyễn Hồng Quang được Chính quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp vào năm 1994, ông Nguyễn Tương chuyển nhượng đất của ông Quang vào năm 1995, vậy sao ông Tương không có bản coppy giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ông Quang ? lúc bây giờ luật đất đai 1993 đã có hiệu lực tại sao ông Tương không làm thủ tục chuyển nhượng đất theo qui định của pháp luật ?

2. Ông Tương căn cứ trên bản coppy giấy giao 45 chỉ vàng cho ông Quang để làm cơ sở kiện ông Quang, khi cơ quan tòa án yêu cầu bản chính thì ông Tương nói “đốt rồi” chỉ còn bản coppy, trong khi đó ông Quang khẳng định với cơ quan tòa án rằng, ông Quang chưa ký vào giấy giao vàng, như vậy việc ông Tương đốt bản chính để lại bản coppy và việc ông Quang chưa ký vào giấy nhận vàng, hai vấn đề này rất mâu thuẫn ?

3. Cơ quan giám định khoa hoặc hình sự giám định bản coppy giấy mượn vàng không có bản chính có hợp lệ không ? có phải chăng bản coppy giấy mượn vàng làm cho cơ quan giám định khoa học hình sự khó có thể phân biệt nhận dạng chăng ? Nếu ông Tương cung cấp bản chính giấy mượn vàng, cho cơ quan GĐKHHS căn cứ trên chữ viết dấu mực và thời gian, đối chiếu các mẫu chữ của ông Quang qua kinh nghiệm nghiệp vụ thì có phải chính xác hơn không? tại sao ông Tương lại đốt bản chính để lại bản coppy làm bằng chứng cho vụ kiện ? Trong khi ông Tương có con trai là ông: Nguyễn Hoàn làm công an tại Thành phố Pleiku, con dâu là Ninh Thị Minh Hoa làm công an tỉnh Gia lai, cho nên ông Tương phần nào cũng hiểu biết pháp luật hơn ông Quang chứ không đến nỗi không biết,

4. Trong lúc các thủ tục chuyển nhượng mua bán đất giữa ông Quang và ông Tương chưa thỏa thuận dứt khoát, thì vào năm 1997 ông Tương chủ động chuyển nhượng diện tích đất của ông Quang cho bà RơchămPhớt, cho đến khi ông Quang cất nhà vào năm 2002, thì bà Phớt kiện ông Tương và đòi lại 72 chỉ vàng,

5. Về việc chuyển nhượng đất giữa ông Quang và ông Tương trở ngại về vấn đề mua bán từ năm 1995 tại sao ông Tương không khởi kiện ngay vào thời điểm 1995, mà để đến khi bà Rơchăm Phớt khởi kiện ông Tương trả lại 72 chỉ vàng vào năm 2002, rồi ông Tương mới khởi kiện ông Quang tiếp theo?

6. Về việc có một số cán bộ phường Hoa Lư, ông Phan Tấn Lực (CT) ông Ngô Văn Bằng PCT) ông Huỳnh Văn Trà địa chính phường Hoa Lư vào thời điểm năm 1995, đứng ra xác nhận ký các hợp đồng chuyển nhượng đất, giữa ông Quang, ông Tương. Như vậy theo luật đất đai 1993, khi hai bên mua bán sang chuyển nhượng đất đai, các thủ tục mua bán sang chuyển nhượng đất chưa ràng hoặc đất chưa hợp pháp, thì UBND phường Hoa Lư căn cứ vào đâu để làm hợp đồng chuyển nhượng đất ? Nếu ông Tương và ông Quang đã đầy đủ các thủ tục sang chuyển nhượng đất hợp pháp, thì UBND phường Hoa Lư đã làm thủ tục sang chuyển nhượng đất của ông Quang sang cho ông Tương rồi. Căn cứ lời xác nhận của UBND phường Hoa Lư trong bản án của tòa án tối cao số:75/200-DS-GĐT, ngày 22/03/2007, thì UBND phường Hoa Lư đã xác nhận làm thủ tục mua bán sang chuyển nhượng đất đai từ ông Quang qua ông Tương rồi, như vậy tại sao vào năm 2002 UBND phường Hoa Lư lại cấp phép cho ông Quang làm nhà trên đất đã sang nhượng ? cho nên việc mua bán sang chuyển nhượng đất giữa ông Quang và ông Tương cả UBND phường Hoa Lư có quá nhiều mâu thuẫn, cho nên chúng tôi mong các cơ quan chức năng chính phủ Việt nam sáng suốt, tìm ra lẽ phải cho người dân,

Chúng tôi cũng xin quí vị quan tâm cầu nguyện nhiều cho ông bà Nguyễn Hồng Quang, để Chúa giúp ông bà giữ lại ngôi nhà và tài sản,

Ms. Nguyễn Công Chính
(Kèm theo một số hình ảnh và văn bản báo chí)