Thứ Tư, 29 tháng 8, 2007

Thư của một người Việt Nam, gởi ông Michael Michalak tân Ðại sứ Mỹ tại Việt Nam

Kính thưa ông Đại Sứ

Nhân dịp ông đại diện cho chính phủ Hoa Kỳ đến đất nước Việt Nam chúng tôi trong vai trò đại sứ, nhân danh cá nhân và trên 80 triệu công dân Việt Nam xin gởi đến ông những ước mơ cùng nguyện vọng của dân tộc tôi. Xin kính chúc cho ông luôn luôn dồi dào sức khỏe.

Chúng tôi được biết rằng trước khi đến Việt Nam, ông đã từng gặp gỡ các nhà đấu tranh dân chủ ở Hoa Kỳ, ông cũng có hứa là sẽ thường xuyên gặp gỡ các nhà bất đồng chính kiến đang đấu tranh ôn hòa trong nước. Chúng tôi hy vọng với sự giúp đỡ nhiệt tình của ông cùng với những ảnh hưởng liên kết không thể thiếu được giữa đất nước Việt Nam và Hoa Kỳ thì trong một tương lai không xa, nhân quyền trong đó mọi quyền tự do căn bản của con người sẽ được thực thi đúng mức ở đất nước chúng tôi đúng như những gì mà ĐCSVN đã từng cam kết thi hành trước Liên Hiệp Quốc và các công ước quốc tế. Đây cũng là ước mơ chung không những cho toàn dân Việt Nam trong nước mà còn cho hơn 3 triệu đồng bào Việt Nam ở nước ngoài, trong đó đông nhất là ở Hoa kỳ.

Với truyền thống đầy lòng nhân ái và tinh thần bao dung rộng lượng của tổ tiên chúng tôi để lại, toàn dân tộc chúng tôi sẵn sàng quên đi quá khứ mà chính quyền CSVN đã gây ra với những cảnh tượng kinh hoàng và đen tối nhất trong lịch sử VN. Thật vậy, vào những năm 1954-1956, ĐCSVN đã tiến hành cuộc cải cách ruộng đất với những cảnh thanh trừng đẫm máu các thành phần không cùng quan điểm với đảng đã khiến cho hơn 300 ngàn người dân vô tội phải bị giết oan và tiếp theo những năm sau đó lại thêm cuộc thanh trừng đối với các văn nghệ sĩ qua phong trào nhân văn giai phẩm, tội ác tàn bạo này lại được ĐCSVN lập lại vào dịp tết Mậu Thân năm 1968 tại cố đô Huế với những mồ chôn tập thể được bỏ lại khi rút lui vì sự quyết tâm tái chiếm lại Huế của Quân Lực VNCH.

Nhân dân Việt Nam thật là vô phước khi phải chịu sống trong những hoàn cảnh đau thương này. Trước năm 1975 Hoa kỳ đã đến đất nước chúng tôi để cùng với nhân dân miền Nam chúng tôi chiến đấu bảo vệ nền tự do dân chủ trước sự xâm lăng của chủ nghiã Cộng sản đầy tham vọng với mục tiêu thế giới đại đồng, nhưng rồi cũng vì quyền lợi riêng mà Hoa Kỳ đã bỏ rơi miền Nam VN để cho CS chiếm, khiến cho sự hy sinh của trên 58 ngàn quân nhân Mỹ trên đất nước VN đã không tròn nguyện ước. Chính vì sự quay lưng của chính phủ Hoa Kỳ lúc đó mà ĐCSVN đã thống nhất đất nước theo con đường cộng sản. Với nền tự do dân chủ và cuộc sống sung túc của nhân dân miền Nam VN đã không thay đổi được tư duy của hàng lãnh đạo CSVN. Sau bao cuộc thanh trừng từ việc đánh tư sản, phân chia ruộng đất cho đến việc đầy đọa tàn bạo dưới hình thức tập trung cải tạo hầu hết quân nhân, cán chính của VNCH, tập trung dân thành thị vào những vùng đồng khô cỏ cháy được mệnh danh là khu kinh tế mới…v.v… khiến cho cuộc sống của nhân dân miền Nam phải chịu chung cảnh khổ mà nhân dân miền Bắc thân yêu đã chịu đựng trong suốt 30 năm dài dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN. Đây là hệ qủa tất yếu khiến cho hơn 3 triệu người Việt Nam giờ đây phải chấp nhận cuộc sống tha hương trên khắp thế giới trong đó cũng có hàng trăm ngàn người phải bỏ mình nơi biển cả, nhưng với sự văn minh vượt bực của nền dân chủ đa nguyên trên thế giới cũng như với sự thành công của các kiều bào Việt Nam ở hải ngoại, cùng với sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa CS ở Liên Sô và cả khối Đông Âu đã khiến cho ĐCSVN bắt buộc phải chấp nhận nền kinh tế thị trường của tư bản.

Tuy nhiên, cũng vì tham vọng quyền lực và sự giàu có bất minh mà các nhà lãnh đạo CSVN không dám mở rộng con đường cạnh tranh về chính trị, bởi vì họ biết rằng nếu cho các thành phần không cùng quan điểm được tự do chỉ trích những sai trái của chính quyền cũng như cho phép báo chí tư nhân hoạt động theo như những gì mà ĐCSVN đã từng cam kết thì không bao giờ người dân chấp nhận sự cai trị suốt đời của đảng cả, và trên 600 tờ báo quốc doanh sẽ không bao giờ tồn tại. Vì thế cho nên ĐCSVN đã lừa dối cả thế giới bằng những luận điệu tuyền truyền có hệ thống từ trong nước cho đến quốc tế.

Nhân dân Việt Nam cũng không hiểu vì sao Hiệp định đình chiến Paris ngày 27/01/1973 quy định tổng tuyển cử để cho nhân dân chọn lựa thành phần lãnh đạo đất nước có sự tham gia và bảo đảm của các cường quốc trong Hội đồng Bảo an LHQ, nhưng khi ĐCSVN xé bỏ hiệp định để dùng quân sự với sự tiếp sức tối đa của Liên Sô và Trung Quốc đánh chiếm miền Nam trong lúc có sự hiện diện của Ủy ban Kiểm soát đình chiến, thế nhưng LHQ và các cường quốc đã ký tên trong hiệp định đều lặng thinh trước hành động vi phạm này của CS.

Nhân dân VN cũng nhận thấy rằng chính quyền CSVN đã từng tham gia cam kết thi hành các công ước quốc tế như: Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 của LHQ được thừa nhận trên toàn thế giới và Công ước Quốc tế quy định về quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 ..vv.. tất cả cũng đều khẳng định là quyền tự do ngôn luận, quyền quảng bá ý kiến và tin tức qua mọi phương tiện truyền thông và qua mọi biên giới, cũng như mọi người đều có quyền giữ vững quan điểm của mình mà không bị ai can thiêp. Tại Việt Nam những quyền tự do căn bản đó cũng được ghi trong điều 69 của Hiến pháp năm 1992. Nhưng trên thực tế không bao giờ được nhà nước CSVN tôn trọng và thi hành, những ai không cùng quan điểm vơí đường lối cai trị độc tài của đảng mà dám công khai nói lên tiếng nói lương tri của con người dù là một cách ôn hòa, đều bị ĐCSVN liệt vào thành phần tuyên truyền chống phá nhà nước theo điều 88 Bộ luật Hình sự, một điều khoản đi ngược lại điều 69 của chính Hiến pháp do ĐCSVN đề ra, nó cũng hoàn toàn không phù hợp với Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và các Công ước Quốc tế quy định về quyền Dân sự và Chính trị, mà Việt Nam là một thành viên đã từng cam kết thi hành.

Điển hình trong thời gian vừa qua chính quyền CSVN đã thẳng tay đàn áp thô bạo và bắt giam gần hết các nhà đấu tranh tự do dân chủ một cách ôn hòa như LS Nguyễn Văn Đài, LS Lê Thị Công Nhân, LS Nguyễn Bắc Truyền, BS Lê Nguyên Sang, Ký giả Huỳnh Nguyên Đạo, Ký giả Trương Minh Đức, nhà văn Trần Khải Thanh Thuỷ, chuyên viên Nguyễn Phong, các công nhân Nguyễn Huy Chương, Nguyễn Tấn Hoành, cựu chiến binh Lê Trí Tuệ, LS Nguyễn Thị Thùy Trang, Lê Thị Bích Hằng, dân oan Hồ Thị Bích Khương, Ngô Lướt .

Nghiêm trọng và trắng trợn hơn, xem thường dư luận nhất là phiên tòa bịt miệng LM Nguyễn Văn Lý với hình ảnh đã được lan truyền khắp thế giới. Hiện nay số người bị CSVN bắt giam về tội tuyền truyền chống nhà nước không sao biết hết được. Ngoài ra, số người mà trong thời gian qua vì áp lực quốc tế buộc CSVN phải thả ra như nhà báo Nguyễn Vũ Bình, BS Phạm Hồng Sơn, LS Lê Quốc Quân, nhà báo Nguyễn Khắc Tòan….v.v…đã cùng với những người khác như GS Hoàng Minh Chính, GS Trần Khuê, TS Nguyễn Thanh Giang, ông Lê Hồng Hà, giáo viên Dương Thị Xuân, kỹ sư Đỗ Nam Hải, nhà văn Nguyễn Xuân Nghiã, Trung tá Trần Anh Kim…v.v… (còn rất nhiều mà chúng tôi không nhớ hết) hàng ngày chịu cảnh quản chế, bị trù dập và công an theo dõi gắt gao cả ngày lẫn đêm, công ăn việc làm đều bị cắt bỏ hòan toàn. Tháng 11 năm 2006 VN đăng cai tổ chức Hội nghị APEC và khi Tổng thống Mỹ cùng các nhà lãnh đạo của các nước phát triển trên thế giới có mặt tại VN, thì tất cả các nhà bất đồng chính kiến với đảng CS đều bị công an cô lập không cho tiếp xúc với bên ngoài, tư gia của họ được công an đặt chốt canh gác ngày đêm.

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kể từ năm 1981 là năm mà ĐCSVN thành lập Giáo Hội quốc doanh thì tất cả những cơ sở tài sản của GHPGVNTN đều bị tịch thu cho đến ngày nay, chùa chiền của GHPGVNTN thì thường xuyên bị chính quyền sách nhiễu, hăm dọa khiến cho tín đồ không dám vào chùa để hành đạo, nhị vị hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ thì bị quản chế thường xuyên không biết đến bao giờ mới hết, thiền viện nơi 2 Ngài an trụ thì được công an canh gác ngày đêm, các nhà sư và chùa chiền, tự viện của GHPGVNTN trên toàn quốc cũng đều có chung hoàn cảnh. Chỉ có các chùa chiền, tự viện và các nhà sư quốc doanh được chính quyền công nhận và quản lý dưới sự kiểm soát của ban tôn giáo và Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc thì mới được tự do hành đạo, tín đồ các tôn giáo chỉ được tự do hành lễ ở những nơi đã được chính quyền quản lý và cho phép.

Tôn giáo Tin lành hệ Mennonite ở Tây nguyên vẫn thường xuyên bị công an đàn áp ngày đêm khiến cho một số tín đồ chịu không nổi đành phải tìm đường lánh nạn sang Campuchia. Một sự thật qúa rõ ràng như thế nhưng không hiểu sao chính quyền CSVN lại được chính phủ Hoa kỳ cho hưởng quy chế PNTR và bỏ tên trong danh sách các quốc gia cần đặc biệt quan tâm CPC vv…, bởi vậy cho nên sau khi ĐCSVN được toại nguyện rồi thì họ với bản chất sẵn có lại gia tăng những cuộc đàn áp dã man chưa từng có trong thời gian hơn 20 năm qua, chiến dịch vừa đánh vừa đàm của CSVN vẫn còn hiệu qủa và lời nói của cố Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: “Ðừng tin những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm” vẫn mãi mãi là chân lý cho những ai còn tin vào những lời hứa của các nhà lãnh đạo đảng CSVN.

Thưa ông Đại sứ,

Chúng tôi còn nhớ lời nói của TT Bush tại Spokane trước khi đến VN tham dự hội nghị APEC đại ý là: Việt Nam muốn vào WTO thì phải chấp nhận cuộc chơi. Cuộc chơi của WTO là bắt buộc mọi thành viên phải chấp nhận có sự cạnh tranh lành mạnh từ kinh tế lẫn chính trị, nghĩa là phải chấp nhận đa nguyên trong mọi thành phần của xã hội. Nhưng một thực tế qúa phũ phàng là chính quyền CSVN chỉ chấp nhận kinh tế đa thành phần (bởi vì đa số người giàu có bây giờ là chính những cán bộ cao cấp hoặc con cái, thân nhân, dòng họ của những cán bộ chức quyền), còn về chính trị thì ĐCSVN không bao giờ cho bất cứ ai cạnh tranh cả.

Điều 4 Hiến pháp quy định ĐCSVN là thành phần duy nhất lãnh đạo đất nước là sai và không phù hợp cho một thành viên LHQ và WTO, ngay cả sự trao đổi về văn hóa và thương mại CSVN cũng vẫn không tôn trọng quy luật của WTO bởi vì thử nhìn lại xem báo chí và văn hóa phẩm của CSVN tràn ngập thế giới nhất là ở Hoa kỳ, Canada, Australia …, còn báo chí và văn hóa phẩm của người Việt hải ngoại thì không bao giờ có mặt tại Việt Nam. Trên đây chỉ là một phần nhỏ trong chuỗi dài mà ĐCSVN đang áp dụng để lừa gạt nhân dân trong nước và quốc tế, chúng tôi vì trình độ qúa giới hạn cho nên không thể trình bày hết được.

Tuy nhiên, cũng vì tôn trọng sự công bằng và lẽ phải cho nên chúng tôi rất mong ông với tư cách là đại sứ một nước lớn như Hoa Kỳ tại Việt Nam, xin ông hãy vì lương tâm mà bênh vực cho nhân dân VN có quyền làm người, được sống trong nền tự do dân chủ mà các dân tộc khác trên thế giới đang hưởng mặc dù đã qúa muộn. Ước nguyện của nhân dân VN là .

1/ Được tự do chọn lựa người lãnh đạo đất nước theo đúng tinh thần của hiến chương LHQ
2/ Được quyền gia nhập cũng như thành lập các hội đoàn độc lập với chính quyền, được quyền bày tỏ chính kiến của mình mà không bị trù dập hoặc bị trả thù
3/ Bất cứ ai nếu có đủ quyền công dân cũng đều được tự do ứng cử chớ không phải đảng cử như hiện nay, được tự do bầu cử chớ không phải bị đi bầu theo chỉ định của đảng như hiện nay
4/ Phải có báo chí tư nhân độc lập với chính quyền để người dân được tự do tiếp thu những luồng thông tin đa chiều.
5/ Phải để cho người dân chúng tôi được phê phán và giám sát chính quyền hầu tránh tình trạng chính quyền độc taì, tham nhũng thối nát như hiện nay…v.v…

Chúng tôi nhận thấy rằng: Những ước mơ mà chúng tôi đang phấn đấu đó chỉ là những quyền lợi qúa tầm thường mà nhân dân các nước tiên tiến trên thế giới đã và đang thừa hưởng, chúng tôi tin tưởng rằng chính nghĩa bao giờ cũng thắng bạo tàn phi nghĩa. Nếu đất nước VN chúng tôi có được nền tự do dân chủ như hằng mong đợi thì sự hy sinh của trên 58 ngàn quân nhân Hoa kỳ trên đất nước chúng tôi sẽ rất xứng đáng trên bầu trời tự do của nhân loại. Lịch sử Việt Nam và nhân dân Việt Nam sẽ không bao giờ quên ơn quý vị.

Chúng tôi xin đại diện cho 85 triệu con người Việt Nam yêu chuộng tự do và công bằng xin kính chúc ông và gia đình ông luôn luôn tràn đầy hạnh phúc.

Việt Nam, ngày 27/08/2007
Hoàng Trung Việt

Không có nhận xét nào: