Theo tin của BBC và của Phòng Thông Tin Phật giáo quốc tế có trụ sở đặt tại Paris ngày 3/07/2007, trong ngày 2/07/2007, đại sứ Na Uy (Norway) tại Hà Nội, ông Kjell Storlokken cùng ông Fredrik Steen, bí thư thứ nhất Đại sứ quán Na Uy đặc trách Chính trị và Kinh tế, đã đến vấn an Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ tại Thanh Minh Thiền viện ở Sài Gòn. Đây cũng là lần đầu tiên Đại sứ Na Uy từ Hà Nội bay vào Sài Gòn để gặp Hòa thượng Thích Quảng Độ.
Cuộc thăm viếng và trao đổi diễn ra trong một tiếng rưởi đồng hồ, từ 9 giờ sáng đến 10 giờ 30.
Hòa thượng Thích Quảng Độ là Viện trưởng Viện Hóa Đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một tổ chức không được nhà nước thừa nhận từ năm 1981. Vào tháng 10 năm ngoái, tổ chức nhân quyền Na Uy, Quỹ tài trợ Thorolf Rafto, đã trao giải nhân quyền cho Hòa thượng Thích Quảng Độ.
Hòa thượng Thích Quảng Độ trình bày với đại sứ Na Uy sơ lược về lịch sử Phật giáo Việt Nam, đặc biệt nhấn mạnh sinh thế Phật giáo trên các lĩnh vực tôn giáo, văn hóa, giáo dục, từ thiện xã hội trước năm 1975 và tình hình Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị nhà cầm quyền cộng sản đàn áp, không cho hoạt động kể từ sau ngày 30/4/1975.
Đại sứ Na Uy đã đặt câu hỏi về khả năng thống nhất Phật giáo Việt Nam thống nhất, thay vì có hai Giáo hội tranh chấp ngày nay.
Hiệp định Genève năm 1954 chia cắt Việt Nam thành hai thể chế chính trị. Năm 1955 Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do ông Hồ Chính Minh cầm đầu về tiếp quản Hà Nội, thì hai năm sau Tổng hội Phật giáo Việt Nam, tiền thân của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (1) bị giải thể. Nhà nước cộng sản cho ra đời "Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam", thực tế là một thứ bình phong về tín ngưỡng, là công cụ chính trị phục vụ cho các mục đích của Đảng.
Sau năm 1975, chủ trương đối với Phật giáo miền Bắc trước kia của chính quyền cộng sản lại được áp dụng tại miền Nam. Nếu như trong năm 1955, nhà cầm quyền cộng sản bỏ ra 2 năm để tiêu diệt Tổng hội Phật giáo Việt Nam, thì sau năm 1975, nhà cầm quyền Cộng sản bỏ ra 6 năm để giải thể Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất khi cho thành lập một Giáo hội Phật giáo vào năm 1981, tức là Giáo hội Phật giáo quốc doanh ngày nay.
Hòa thượng Thích Quảng Độ cũng giải thích cho Đại sứ Na Uy hiểu rằng, công cuộc đàn áp nhằm tiêu diệt tôn giáo nói chung và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất nói riêng, diễn ra trên hai phương án. Một mặt đàn áp, khủng bố, vu khống, miệt thị, bắt bớ, giam tù và quản chế, nếu không là thảm sát, hàng giáo phẩm Phật giáo. Mặt khác đem lợi danh, mua chuộc hoặc đe dọa, khủng bố nhằm lôi kéo một số tăng sĩ làm tay sai cho nhà cầm quyền trong việc chính trị hóa Phật giáo, thông qua Phật giáo quốc doanh để kiểm soát Phật tử.
Hiện nay, ở thời điểm cần hội nhập cộng đồng thế giới trên lĩnh vực kinh tế và chính trị, nhà cầm quyền cộng sản không thể khủng bố trắng bằng những cuộc thảm sát hay bắt bớ đại quy mô như trước. Nhà cầm quyền Hà Nội kích động, tuyên truyền làm cho quần chúng sợ hãi và dư luận quốc tế e dè, bằng thủ thuật vu cáo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất "làm chính trị", "âm mưu lật đổ chính quyền", v.v... Mặt khác, họ thổi kèn đánh trống cho chủ trương "thống nhất hai Giáo hội". Thực tế nhằm thanh toán sự hiện hữu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, lập lại mô thức Giáo hội Phật giáo quốc doanh của năm 1981. Vì nếu thực tâm, nhà cầm quyền Cộng sản hãy để cho Phật giáo toàn quyền lo chuyện nội bộ của mình. Do đó, Hòa thượng Thích Quảng Độ tuyên bố lập trường thống nhất Phật giáo Việt Nam của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất như sau :
1 – Hà Nội phải phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
2 – Hà Nội phải hoàn trả Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tất cả các cơ sở chùa viện, văn hóa, giáo dục, từ thiện mà Nhà nước chiếm dụng sau năm 1975. Bước đầu, hoàn trả ngay cho Giáo hội hai cơ sở chính yếu là Việt Nam Quốc tự và Trung tâm Văn hóa Quảng Đức để Giáo hội có cơ ngơi đặt trụ sở cho Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo.
3 - Giáo hội Phật giáo Việt Nam do Đảng và Nhà nước thiết lập năm 1981 ra khỏi Mặt trận Tổ quốc.
4 – Hà Nội phải làm sáng tỏ cái chết của Cố Hòa thượng Thích Thiện Minh năm 1978.
© DCVOnline
--------------------------------------------------------------------------------
Chú Thích của Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế (International Buddhist Information Bureau), B.P. 63 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France), Tel.: (331) 45 98 30 85, Fax: Paris (331) 45 98 32 61, Email : ubcv.ibib@buddhist.com:
(1): Theo sử liệu, Tăng đoàn Phật giáo thống nhất thành giáo hội từ thời Đinh. Đại Việt Sử ký toàn thư, Kỷ Nhà Đinh viết "năm Tân Mùi (Tây lịch 971), Tống Khai Bảo năm thứ 4, vua quy định cấp bậc văn võ, tăng đạo. Tăng thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt Đại sư, Trương Ma Ni làm Tăng lục". Tăng thống là chức triều Đinh phong cho người đứng đầu và lãnh đạo giáo đoàn Phật giáo, Tăng lục là chức quan trông coi Phật giáo dưới Tăng thống. Dưới thời Pháp thuộc, văn hóa và đạo lý Việt bị suy đồi, nên vào những năm 20 đầu thế kỷ XX, các bậc Cao tăng và Cư sĩ đứng lên Chấn hưng Phật giáo Việt Nam. Nhờ vậy, năm 1931, Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học ra đời tại Saigon, rồi Hội An Nam Phật học ở Huế (1932) và Hội Phật giáo Bắc Kỳ ở Hà Nội (1934), v.v... Ngày 6/5/1951, 6 tập đoàn Tăng Ni và Cư sĩ ba miền Bắc, Trung, Nam họp hội nghị Phật giáo toàn quốc ở Huế và cho ra đời Tổng hội Phật giáo Việt Nam. Nguyên do dưới thời Pháp thuộc, Dụ số 10 không công nhận Phật giáo như một giáo hội và buộc phải sinh hoạt theo quy chế hội đoàn. Sau cuộc tranh đấu cho tự do tín ngưỡng của Phật giáo thành công năm 1963, sang năm 1964 Dụ số 10 mới bị hủy bỏ, nên từ đây Phật giáo mới có danh xưng Giáo hội, gọi là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Cuộc thăm viếng và trao đổi diễn ra trong một tiếng rưởi đồng hồ, từ 9 giờ sáng đến 10 giờ 30.
Hòa thượng Thích Quảng Độ là Viện trưởng Viện Hóa Đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một tổ chức không được nhà nước thừa nhận từ năm 1981. Vào tháng 10 năm ngoái, tổ chức nhân quyền Na Uy, Quỹ tài trợ Thorolf Rafto, đã trao giải nhân quyền cho Hòa thượng Thích Quảng Độ.
Hòa thượng Thích Quảng Độ trình bày với đại sứ Na Uy sơ lược về lịch sử Phật giáo Việt Nam, đặc biệt nhấn mạnh sinh thế Phật giáo trên các lĩnh vực tôn giáo, văn hóa, giáo dục, từ thiện xã hội trước năm 1975 và tình hình Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị nhà cầm quyền cộng sản đàn áp, không cho hoạt động kể từ sau ngày 30/4/1975.
Đại sứ Na Uy đã đặt câu hỏi về khả năng thống nhất Phật giáo Việt Nam thống nhất, thay vì có hai Giáo hội tranh chấp ngày nay.
Hiệp định Genève năm 1954 chia cắt Việt Nam thành hai thể chế chính trị. Năm 1955 Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do ông Hồ Chính Minh cầm đầu về tiếp quản Hà Nội, thì hai năm sau Tổng hội Phật giáo Việt Nam, tiền thân của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (1) bị giải thể. Nhà nước cộng sản cho ra đời "Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam", thực tế là một thứ bình phong về tín ngưỡng, là công cụ chính trị phục vụ cho các mục đích của Đảng.
Sau năm 1975, chủ trương đối với Phật giáo miền Bắc trước kia của chính quyền cộng sản lại được áp dụng tại miền Nam. Nếu như trong năm 1955, nhà cầm quyền cộng sản bỏ ra 2 năm để tiêu diệt Tổng hội Phật giáo Việt Nam, thì sau năm 1975, nhà cầm quyền Cộng sản bỏ ra 6 năm để giải thể Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất khi cho thành lập một Giáo hội Phật giáo vào năm 1981, tức là Giáo hội Phật giáo quốc doanh ngày nay.
Hòa thượng Thích Quảng Độ cũng giải thích cho Đại sứ Na Uy hiểu rằng, công cuộc đàn áp nhằm tiêu diệt tôn giáo nói chung và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất nói riêng, diễn ra trên hai phương án. Một mặt đàn áp, khủng bố, vu khống, miệt thị, bắt bớ, giam tù và quản chế, nếu không là thảm sát, hàng giáo phẩm Phật giáo. Mặt khác đem lợi danh, mua chuộc hoặc đe dọa, khủng bố nhằm lôi kéo một số tăng sĩ làm tay sai cho nhà cầm quyền trong việc chính trị hóa Phật giáo, thông qua Phật giáo quốc doanh để kiểm soát Phật tử.
Hiện nay, ở thời điểm cần hội nhập cộng đồng thế giới trên lĩnh vực kinh tế và chính trị, nhà cầm quyền cộng sản không thể khủng bố trắng bằng những cuộc thảm sát hay bắt bớ đại quy mô như trước. Nhà cầm quyền Hà Nội kích động, tuyên truyền làm cho quần chúng sợ hãi và dư luận quốc tế e dè, bằng thủ thuật vu cáo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất "làm chính trị", "âm mưu lật đổ chính quyền", v.v... Mặt khác, họ thổi kèn đánh trống cho chủ trương "thống nhất hai Giáo hội". Thực tế nhằm thanh toán sự hiện hữu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, lập lại mô thức Giáo hội Phật giáo quốc doanh của năm 1981. Vì nếu thực tâm, nhà cầm quyền Cộng sản hãy để cho Phật giáo toàn quyền lo chuyện nội bộ của mình. Do đó, Hòa thượng Thích Quảng Độ tuyên bố lập trường thống nhất Phật giáo Việt Nam của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất như sau :
1 – Hà Nội phải phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
2 – Hà Nội phải hoàn trả Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tất cả các cơ sở chùa viện, văn hóa, giáo dục, từ thiện mà Nhà nước chiếm dụng sau năm 1975. Bước đầu, hoàn trả ngay cho Giáo hội hai cơ sở chính yếu là Việt Nam Quốc tự và Trung tâm Văn hóa Quảng Đức để Giáo hội có cơ ngơi đặt trụ sở cho Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo.
3 - Giáo hội Phật giáo Việt Nam do Đảng và Nhà nước thiết lập năm 1981 ra khỏi Mặt trận Tổ quốc.
4 – Hà Nội phải làm sáng tỏ cái chết của Cố Hòa thượng Thích Thiện Minh năm 1978.
© DCVOnline
--------------------------------------------------------------------------------
Chú Thích của Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế (International Buddhist Information Bureau), B.P. 63 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France), Tel.: (331) 45 98 30 85, Fax: Paris (331) 45 98 32 61, Email : ubcv.ibib@buddhist.com:
(1): Theo sử liệu, Tăng đoàn Phật giáo thống nhất thành giáo hội từ thời Đinh. Đại Việt Sử ký toàn thư, Kỷ Nhà Đinh viết "năm Tân Mùi (Tây lịch 971), Tống Khai Bảo năm thứ 4, vua quy định cấp bậc văn võ, tăng đạo. Tăng thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt Đại sư, Trương Ma Ni làm Tăng lục". Tăng thống là chức triều Đinh phong cho người đứng đầu và lãnh đạo giáo đoàn Phật giáo, Tăng lục là chức quan trông coi Phật giáo dưới Tăng thống. Dưới thời Pháp thuộc, văn hóa và đạo lý Việt bị suy đồi, nên vào những năm 20 đầu thế kỷ XX, các bậc Cao tăng và Cư sĩ đứng lên Chấn hưng Phật giáo Việt Nam. Nhờ vậy, năm 1931, Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học ra đời tại Saigon, rồi Hội An Nam Phật học ở Huế (1932) và Hội Phật giáo Bắc Kỳ ở Hà Nội (1934), v.v... Ngày 6/5/1951, 6 tập đoàn Tăng Ni và Cư sĩ ba miền Bắc, Trung, Nam họp hội nghị Phật giáo toàn quốc ở Huế và cho ra đời Tổng hội Phật giáo Việt Nam. Nguyên do dưới thời Pháp thuộc, Dụ số 10 không công nhận Phật giáo như một giáo hội và buộc phải sinh hoạt theo quy chế hội đoàn. Sau cuộc tranh đấu cho tự do tín ngưỡng của Phật giáo thành công năm 1963, sang năm 1964 Dụ số 10 mới bị hủy bỏ, nên từ đây Phật giáo mới có danh xưng Giáo hội, gọi là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét