Thứ Hai, 18 tháng 6, 2007

Cái Học và Cái Không Đáng Học I

Phạm Văn Bản

Đọc bài viết trên Đàn Chim Việt, “Trong nỗi bất an hãy tìm về nguồn sử Việt” của tác giả Nguyễn Khoa Thái Anh, bàn về Truyện Hồng Bàng trong Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp, với nhiều dịch thuật hay biên soạn công phu của nhiều sử gia, văn nhân trong thời gian qua. Thực ra, Truyện Hồng Bàng mới chỉ xuất phát từ thế kỷ 14, và gán ghép giữa truyền thuyết Con Cháu Tiên Rồng với hai biểu tượng linh thiêng cao quý của Tộc Việt, tượng trưng cho Hai Ông Bà Khởi Tổ. Không những cốt truyện để lộ âm mưu xuyên tạc về truyền thuyết, nhằm mục đích đồng hóa nguồn gốc dân Việt vào dòng giống Hoa mà còn để lộ những dữ kiện, như sau:

- Truyện Hồng Bàng đề cao người đẹp họ Âu – Âu Cơ – thành tên bà tổ của Tộc Việt. Theo cổ học, vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, cách nay 2300 năm, các sắc dân Âu Việt tràn vào vùng đất của Lạc Việt, rồi từ đó nước Âu Lạc được thành lập. Bởi thế, câu truyện này chơi chữ bằng cách gán ghép hai họ của hai sắc dân Lạc Việt, và Âu Việt thành ra tên của hai vợ chồng Lạc Long Quân và Âu Cơ.

- Truyện cũng ghi lại địa giới rộng lớn của Tộc Việt, nhưng lại cho đó là thuộc quyền cai trị của vua người Hoa mấy ngàn năm trước. Đã gán ghép nguồn gốc người Hoa cho thành tổ của Tộc Việt, của sắc dân Bách Việt… rồi lại còn đánh lận vùng đất ngàn năm của Tộc Việt đương thời thành ra đất của người Hoa.

- Theo nội dung, tuy Sùng Lãm gốc người Hoa nhưng lại là người gian manh háo sắc và vô tâm. Sùng Lãm đã dùng thủ đoạn để chiếm đoạt vợ của người anh chú bác ruột, rồi khi có gia đình với vợ với con, thì lại bỏ bê mọi trách nhiệm. Mặt khác cũng thế, Âu Cơ tuy là dân Hoa nhưng cô lăng loàn mất nết, trốn chồng theo trai tơ!

- Và rồi toàn thể trăm đứa con đều nhận biết mình là dòng giõi người Hoa, đều theo mẹ Âu Cơ đi về Bắc quốc. Nhưng về không được, nên mới đành ở lại Nước Nam. Vua nước Nam lại cũng nhẫm tâm bỏ về thủy phủ, phó mặc cho mẹ con chia nhau mà cai trị dân Nam.

Chẳng những Truyện Hồng Bàng đã có mưu đồ đồng hóa nguồn gốc Việt, nhằm thực hiện câu Giao Chỉ Diệt của Mã Viện, mà còn xuyên tạc truyền thuyết cao siêu Tộc Việt, cướp đất Dân Việt, mà còn nặng lời nhục mạ dòng Giống Việt. Đây chính là nhát búa bổ vào đầu chúng ta mỗi khi đọc truyện tích này.

Trước khi đi vào phân tích toàn bộ của vấn nạn tài liệu sách vở này, Thần Báo cũng xin thành thật cám ơn tác giả Nguyễn Khoa Thái Anh với câu nhận định của ông: “… tôi xin kêu gọi các bậc tiền bối, học giả khắp nơi giúp chúng ta tìm hiểu những ngụ ý ẩn dụ trong nghĩa trong chuyện xưa tích cũ của đân tộc, ít ra đó cũng là một truyền thống chung của dân tộc mà mọi người có thể chia sẻ. Là một kẻ theo tây (Mỹ) học, nên xin quý vị lượng thứ cho nếu tôi viết lại có gì sai sót.” Bởi thế mà Thần Báo xin phép bạn đọc, để ‘gõ trống trước cửa nhà banh’ của cái học Việt.

1. Cái Học

Dân tộc Việt Nam tự nhận mình là Con Cháu Tiên Rồng, và tự tin tự hào về nền tảng của nòi giống, để từ đó, có thể căn cứ vào nguồn gốc mà thấy mình khác biệt, hoặc trổi vượt hơn sắc dân xung quanh. Trong suốt dòng lịch sử, Con Cháu Tiên Rồng đã trở thành nền tảng tâm linh sâu vững nhất trong tư tưởng, trong huyết quản, trong đời sống của mỗi người dân Việt chúng ta.

Tuy nhiên, đang khi đại chúng Việt hãnh diện và phát huy các biểu tượng Tiên Rồng cao quý nhất của Tổ Tiên, thì lớp người trí thức lại tỏ ra lúng túng trong việc giải thích về nguồn gốc, và truyền thuyết dân tộc. Do đó hôm nay, chúng ta cần dứt khoát đi tìm hiểu tường tận, đích xác, đúng thực về nguồn gốc của mình, và những sự kiện liên quan giữa dân Việt với sắc dân khác, đặc biệt với người Tộc Hoa, nhằm loại bỏ âm mưu Giao Chỉ Diệt của họ.

Ngoài ra, lại có người dựa vào các tài liệu khảo cổ để quan niệm rằng dân tộc Việt Nam có nguồn gốc do dân từ Nam Dương. Quả thật, một số cổ vật có thể chỉ dấu rằng thời xa xưa đã có một số người cư ngụ trên vùng đất Việt Nam.

Tuy nhiên, vấn đề cốt yếu lại là tỷ lệ ảnh hưởng huyết thống và văn hóa của họ đối với dân tộc Việt Nam hiện nay. Trong thực tế, tỷ lệ đó quá thấp cho nên không đáng quan tâm, không đáng học.

2. Cái Không Đáng Học

Truyện Hồng Bàng trong sách Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp viết khoảng những năm 1370 – 1400: Vua Đế Minh, cháu ba đời của Viêm Đế, đi thăm dân vùng Ngũ Lĩnh, lấy Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục được Đế Minh cho làm vua vùng đất đông giáp Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến Hồ Động Đình, nam đến nước Hồ Tôn Tinh.

Lộc Tục lấy con vua Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm thay cha làm vua, lấy hiệu là Lạc Long Quân. Sùng Lãm cướp vợ yêu của Đế Lai tên là Âu Cơ, nhưng nhiều tác gỉa thời sau lại sửa đổi là Âu Cơ, con của Đế Lai, thay vì là vợ.

Âu Cơ sinh cái bọc chứa 100 trứng, nở ra trăm con trai. Sùng Lãm đi vắng, Âu Cơ dẫn bầy con về Bắc quốc, nhưng về không được, đành trở lại. Sùng Lãm liền chia con làm hai, 50 đứa theo Sùng Lãm xuống thủy phủ, 50 đứa theo Âu Cơ ở lại trên đất để cai trị dân… Một trăm đứa con trai đó là những vị tổ đầu tiên của Bách Việt.

a. Những Điểm Chính

- Sùng Lãm và Âu Cơ sinh 100 con trai, và họ là thủy tổ của Bách Việt, tức của toàn thể Tộc Việt.

- Bà nội của Sùng Lãm tên là Vụ Tiên, ở vùng núi Ngũ Lĩnh.

- Mẹ của Sùng Lãm tên là Long Nữ (Long Nữ có nghĩa là nàng họ Long), và là con của vua Động Đình, ở thủy phủ.

- Ông nội, ông cố, ông tổ của Sùng Lãm đều là người phàm, dòng vua, và đều là người Hoa.

- Sùng Lãm nối ngôi cha, lấy hiệu là Lạc Long Quân.

- Âu Cơ là người Hoa, vợ của Đế Lai. Nhưng nhiều tác giả thời sau ghi lại Âu Cơ là con của Đế Lai thay vì là vợ – Âu Cơ có nghĩa là người đẹp họ Âu. Bà dẫn con về Bắc quốc, mà không được.

- Trong 100 con trai, 50 đứa theo Sùng Lãm về ở thủy phủ, 50 đứa kia theo Âu Cơ ở lại nước Nam và chia nước mà cai trị.

- Dưới sự cai trị của dòng họ đó là đám dân đen nghèo đói đang phục vụ họ, và đang bị họ phiền nhiễu.

- Địa phận vùng đất của Tộc Việt là vùng phía nam sông Dương Tử và nam Ngũ Lĩnh.

- Vùng đất này đã thuộc quyền vua người Hoa, nhưng sau chia lại cho Lộc Tục, nên mới thành đất của Tộc Việt.

b. Mấy Điểm Xác Định

Truyện Hồng Bàng ghi lại nhiều chi tiết của truyền thuyết Con Cháu Tiên Rồng đang lưu truyền phổ quát trong toàn thể dân Việt từ nhiều ngàn năm trước.

- Từ ngàn xưa, dân ta xưng mình là Con Cháu Tiên Rồng. Truyện Hồng Bàng xác nhận điểm này, nhưng lại do bà nội và mẹ của Sùng Lãm. Bà nội của Sùng Lãm cũng có tên với chữ tiên, là Vụ Tiên, và mẹ của Sùng Lãm có họ là Long – Long Nữ. Chữ long là do chữ rồng đọc theo giọng người Hoa mà phát âm ra.

- Từ ngàn xưa, dân ta biết chắc chắn là mình phát xuất ở vùng Ngũ Lĩnh, Hồ Động Đình. Truyện Hồng Bàng cũng xác nhận bằng cách cho đó là quê hương của Vụ Tiên và Long Nữ.

- Từ ngàn xưa, dân ta tự xưng là họ Lạc, Lạc Việt. Truyện Hồng Bàng giải thích là phát xuất do tên hiệu của Lạc Long Quân.

- Câu Cha Rồng nói với Mẹ Tiên: “Ta là giống Rồng, nàng thuộc dòng Tiên” đích thực là của truyền thuyết Lạc Việt từ ngàn xưa. Dầu ra ngoài văn mạch, Truyện Hồng Bàng cũng phải lập lại nguyên văn. Nếu theo đúng văn mạch của Truyện Hồng Bàng, thì Sùng Lãm phải nói với Âu Cơ rằng “Ta hiệu là Lạc Long Quân, có bà nội tên tục là Tiên, có bà mẹ họ là Long, còn nàng là người phàm…” Cũng theo Truyện Hồng Bàng thì chồng của Âu Cơ là Đế Lai, “Nhớ đến chuyện ông nội là Đế Minh nam tuần gặp tiên nữ…” nên Đế Lai cũng đi, và như vậy Âu Cơ đã không thể là tiên.

- Từ ngàn xưa, dân ta quan niệm biểu tượng Rồng là Cha, ở dưới nước, thiên biến vạn hóa, và Tiên là Mẹ, ở trên đất dưỡng nuôi bảo bọc. Truyện Hồng Bàng làm nổi bật những đặc tính này nơi Lạc Long Quân và Âu Cơ.

- Biểu tượng 50 con theo Mẹ, 50 con theo Cha là truyền thuyết Việt. Tuy nhiên, Truyện Hồng Bàng lại cho rằng 50 đứa theo cha về luôn thủy phủ, giao quyền cai trị dân Việt trong tay 50 đứa theo bà mẹ người Hoa. Như vậy thì làm sao vẫn còn đủ 100 để làm tổ cho Bách Việt.

- Câu Cha Rồng dặn: “Khi cần thì gọi, ta về ngay” cũng là xác định nền tảng của truyền thuyết Việt. Truyện Hồng Bàng lặp lại ba lần trong ba trường hợp khác nhau.

- Truyện Hồng Bàng xác định địa vực của Bách Việt là toàn thể vùng Nam Dương Tử và Nam Ngũ Lĩnh. Dầu trái với tham vọng quyền lực của người Hoa, Truyện Hồng Bàng cũng phải ghi lại tỉ mỉ biên cương của Tộc Việt, và như thế, chắc chắn, đây là sự kiện hiển nhiên đương thời.

- Truyền thuyết mọi người dân đều có cùng nguồn gốc Tiên Rồng, đều từ Một Bọc Trăm Con, là của dân ta. Dầu trong suốt bài, Truyện Hồng Bàng chỉ quanh quẩn với dòng họ một triều vua, thì câu cuối lại phải lien kết Bọc Mẹ Trăm Con với Bách Việt: “Bách Nam là thủy tổ của Bách Việt vậy.”

- Và như thế Truyện Hồng Bàng mặc nhiên xác nhận là đã có hai tộc dân Việt và Hoa khác nhau, với hai nền văn hóa khác nhau, và đã sinh sống trên hai vùng đất khác nhau.

- Đặc biệt về phương diện lãnh thổ, Truyện Hồng Bàng xác nhận truyền thuyết Tộc Việt phát xuất từ vùng Hồ Động Đình, sau đó phát triển trên một vùng rộng lớn, bao gồm từ Nam Dương Tử xuống tới Bắc Trung Phần Việt Nam ngày nay.

- Với việc đồng hóa nguồn gốc Bách Việt thành con cháu của Lạc Long Quân, Truyện Hồng Bàng đã phải xác nhận ảnh hưởng lớn mạnh của Lạc Việt thời ấy.

Trong cuốn Portraits of China của tác giả Lunda H. Gill, nhà xuất bản University of Hawaii Press, Honolulu 1960, trang 2 ghi rằng, “Trong việc thành hình nền văn hóa Trung Hoa, thiết tưởng ảnh hưởng của những sắc dân thiểu số đã to lớn hơn là nhờ sử gia truyền thống người Hoa công nhận. Sử gia Trung Hoa đã có khuynh hướng lạm nhận rằng dân Hoa đã khởi nguồn từ thung lũng Hoàng Hà, vùng Trung Nguyên, rồi tỏa lan và hấp thụ các dân ‘mọi rợ’ bằng việc ban phát cho họ những hồng ân của nền văn minh Hoa.”

Tuy nhiên, “thay vì ước định có một sắc dân chủ yếu tỏa lan và hấp thụ các sắc dân khác, có lẽ ta nên nhìn thấy những ảnh hưởng văn hóa hỗ tương đưa đến dị biệt trong nền văn minh Trung Hoa. Tại một số nơi, nền văn minh này mang dấu vết địa phương và của những sắc dân đã bị đồng hóa vào dân Trung Hoa.”

Tiếp đến, cuốn The Chinese Mosaic của tác giả Leo J. Moser, nhà xuất bản Westview Press, London 1985, trang 10: “Sắc dân, mà ngày nay tự nhận là dân Hoa, đã có nguồn gốc từ thượng lưu Hoàng Hà trong khoảng từ 3000 tới 4000 năm trước,” đang khi, tác giả khác cho rằng đã có từ 7000 đến 8000 năm trước đây.

Theo tác giả Bodo Weithoff, trong cuốn Introduction to Chinese History của nhà xuất bản Thames and Hudson, London 1975, trang 38 ông viết, “Vùng lịch sử xưa nhất của Trung Hoa là Trung Nguyên, ở khoản giữa lưu vực Hoàng Hà, gồm một phần của các tỉnh Hà Nam, Hà Bắc, và Sơn Tây hiện nay. Đó là lãnh vực của các nhà vua Thương, mà sau này, thời Châu xưng là Trung Quốc.

Và hai tác giả Arthur Cotterell và David Morgan viết trong cuốn China, an Intergrated Study của nhà xuất bản Harrap, London 1975, trang 62 và trang bản đố: “Đang khi người Hoa phát triển ở vùng Trung Nguyên, thì ở vùng Hồ Nam đã có Tộc Việt. Tộc Việt phát khởi từ vùng Hồ Động Đình, ở phía nam trung lưu Sông Dương Tử, rồi phát triển và tạo thành ba nhánh chính, là Thái, Dao, và Việt.

Nhánh Thái và Dao của Tộc Việt di chuyển dọc theo các thung lũng, xuống miền nam, đến các vùng Quý Châu, Quảng Tây, Vân Nam, Ai Lao, Miến Điện, và Thái Lan ngày nay.

Nhánh Việt thì xuôi theo Sông Dương Tử tiến ra biển, rồi dọc theo bờ biển tiến về phương nam. Cách đây năm sáu ngàn năm, người nhánh Việt đã có mặt khắp vùng này là Hồ Nam, Giang Tây, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu, Bắc Việt, và Bắc Trung Việt.

Theo thời gian và điều kiện sinh sống địa phương, Tộc Việt lại chia thành nhiều nhánh nhỏ. Mỗi nhánh mang một tên riêng, nhưng đã gọi chung là Bách Việt.”

Tham khảo những sách sử trên đây sẵn có trong thư viện Hoa Kỳ, Thần Báo cảm nhận rằng, ngay cả mấy ngàn năm trước khi tiếp xúc với Tộc Hoa, chẳng những dân Việt đã phát triển mạnh về nhân số, mở rộng địa bàn sinh sống, mà còn đặc biệt tiến triển về nếp sống xã hội nông ngư nghiệp.

Sự trổi vượt về nếp sống này còn được ghi nhận và lưu truyền đặc biệt qua kỹ thuật tinh xảo về đồ đồng. Cả đến thời nay, đỉnh đồng và trống đồng của dân Việt từ những thời xa xưa đó vẫn còn là những tuyệt tác vô song.

(Còn tiếp kỳ II)

Không có nhận xét nào: