Muốn đánh giá đúng mức văn học miền Nam, nguời ta không thể bỏ qua yếu tố chính trị đã phân ly hai miền Nam Bắc. Miền Nam và mảng văn học ấy mang sắc thái đặc thù cá biệt dựa trên một chính thể pháp định, có tự do của con nguời. Tự do dân chủ, tự do tư tưởng dẫn đường đưa đến có tự do sáng tác.
Tôi muốn khẳng định điều ấy trong bài viết này.
Chế độ dân chủ miền Nam, dù là thứ dân chủ còn chập chững do còn những giới hạn, nó vẫn khác hẳn một chế độ độc tài toàn trị.
Nguời ta vẫn có thể viện cớ miền Nam có chế độ kiểm duyệt báo chí, nhất là ở duới thời đệ nhị cộng hòa để phản bác cho rằng rằng đó là một chế độ độc tài. Cũng không hẳn là không đúng, nhung xét cho cùng đó là một thứ tự do có giới hạn, một thứ dân chủ còn vỡ lòng, một thứ “độc tài êm dịu”.
Thứ độc tài êm dịu đó, sống chung thì khó chịu. Nhưng nay nhìn lại, so sánh thì chỉ cho thấy những dấu hiệu tích cực, tiêu biểu mà có thể nhiều người, ngay chính người viết trước đây đã không nhìn thấy được .
Thật vậy, khi nhìn lại nền văn học ấy cho thấy phần lớn các nhà văn đều có gốc công chức hay quân đội và nhất là giáo chức Trung Học và Đại Học.
Thử hỏi họ đã viết và sáng tác trong hoàn cảnh nào? Điều gì đã thúc đẩy họ để lại một di sản văn học tầm cỡ như thế? Một thế hệ nhà văn, một dòng văn học đa dạng, đa nguyên và đầy tính nhân bản? Đã đến lúc cần xới lại lòng tự hào, niềm kiêu hãnh nơi họ vốn đã bị phủ bởi một lớp bụi mù chính trị áp đặt oan uổng. Họ mất niềm tin nơi họ. Nói chi đến lớp độc giả dần dần cũng quên họ.
Các nhà văn quân đội như Thế Uyên, Lê Tất Điều, Thảo Trường, Phan Lạc Tiếp, Phan Nhật Nam sáng tác trong hoàn cảnh nào? Có bao giờ đơn vị truởng hạch hỏi, phê phán về việc viết lách của họ không? Họ có bị trù ếm không cho lên lon, lên chức chăng chỉ vì việc sáng tác không đúng đuờng lối, chính sách?
Chúng ta vẫn biết rằng viết một cuốn truyện là chấp nhận những điều rủi ro, rủi ro vì viết chưa tới, rủi ro vì chủ quan của tác giả, ngay cả vì đời chưa nhận ra mình. Cộng với những rủi ro vì bị kiểm duyệt, cắt xén? Nhưng khi Thế Uyên viết truyện Những hạt cát, cuốn truyện đầu tay rồi Những đoạn đuờng chiến binh, anh đã gặp những rủi ro nào về kiểm duyệt? Thảo Truờng với Thử lửa, Chạy trốn, Nguời đàn bà mang thai trên kinh Đồng Tháp, Vuốt Mắt, Chung Cuộc, Lá xanh, Nguời khách lạ trên quê hương. Đã có truyện nào trong số những truyện trên bị cắt mắt, sẻo tai? Mà những truyện anh viết phần lớn mang tính tiêu cực, phản chiến hay trăn trở.
Nói cho cùng ở sở, các anh là sĩ quan, là công chức. Về nhà, các anh đóng vai nhà văn tự do viết, tự do sáng tác? Chúng ta có thể đòi hỏi gì hơn nữa.
Phải thừa nhận sự tự do tư tưởng, tự do sáng tác là điều có thật ở miền Nam. Và chính điều ấy như lực đẩy giúp các nhà văn hình thành được tác phẩm văn học.
Sự tự do sáng tác đã tạo cho mỗi nhà văn một thế giới riêng, chẳng ai giống ai. Văn tùy bút của Võ phiến là bút pháp Võ Phiến không giống với văn phong của Mai Thảo. Cái làm nên Võ Phiến là Võ Phiến, là nhân dạng Võ Phiến không ai bắt chước đuợc. Có cái hồn của Võ Phiến trong đó. Ngay cả nếu có cái dở cũng là cái dở của riêng Võ Phiến.
Mỗi nhà văn là một thế giới, một cõi riêng.
Cái làm nên nhà văn, chính là chỗ ấy. Hay nói như Kafka, sách vở nhà văn phải giống như con tàu phá băng. Nó phá vỡ bên trong, phá vỡ những lối mòn suy tuởng, những cảm nghiệm suy tuởng đã đông cứng. Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Quách Thoại đều ít nhiều cho thấy tính khai phá, tinh thần tự do sáng tạo như thế.
Nhà văn phải có tầm vuợt chính mình để vươn lên, để đi xa. Không thể có cao vọng, tầm nhìn xa nếu tự do sáng tạo không có?
Đó là uớc vọng của nguời làm văn học, lúc nào cũng như thể lên đuờng (en route) biết tự không bằng lòng và phủ nhận chính mình. Như thể sắp ra đi. Như thể muốn làm một cái gì mới, cái chưa có mặt, cái chưa định hình, cái en devenir, cái sắp là.
Chưa đuợc thì băn khoăn và trăn trở. Đó là kinh nghiệm sáng tác, làm văn học .
Thao thức trong cuộc hành trình nhân thế, với niềm hy vọng và chán chuờng. Cũng là một kinh nghiệm sáng tác nữa.
Một kinh nghiệm sống (expériences vécues) của việc thai nghén chữ nghĩa. Và ở một lúc nào đó. Bất ngờ. Như một bước nhảy. Chữ nghĩa như một dòng chảy, như suối nguồn, như dọi nắng, như tìm về cội nguồn.
Cho nên cảm nghiệm văn chương mỗi nhà văn, mỗi khác. Mỗi nhà văn, một lối nhìn, một nhân sinh quan.
Đối với nhà văn Mai Thảo, sau những năn tháng ăn nằm với chữ nghĩa thì cảm nghiệm có phần khinh bạc: Hừm, ra cái đếch gì với “Thế giới có triệu điều không hiểu, càng hiểu không ra lúc cuối đời”. Đó là kinh nghiệm cao ngạo. Còn đối với những nhà văn trẻ “nhìn thấy đủ”, “nếm đủ”, “chơi đủ” nên đã thất lạc khi vào đời, nhìn thấy tan vỡ truớc khi nhìn thấy hình thành một cái gì. Đó là kinh nghiệm nếm đủ. Trần Vũ tàn bạo, phung phá, nói đến phát vãng trinh tiết cho bất cứ ai muốn khởi sự là nhà văn. Đó là kinh nghiệm khinh bạc.
Dù là kinh nghiệm gì thì đó cũng là chất liệu như men trong bột, như cánh buớm đập cánh đủ làm nên trận bão, như giọt nuớc làm nên biển cả để nhà văn hình thành thai nghén ra một tác phẩm.
Cho nên, nói như Vũ Hạnh, gọi Dương Nghiễm Mậu là phản động thì tội cho nhà văn quá. Các nhà văn miền Nam, làm gì thì làm, nhưng kỵ nhất làm kẻ tuyên truyền cho bất cứ ý thức hệ nào. Họ “không biết hèn”. Họ khác nguời Cộng Sản và bọn theo đuôi. Chỉ những ai đeo đuổi một chủ nghĩa giáo điều thì mới có thể gán cho nguời khác hai chữ phản động.
Chính vì có tự do suy nghĩ, tự do sáng tạo mà tôi có thể nhìn ra đuợc diện mạo của từng nhà văn, nhà thơ, từng hoạ si, nhạc si và ngay cả tiếng hát của từng ca sĩ. Nguời ta nói đến tiếng hát Thái Thanh, Khánh Ly, Lệ Thu, Hoàng Oanh, Mai Hương đến Anh Ngọc, Lê Uyên Phương, Elvis Phương và cả Chế Linh.
Chẳng ai giống ai cả, vì không sản sinh từ một lò, một khuôn đúc. Tiếng hát Chế Linh có người chê, nhưng Chế Linh là Chế Linh.
Khác biệt và đa dạng. Đó chính là diện mạo văn học miền Nam. Hay dở, hãy khoan tính. Và nhiều khi không thể đem ra so sánh đuợc. Không ai ngu dại gì đem Chú Tư Cầu hay Nguyệt Đồng Xoài của nhà văn Lê Xuyên so sánh với tác phẩm Cũng Đành, hay Tuổi nước độc của Dương Nghiễm Mậu. Chúng khác xa nhau một trời một vực từ thế giới truyện, nhân vật truyện, văn phong, nội dung truyện và dự phóng của tác giả.
Cho nên dung mạo Văn học miền Nam mang tính ĐA DẠNG. Đa dạng về tác giả, về đề tài, về xu huớng sáng tác, về nguồn cảm hứng, về thể loại.
Chúng ta có thể tự hào về những điều ấy, vì chúng ta không có thứ văn nghệ đồng phục.
Và cái nền văn học ấy đã có một thời trải qua những thử thách về quyền tự do báo chí ở miền Nam vào những ngày tháng chót của VNCH.
Càng thử thách, càng chứng tỏ miền Nam có được tự do sáng tạo bằng chính sự phấn đấu của mình. Không có điều gì cho không, dù đó là dân chủ hay tự do.
Đây một lần nữa chứng minh hùng hồn, mảnh đất miền Nam là đất của tự do.
Vào những năm tháng chót của miền Nam Việt Nam, có 301 linh mục ký tên vào tuyên ngôn 18/6/1974, tuyên ngôn chống tham nhũng, bất công và tệ đoan xã hội để cảnh cáo chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Rồi đến ngày 8/9 cuộc mít tinh của 5000 giáo dân ở Huế để đáp lại lời kêu gọi và đưa ra bản Cáo trạng số 1 tố cáo đích danh TT Nguyễn Văn Thiệu như một người tham nhũng số 1 với 6 truờng hợp điển hình cụ thể, đuợc đọc tại nhà thờ Phủ Cam Huế. Tờ Tin Mừng Hôm nay đua tin nhu sau, LM Nguyễn Kim Bính, quản xứ Phú Cam đa lớn tiếng tuyên bố:" Giờ lịch sử của nguời công giáo đã điểm hôm nay ...Trong khuôn viên này, đã có hằng trăm thánh Tử đạo. Đã đến lúc chúng ta không sợ"
Tôi muốn khẳng định điều ấy trong bài viết này.
Chế độ dân chủ miền Nam, dù là thứ dân chủ còn chập chững do còn những giới hạn, nó vẫn khác hẳn một chế độ độc tài toàn trị.
Nguời ta vẫn có thể viện cớ miền Nam có chế độ kiểm duyệt báo chí, nhất là ở duới thời đệ nhị cộng hòa để phản bác cho rằng rằng đó là một chế độ độc tài. Cũng không hẳn là không đúng, nhung xét cho cùng đó là một thứ tự do có giới hạn, một thứ dân chủ còn vỡ lòng, một thứ “độc tài êm dịu”.
Thứ độc tài êm dịu đó, sống chung thì khó chịu. Nhưng nay nhìn lại, so sánh thì chỉ cho thấy những dấu hiệu tích cực, tiêu biểu mà có thể nhiều người, ngay chính người viết trước đây đã không nhìn thấy được .
Thật vậy, khi nhìn lại nền văn học ấy cho thấy phần lớn các nhà văn đều có gốc công chức hay quân đội và nhất là giáo chức Trung Học và Đại Học.
Thử hỏi họ đã viết và sáng tác trong hoàn cảnh nào? Điều gì đã thúc đẩy họ để lại một di sản văn học tầm cỡ như thế? Một thế hệ nhà văn, một dòng văn học đa dạng, đa nguyên và đầy tính nhân bản? Đã đến lúc cần xới lại lòng tự hào, niềm kiêu hãnh nơi họ vốn đã bị phủ bởi một lớp bụi mù chính trị áp đặt oan uổng. Họ mất niềm tin nơi họ. Nói chi đến lớp độc giả dần dần cũng quên họ.
Các nhà văn quân đội như Thế Uyên, Lê Tất Điều, Thảo Trường, Phan Lạc Tiếp, Phan Nhật Nam sáng tác trong hoàn cảnh nào? Có bao giờ đơn vị truởng hạch hỏi, phê phán về việc viết lách của họ không? Họ có bị trù ếm không cho lên lon, lên chức chăng chỉ vì việc sáng tác không đúng đuờng lối, chính sách?
Chúng ta vẫn biết rằng viết một cuốn truyện là chấp nhận những điều rủi ro, rủi ro vì viết chưa tới, rủi ro vì chủ quan của tác giả, ngay cả vì đời chưa nhận ra mình. Cộng với những rủi ro vì bị kiểm duyệt, cắt xén? Nhưng khi Thế Uyên viết truyện Những hạt cát, cuốn truyện đầu tay rồi Những đoạn đuờng chiến binh, anh đã gặp những rủi ro nào về kiểm duyệt? Thảo Truờng với Thử lửa, Chạy trốn, Nguời đàn bà mang thai trên kinh Đồng Tháp, Vuốt Mắt, Chung Cuộc, Lá xanh, Nguời khách lạ trên quê hương. Đã có truyện nào trong số những truyện trên bị cắt mắt, sẻo tai? Mà những truyện anh viết phần lớn mang tính tiêu cực, phản chiến hay trăn trở.
Nói cho cùng ở sở, các anh là sĩ quan, là công chức. Về nhà, các anh đóng vai nhà văn tự do viết, tự do sáng tác? Chúng ta có thể đòi hỏi gì hơn nữa.
Phải thừa nhận sự tự do tư tưởng, tự do sáng tác là điều có thật ở miền Nam. Và chính điều ấy như lực đẩy giúp các nhà văn hình thành được tác phẩm văn học.
Sự tự do sáng tác đã tạo cho mỗi nhà văn một thế giới riêng, chẳng ai giống ai. Văn tùy bút của Võ phiến là bút pháp Võ Phiến không giống với văn phong của Mai Thảo. Cái làm nên Võ Phiến là Võ Phiến, là nhân dạng Võ Phiến không ai bắt chước đuợc. Có cái hồn của Võ Phiến trong đó. Ngay cả nếu có cái dở cũng là cái dở của riêng Võ Phiến.
Mỗi nhà văn là một thế giới, một cõi riêng.
Cái làm nên nhà văn, chính là chỗ ấy. Hay nói như Kafka, sách vở nhà văn phải giống như con tàu phá băng. Nó phá vỡ bên trong, phá vỡ những lối mòn suy tuởng, những cảm nghiệm suy tuởng đã đông cứng. Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Quách Thoại đều ít nhiều cho thấy tính khai phá, tinh thần tự do sáng tạo như thế.
Nhà văn phải có tầm vuợt chính mình để vươn lên, để đi xa. Không thể có cao vọng, tầm nhìn xa nếu tự do sáng tạo không có?
Đó là uớc vọng của nguời làm văn học, lúc nào cũng như thể lên đuờng (en route) biết tự không bằng lòng và phủ nhận chính mình. Như thể sắp ra đi. Như thể muốn làm một cái gì mới, cái chưa có mặt, cái chưa định hình, cái en devenir, cái sắp là.
Chưa đuợc thì băn khoăn và trăn trở. Đó là kinh nghiệm sáng tác, làm văn học .
Thao thức trong cuộc hành trình nhân thế, với niềm hy vọng và chán chuờng. Cũng là một kinh nghiệm sáng tác nữa.
Một kinh nghiệm sống (expériences vécues) của việc thai nghén chữ nghĩa. Và ở một lúc nào đó. Bất ngờ. Như một bước nhảy. Chữ nghĩa như một dòng chảy, như suối nguồn, như dọi nắng, như tìm về cội nguồn.
Cho nên cảm nghiệm văn chương mỗi nhà văn, mỗi khác. Mỗi nhà văn, một lối nhìn, một nhân sinh quan.
Đối với nhà văn Mai Thảo, sau những năn tháng ăn nằm với chữ nghĩa thì cảm nghiệm có phần khinh bạc: Hừm, ra cái đếch gì với “Thế giới có triệu điều không hiểu, càng hiểu không ra lúc cuối đời”. Đó là kinh nghiệm cao ngạo. Còn đối với những nhà văn trẻ “nhìn thấy đủ”, “nếm đủ”, “chơi đủ” nên đã thất lạc khi vào đời, nhìn thấy tan vỡ truớc khi nhìn thấy hình thành một cái gì. Đó là kinh nghiệm nếm đủ. Trần Vũ tàn bạo, phung phá, nói đến phát vãng trinh tiết cho bất cứ ai muốn khởi sự là nhà văn. Đó là kinh nghiệm khinh bạc.
Dù là kinh nghiệm gì thì đó cũng là chất liệu như men trong bột, như cánh buớm đập cánh đủ làm nên trận bão, như giọt nuớc làm nên biển cả để nhà văn hình thành thai nghén ra một tác phẩm.
Cho nên, nói như Vũ Hạnh, gọi Dương Nghiễm Mậu là phản động thì tội cho nhà văn quá. Các nhà văn miền Nam, làm gì thì làm, nhưng kỵ nhất làm kẻ tuyên truyền cho bất cứ ý thức hệ nào. Họ “không biết hèn”. Họ khác nguời Cộng Sản và bọn theo đuôi. Chỉ những ai đeo đuổi một chủ nghĩa giáo điều thì mới có thể gán cho nguời khác hai chữ phản động.
Chính vì có tự do suy nghĩ, tự do sáng tạo mà tôi có thể nhìn ra đuợc diện mạo của từng nhà văn, nhà thơ, từng hoạ si, nhạc si và ngay cả tiếng hát của từng ca sĩ. Nguời ta nói đến tiếng hát Thái Thanh, Khánh Ly, Lệ Thu, Hoàng Oanh, Mai Hương đến Anh Ngọc, Lê Uyên Phương, Elvis Phương và cả Chế Linh.
Chẳng ai giống ai cả, vì không sản sinh từ một lò, một khuôn đúc. Tiếng hát Chế Linh có người chê, nhưng Chế Linh là Chế Linh.
Khác biệt và đa dạng. Đó chính là diện mạo văn học miền Nam. Hay dở, hãy khoan tính. Và nhiều khi không thể đem ra so sánh đuợc. Không ai ngu dại gì đem Chú Tư Cầu hay Nguyệt Đồng Xoài của nhà văn Lê Xuyên so sánh với tác phẩm Cũng Đành, hay Tuổi nước độc của Dương Nghiễm Mậu. Chúng khác xa nhau một trời một vực từ thế giới truyện, nhân vật truyện, văn phong, nội dung truyện và dự phóng của tác giả.
Cho nên dung mạo Văn học miền Nam mang tính ĐA DẠNG. Đa dạng về tác giả, về đề tài, về xu huớng sáng tác, về nguồn cảm hứng, về thể loại.
Chúng ta có thể tự hào về những điều ấy, vì chúng ta không có thứ văn nghệ đồng phục.
Và cái nền văn học ấy đã có một thời trải qua những thử thách về quyền tự do báo chí ở miền Nam vào những ngày tháng chót của VNCH.
Càng thử thách, càng chứng tỏ miền Nam có được tự do sáng tạo bằng chính sự phấn đấu của mình. Không có điều gì cho không, dù đó là dân chủ hay tự do.
Đây một lần nữa chứng minh hùng hồn, mảnh đất miền Nam là đất của tự do.
Vào những năm tháng chót của miền Nam Việt Nam, có 301 linh mục ký tên vào tuyên ngôn 18/6/1974, tuyên ngôn chống tham nhũng, bất công và tệ đoan xã hội để cảnh cáo chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Rồi đến ngày 8/9 cuộc mít tinh của 5000 giáo dân ở Huế để đáp lại lời kêu gọi và đưa ra bản Cáo trạng số 1 tố cáo đích danh TT Nguyễn Văn Thiệu như một người tham nhũng số 1 với 6 truờng hợp điển hình cụ thể, đuợc đọc tại nhà thờ Phủ Cam Huế. Tờ Tin Mừng Hôm nay đua tin nhu sau, LM Nguyễn Kim Bính, quản xứ Phú Cam đa lớn tiếng tuyên bố:" Giờ lịch sử của nguời công giáo đã điểm hôm nay ...Trong khuôn viên này, đã có hằng trăm thánh Tử đạo. Đã đến lúc chúng ta không sợ"
là ... Chế Linh Nguồn: chelinh.com
Bộ Dân Vận chiêu hồi buộc các báo không được đăng bản cáo trạng số 1.
Ngày 12/9, Khoảng 200 đại diện giới báo chí, luật su, văn nghệ sĩ, trí thức đã họp bàn về:" Chính sách bóp nghẹt báo chí của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu". Sau buổi Hội thảo này, nghị viên Hà Thế Ruyệt, một nguời năng nổ, xông xáo, chỗ nào ững có mặt, đại diện cho tờ Sóng Thần đã đốt luật 19/69 và sắc luật 007/72 để tuyên dương quyền tự do ngôn luận.
Sau đó, chỉ có 3 tờ báo Sóng Thần, Điện Tín, Đại Dân Tộc đăng nguyên văn Bản cáo trạng số 1. Báo bị tich thu và truy tố ra tòa.
Ngày 10/10/1974: Ngày ký giả đi ăn mày.
Để chống lại kiểm duyệt và bóp nghẹt báo chí nên cùng với Ủy ban chống tham nhũng của cha Thanh tổ chức ngày ký giả đi ăn mày. Chúng tôi có đầy đủ những tấm hình này của báo Sóng Thần mà may mắn nay chúng ta còn nguyên vẹn những số báo ấy. Phải ghi nhận các anh chị báo Sóng Thần như Uyên Thao, Lẽ Văn Thiệp, giáo sư Đặng Thị Tám, nhà văn Trùng Dương, ký giả Trần Phong Vũ đã biên tập lại. Những tài liệu ghi lại ở đây đều lấy từ nguồn tài liệu quý báu đó may măn thoát cảnh phần thư 1975.
Chẳng hạn hình Hà Thế Ruyệt đốt báo, hình hàng chục ngàn người biểu tình từ Quốc Hội ra chợ Bến Thành. Hình ảnh Lm Nguyễn Quang Lãm đội nón chống gậy cùng Lm Thanh Lãng và ông Hồ Hữu Tuờng tham gia biểu tình. Cảnh sô sát giữa cảnh sát và dân chúng.
Xem những bức hình đó, không khỏi xúc động về một miền Nam sáp sửa mất vào tay Cộng Sản. Hình như chúng ta đang làm một cuộc tự sát tập thể trước khi chết?
Ngày 31/10/1975: Ngày báo chí và công lý thọ nạn
Có thể nói trong suốt gần 20 năm miền Nam VN, chưa bao giờ có cuộc vận động nhiều giới, nhiều thành phần, tôn giáo, đảng phái đề huề và “vui vẻ” đến như thế. Đây là một cuộc đối đầu giữa đám đông trí thức và một ông Tổng Thống ngang ngạnh và tỏ ra yếu thế, mặc dù có đầy đủ lực luợng Cảnh sát dã chiến.
Trong phiên xử ngày 31/10/1974, có đến 205 luật sư tình nguyện đứng ra biện hộ cho báo Sóng Thần .. Họ ra kháng thư phản đối ông Thiệu ngăn chặn luật sư đến tòa, rồi bị xô đẩy, ném đá như các truờng hợp luật sư Vũ Văn Mẫu, Phan Tấn Chức, Đinh Thạch Bích, Nguyễn Văn Tấn. LM Thanh, một nhân chứng quan trọng nhất thì bị đánh trọng thương khi trên đuờng đến tòa .. Rồi kháng thư đủ loại của Nghiệp đoàn ký giả, tuyên ngôn của luật sư đoàn, kháng thư của LM Thanh với bộ nội vụ, thư của luật sư Hồ Tri Châu gửi ông chủ tịch Tối cao pháp viện. Thanh Lãng viết bài: Mọi giới đều đi tù. Nhật Tiến viết bài: cảm nghĩ của một nguời viết văn về vụ án báo chí .. Trùng Dương, Nguyễn Thị Thái, chủ bút Sóng Thần viết: Viết cho các con tôi. Nhật Báo Sóng Thần truớc khi ra tòa viết: thư tạ từ mọi giới. Rồi Tuyên cáo số 1, số 2 của Hội chủ báo.
Thông điệp của Hòa Thuợng Thích Trí Thủ, viện truởng viện hóa đạo, GHPGVNTN. Chủ tịch Văn bút Thanh Lãng lên án chế độ kiểm duyệt và tảy chay tham dự giải thuởng của chính phủ .. Hội chủ báo ra Quyết định, ký tên Nghị sĩ Tôn Thất Đính.. Tất cả cộng lại là 2, 3 bản công bố. Tuyên cáo của Hội Bảo vệ nhân quyền do Hội Truởng Phan Bá Cầm và Tổng Thư Ký Thái Lăng Nghiêm đồng ký tên. Hội đồng giáo sư Đại học luật khoa với với một lô tên tuổi như Vũ Quốc Thông, Vũ Văn Mẫu, Vũ Quốc Thúc, tất cả 19 vị.
Cảm tưởng chung của tôi khi đọc tập tài liệu này là Công lý giữa vòng kẽm gai, bạo lực phải nhuờng buớc truớc lương tri, lẽ phải. Đó là mặt trái của công lý, sự thật đuợc dàn cảnh bằng hàng rào kẽm gai, bằng lựu đạn cay, bằng dùi cui. Nhưng đó vẫn chỉ là những phương tiện “đuợc coi là hợp pháp” mà chính phủ có quyền xử dụng ..Mặt khác nó cũng nói lên rằng, chỉ có ở miền Nam, mảnh đất tự do, nguời dân mới có quyền đòi công lý, dám đòi và dám làm, vì biết chắc chắn rằng: sẽ không bị ám sát, thủ tiêu.
Ít ra, nguời dân có quyền bầy tỏ, quyền đòi. Có quyền đòi hỏi tranh đấu cho tự do, dân chủ thì tự nó, sự đòi hỏi ấy là bằng cớ cho tự do tiềm ẩn.
Tất cả hàng vạn dân chúng đã xuống đuờng, đã đả đảo Nguyễn Văn Thiệu mà không sợ, vì biết chắc chắn rằng đêm nay ngủ yên và không có công an mật vụ bắt đi mất tích .
Đây là điểm mấu chốt khác biệt giữa chế độ miền Nam và chế độ miền Bắc.
Tôi nhìn lại hình ảnh anh Hà Thế Ruyệt, áo chemise trắng cravate hẳn hoi, bình tinh và tươi cười đốt luật 19/69 và sắc luật 007172. Và cạnh đó giới báo chi thản nhiên đứng coi những tờ báo bị hỏa thiêu. Hàng chồng báo đủ loại đa bị đốt như thế. Con số chính xác là 10 ngàn tờ. Cảnh sô sát có. Nhưng cũng khá là cảm động cảnh một cụ già mặc Pyjama, nắm tay một cậu bé chừng 9, 10 tuổi, rồi một bà đội nón, áo bà ba, mấy cô gái trẻ nắm tay nhau làm hàng rào ngăn chặn cảnh sát ..
Chẳng ai bảo ai mà họ đã làm nhu thế. Một cảnh như thế, có thể nào xảy ra trong chế độ CS toàn trị không? Khổng là không.
Hình ảnh Nguyễn Quang Lãm, nón lá, bị gậy cùng với Thanh Lãng, Hồ Hữu Tường trông không giống ăn mày tý nào cả, cho dù chỉ là ăn mày một buổi. Bởi vì, mặt ông nào cũng trang bị một cái kính râm tổ chảng. Chẳng thế mà những bức hình này sau đó đã đuợcThanh Lãng lộng kính, trịnh trọng treo giữa phòng khách nhà ông về một ngày đáng ghi nhớ, vì đã đuợc đi ăn mày.
Hình ảnh các em học sinh lấy ngay các rào cản kẽm gai của cánh sát làm chuớng ngại vật thật sinh động. Rồi bên kia Cảnh sát dã chiến, bên này thanh niên gậy và đá đáp lễ. Ít ra thì cũng là một cuộc tranh đấu sòng phẳng và công bằng, khá là sạch, khá là chơi đẹp. Hình ảnh ông cha Nguyễn ngọc Lan, nằm bất tỉnh chỉ là sự cố bất ngờ quá tay mà không phải do một sự đàn áp dã man quá độ. Đến hình ảnh các ông luật sư ăn mặc trịnh trọng hiên ngang tiến buớc không một chút sợ sệt, trái lại không dấu nổi niềm hãnh diện ứa tràn ra trên mặt. Nhiều ông mặt non chọet còn búng ra sữa, phải chăng đây là cơ hội bằng vàng được xuất hiện truớc công chúng và báo chí? Bởi vì đây là ngày trọng đại, mang nhiều ý nghĩa trong suốt cuộc đời làm luật sư của họ mà có nhiều khi phải đút lót, luồn lọt. Dễ thương là hình ảnh bà luật sư Nguyễn Phước Đại thay vì lo cãi thì lo cắt chanh phòng hờ lựu đạn cay.
Đặc biệt không thể nào quên đuợc hình ảnh bà chủ báo, khá xinh đẹp, áo dài trắng, vành khăn tang, không lộ một chút đau thương bi lụy, nửa nữ sinh, nửa đan bà. Nốt ruồi bên phải má, khá đậm trên đôi mắt kính to vành, chẳng lộ nét buồn hay vui? Chiếc áo dài may cắt khéo bó lấy nguời, như đi dự một party, vây quanh một đám đông đảo luật sư coi tuồng như muốn tranh nhau bảo vệ nguời đẹp.
Ảo tưởng của trí thức miền NamNguồn: crobertwang.com
Quang cảnh như ngày hội: Hội biểu dương tự do và công lý. Có nét đẹp quyến rũ giữa hàng rào kẽm gai và khói lựu đạn cay. Giữa rừng nguời khát tự do và công lý.
Tà áo trắng của Trùng Dương giữa rừng đàn ông. Tự hỏi họ khát gì?
Lá thư mà chị đã viết cho con như lời giã biệt có thể đã là thừa, vì sự việc đã không diễn ra một cách bi thảm nhu thế.
Mọi người bất kể. Tham dự Ngày ký giả đi ăn mày . Quả thực, họ quả có quyền hãnh diện như thế.
Cuối cùng thì tôi nghi rằng miền Nam thua miền Bắc vì những thứ ấy. Thua là phải. Trò chơi dân chủ phải trả một giá đắt. Nhưng mặt khác thì bất cứ nguời miền Nam nào dù có thua, cũng không vì thế mà không hãnh diện. Chúng ta chơi đẹp và thua cũng đẹp, vẫn có quyền ngửng đầu lên. Vẫn có quyền khinh nguời khác chơi bẩn, chơi xấu. Và không quên khinh những bọn theo đuôi bây giờ. Tôi sẽ không dùng từ Thân Cộng, vì quen quá rồi. Tôi gọi bọn họ là bọn theo đuôi cái đuôi CS dãy chết. Và xin tặng những bọn theo đuôi đang về nịnh Cộng Sản câu thơ của Nguyễn Duy:
Xin đừng hót những lời chim chóc mãi
Miền Nam tự do là như thế ấy. Làm gì có ai phản động. Chỉ có những người chống đối, phản kháng, bất đồng. Nay thì cả những người đà từng chống đối dưới bất cứ danh nghĩa gì như trí thức thiên tả, phản chiến, thành phần thứ ba trên các báo chí như Hành Trình, Thái Độ, Lập Trường, Đối Diện. Và trên các báo ngày như Đại Dân Tộc, Điện tín... Đa số trong bọn họ biết mình đã lầm lẫn, lợi dụng hai chữ tự do để nhân danh nó đòi hỏi một điều mà thực sự họ đang có trong tay.
Và nhạc phản chiến, thơ văn phản chiến đủ loại, sáng tác đủ loại tung tăng bay nhảy, len lỏi khắp miền Nam đến nỗi có thể nói đến một dòng văn học phản chiến. Tất cả chỉ là trò chơi ảo tưởng chính trị.
Cao trào đòi hõi tự do dân chủ dâng cao. Cùng nhịp là sụ hăng say nhiệt cuồng trong những sáng tác đủ loại đã ra đời. Cái mà ta gọi là từ bỏ một nền văn học hưởng thụ, văn học lãng mạn, văn học hiện sinh để đẩy cao một nền văn học dấn thân và nhập cuộc.
Tất cả những nhà văn, nhà báo miền Nam đã từng hoạt động, từng tranh đấu cho tự do, dân chủ mới vỡ lẽ ra rằng, chúng ta đã một thời tranh đấu cho một điều đã có sẵn trong tay.
Cái mà tôi bẽ bàng gọi tên nó là: ảo tưởng của trí thức miền Nam và chúng ta tất cả đã vẽ đường cho hươu chạy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét