Thứ Năm, 12 tháng 7, 2007

CHÉN ĐẮNG GIỮA NĂM

Trăm hận, ngàn đau nào sánh được
Tấm lòng lưu lạc nhớ quê hương…


Thơ Thanh Nam, làm năm 1979, 1980 ở Thành phố Seattle. Những ngày như lá, tháng như mây… Hai mươi niên đã qua kể từ ngày Thanh Nam làm những lời thơ nhớ thương sầu hận ấy…

Và đây hai câu Thơ khác của Thanh Nam làm cùng năm trên Đất Khách:

Bốn năm đã thấm trò dâu biển
Một cõi lưu đày rộn nhiễu nhương..

Nếu những năm 1978, 1979, 1980 tôi sống ở Mỹ, nếu tôi làm Thơ với ý trên, câu Thơ sẽ là:

Bốn năm đã ngấm trò dâu biển..
Một cõi lưu đày rộn nhiễu nhương.

“Ngấm” nặng hơn, thô hơn “thấm.” “Thấm” nhẹ hơn, thanh hơn “ngấm.” Tôi, với những phóng sự tiểu thuyết gọi là thời đại, có những ngôn từ sống sượng hơn Thanh Nam với những tiểu thuyết lãng mạn, diễm tình trong đó đa số nhân vật là người tử tế, lịch sự, thanh nhã. Nhưng thôi, cho qua những xác định chữ nghĩa vẩn vương, “thấm” hay “ngấm” thì cũng thế thôi, cũng là ẩm, là mốc cả. Sáng nay, buổi sáng nắng vàng Tháng Bẩy ở xứ người, tôi nhớ Thơ Thanh Nam, tôi ngậm ngùi tự nhủ:

- Mới 4 năm lưu đày đã “thấm” trò dâu biển. Nếu sống thêm ba mươi năm, nếu còn sống hôm nay Thanh Nam sẽ nghĩ gì, sẽ đau như thế nào trước những biển dâu vân cẩu ở cõi lưu đày này?

Thanh Nam sẽ cảm nghĩ gì khi anh phải thấy người từng là Tướng, Tổng Thống của anh le lưỡi liếm đít tên Việt Cộng Tội Đồ của Nhân Dân Việt Nam khi tên này nhâng nháo vác mặt xỏ lá đến Mỹ. Không những chỉ liếm suông, nó liếm tận tình, nó liếm không thằng nào có thể liếm hơn nó!

Trong nhục nhã tôi phải kêu lên:

“Ôi… Mẹ Việt Nam ơi… Chúng con có tội tình gì? Sao chúng con phải sống cùng thời với môt thằng người Việt khốn nạn đến như thằng đó? Sao bao nhiêu anh em chúng con đã phải chết tan xương, nát thịt để cho thằng khốn đó nó sống? Để nó ăn trên, ngồi trốc, để nó nói láo, để nó bợ đít những thằng Cộng Chồn tội nhân của nhân dân? ”

Số phận dân tộc tôi khốn khổ khốn nạn quá chừng khi dân tộc tôi phải có những thằng dân hèn mạt như thằng đó. Thằng đó làm tôi nhục quá chừng, nhục đến như tôi là nhục nhất rồi, trên cõi đời nhiều nhục nhã này tôi nhục không còn ai có thể nhục hơn tôi.

Khi bắt đầu viết bài này, tôi lấy tên bài là TRĂM HẬN NGÀN ĐAU theo lời Thơ Thanh Nam. Viết đến đây tôi đổi tên bài là:

CHÉN ĐẮNG GIỮA NĂM

Cuối năm 2006 tôi viết bài:

CHÉN ĐẮNG CUỐI NĂM

Chén Đắng Cuối Năm kể chuyện Tổng Thống Gerald Ford và người Mỹ phản bội, bỏ rơi nhân dân Việt Nam Cộng Hòa năm 1975. Không những chỉ bỏ rơi, họ còn muối mặt nói những lời tàn nhẫn về những người Việt từng chiến đấu, từng đổ máu với họ.

Bây giờ Tháng Bẩy 2007, tôi viết CHÉN ĐẮNG GIỮA NĂM là đúng sách vở.

Khi năm Heo tới, tôi đã tự bảo năm Heo đừng ngạc nhiên khi thấy những chuyện Lợn, khi thấy những thằng người bẩn hơn Heo, ngu hơn Chó trình lộn mặt thớt mà không biết xấu hổ. Nhưng không ngờ, chắc không người Việt nào ngờ, thằng ấy nó lại đểu, lại hèn đến như thế. Vì tôi là người Việt Nam, vì nó là người Việt Nam, nó không phải là người Việt Nam thường dân, nó từng là Tướng của Quân Đội tôi, Quân Đội Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, nó từng là Tổng Thống, Thủ Tướng chính phủ nước tôi, vì nó hèn nên tôi bị nhục. Làm người phải biết Nhục khi mình bị Nhục. Người không thấy Nhục khi bị Nhục không phải là Người.

Nó chửi tôi bằng cách nó quỵ lụy tên Cộng sản. Không phải nó chỉ chửi mình tôi, nó chửi tất cả những người Việt Nam, đã chết, còn sống. Nó chửi tôi, nó chửi đồng bào tôi, tôi đau, tôi chửi nó như thế này chỉ là chửi lèm bèm, không hề hấn gì nó. Mặt thớt của nó vẫn bôn lì ra. Xong tôi vẫn phải chửi nó. Tôi chửi nó vì những người Việt Nam đã chết cho nó sống. Tôi chửi nó bằng tiếng chửi của những người Việt đã chết ấy.

Tháng Tư 1975 Thanh Nam làm việc trong Đài Phát Thanh Mẹ Việt Nam. Đài này do người Mỹ lập, người Mỹ điều hành. Năm 1972 người Mỹ ở Việt Nam có đài phát thanh Tiếng Nói Tự Do – khi thò tay – năm xưa giới ký giả Việt ở Sài Gòn thường gọi bàn tay người Mỹ là “bàn tay lông lá ” - ký Hiệp Định Paris với bọn Bắc Cộng, người Mỹ cam kết hủy bỏ những cơ sở tuyên truyền chống bọn Bắc Cộng của họ trong lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa. Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn giải tán Đài Tiếng Nói Tự Do, mở ra Đài Mẹ Việt Nam. Đâu cũng vẫn đấy.

Những ngày 19, 20 Tháng Tư 1975, Tòa Đại Sứ Mỹ cho nhân viên Đài Mẹ Việt Nam từ Sài Gòn bay ra đảo Phú Quốc. Đây là trò ông cha tôi gọi là “cà cuống chết đến đít còn cay”. Người Mỹ cho Đài Mẹ Việt Nam ra đảo Phủ Quốc để có thể nói: “Mỹ không đưa nhân viên của Mỹ bỏ chạy khỏi nước, ra đảo Phú Quốc vẫn là ở trong lãnh thổ Việt Nam.” Từ đảo Phú Quốc một sáng, hay một đêm mù sương đầu Tháng 5, 1975, khi Sài Gòn đã đầy nón cối, giép râu, nhân viên Đài Mẹ Việt Nam, trong số có Thanh Nam, xuống tầu biển vượt đại dương sang bên kia trái đất.

Ở thị trấn Ramsey, Mỹ Quốc, một ngày Tháng 11, 1975, nhớ sáng, nhớ đêm mờ sương rời nước xuống tầu trên bờ biển Phú Quốc, người ly hương mới 10 tháng Thanh Nam làm Thơ:

SƯƠNG
Sớm nay trời đổ sương mù
Đồi cao ngó xuống thấy mờ biển khơi.
Bỗng dưng lòng thoáng bồi hồi
Tưởng đâu Phú Quốc đêm rời quê hương.

Nếu sống đến hôm nay, Tháng Bẩy 2007, chắc tâm trạng Thanh Nam không còn thấm, cũng không còn ngấm được gì nữa, những nhiễu nhương của cõi lưu đày chắc đã làm cho tâm trạng Thi sĩ nát như bún thiu, chua như cơm vữa.

Nhớ Thơ của Thi sĩ:

Buồn như người lính vừa thua trận
Nằm giữa sa trương nát gió mưa
Khép mắt cố quên đời chiến sĩ
Làm thân cây cỏ nép bên bờ
Đêm đêm từ đáy hồn thương tích
Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa.

Tôi hỏi Thi sĩ:

Buồn như người lính vừa thua trận
Nằm giữa sa trường nát gió mưa
Đêm đêm từ đáy hồn thương hân
Vẫn Tiếng Kèn Truy Điệu Nước Xưa?

Thanh Nam đi khỏi cõi đời này từ thị trấn Seattle Tháng Sáu năm 1980. Từ ấy, đến năm nay, 2007, Tháng Sáu đến, Tháng Sáu trở lại, người ta nhắc đến Thanh Nam.

Nhiều bài các bạn văn của Thanh Nam viết về Thanh Nam được đăng lại. Tôi thầm nói với Thanh Nam:

- Nam may mắn đấy. Ít nhất Nam cũng may mắn hơn anh em. Bao nhiêu năm ở trong quân đội, Nam toàn ngồi viết ở bàn giấy, Nam không phải bận đồ treillis vác súng gác cổng trại quân một lần nào, Nam không phải bắn một phát súng; Nam đi thoát trước ngày 30 Tháng Tư, Nam không phải qua một ngày tù đày nào ở quê nhà như anh em, Nam không phải ngồi ngậm miệng nghe bọn chúng nó nói Nam có tội, Nam không phải thò tay ký vào bản nhận “ Tôi có tội với nhân dân, có tội với Tổ Quốc”; sang Mỹ, Nam có khổ cực thì cũng chỉ khổ như anh em thôi. Nam đi khỏi cõi lưu đày này sớm nên Nam không bị nhục như tôi đang nhục bi giờ.

Nam nhớ không? Một tối năm 1960 chúng ta ba mươi tuổi, Ngọc Linh mời chúng ta ăn trên lầu Nhà Hàng Đồng Phát, Chợ Cũ, Sài Gòn. Có Nguyên Sa, Thái Thủy, Phan Nghị, Văn Quang, Quốc Phong, Sĩ Trung. Trong khi ăn chúng ta nói linh tinh đến chuyện vợ bé, con riêng.

Tôi nói:

- Ông bố tao không có vợ bé, tao không bị khổ vì ông bố tao có vợ bé, tao sẽ không bao giờ có vợ bé.

Văn Quang nói:

- Nếu mày nói thế thì tao có quyền có vợ bé. Ông bố tao nhiều vợ lắm.

Tôi không được sắc xảo lắm về miệng lưỡi, tôi không đối đáp được nhanh. Đang nói, bị ai nói ngược, tôi khựng lại. Một lúc sau, khi anh em đã nói sang chuyện khác, tôi nói:

- Này Văn Quang. Nếu trước đây ông già mày có vợ bé, mày khổ thì bi giờ mày đừng làm cho các con mày phải khổ như mày. Còn mày thấy ông già mày có vợ bé mà mày không khổ thì mày cứ việc.

Thanh Nam nói:

- Làm cái gì mà mày cay cú thế? Mày mới có vợ đây mà. Đừng có nói vội. Tao thấy những thằng nói như mày là những thằng có vợ bé sớm hơn ai hết.

Thanh Nam hơn chúng tôi ba, bốn tuổi, tuy không nói ra, chúng tôi coi Nam như đàn anh. Tối ấy Thanh Nam nói về tôi như thế, tôi lặng im.

1960 Sài Gòn, 2007 Washington DC, 47 năm sau, hôm nay tôi nói với Thanh Nam:

- Thanh Nam ơi… Tao nói tao sẽ không có vợ bé, tao không có vợ bé.

Đang viết chuyện Chén Đắng, có lẽ vì chén đắng quá, tôi níu Thanh Nam vào chuyện. Đắng ơi là đắng. Tôi ngán, tôi tởm cũng phải thôi. Mười ngàn người Việt đi biểu tình chửi Việt Cộng, chỉ một thằng đó với cái mặt vừa mo vừa thớt của nó, cái lưỡi dài có gai độc của nó, hóa giải công lao của mọi người. Đau quá là đau. Nó nói láo, nó công nhiên liếm tên Việt Cộng ngay trên đất Hoa Kỳ mà người Việt ở Mỹ không làm gì được nó. Càng kể càng đau, ruột gan càng kể càng rầu như dzưa. Lần trước viết về nó, tôi nhớ lời dậy của bà mẹ tôi ngày xưa:

- Đừng có bới cứt ra mà ngửi.

Nó thối quá rồi, không nói đến nó nữa, coi nó như bãi cứt, chửi nó mình chỉ thêm khó chịu. Tôi đã coi nó như bãi cứt, nhưng nó không chịu nằm im, nó bốc mùi thối. Tôi không thể không chửi nó.

Trên các báo Việt ngữ ở hải ngoại hôm nay, trên hằng hà sa số các trang WEB, NET Việt, bài của hai ông nhà viết kể tên dưới đây được đăng nhiều nhất: Văn Quang với những bài Lẩm Cẩm Sài Gòn Thiên Hạ Sự, Phạm Trần với những bài phê bình chính trị. Hôm qua, Nhà Viết Phạm Trần gửi bài viết mới của ông cho Tạ Quang Khôi, biệt dzanh Tạ Ống Khói – vì nước da họ Tạ trắng như than Tầu - và tôi, với lời an ủi:

- Hai ông đọc đi, cho nguôi giận về vụ Nguyễn Cao Kỳ.

Tôi đọc và tôi hậm hực:

“Nguôi là thế nào? Nguôi là ký gì? Làm sao nguôi được! Nó chửi mình mình nghe. Mình chửi nó mình nghe. Nó có nghe chó đâu! Đồng bào ta ở quê nhà đâu có thấy cảnh người Việt ở Mỹ biểu tình chửi bố thằng Chủ Tịt Hậu Môn, những thằng Đầu Xỏ Cộng Sản chuyên thậm thụt ra dzô cửa sau những công thự ở các nước Âu Mỹ. Nó chỉ cần cho TiVi chiếu cảnh bọn Việt Chồn Lùi đến ăn uống Tiệc Máu với nó ở Cali, nơi được gọi là Thủ Đô của Người Việt Chống Cộng, nó chỉ cần cho chiếu cảnh nó được thằng Lộn Giống cung kính nâng bi, một điều “ Kính thưa Chủ Tịt,” hai điều : “Chủ Tịt là người Việt cao quí. Tôi rất kính phục Ngài Chủ Tịt. Tôi kêu gọi người Việt ở Mỹ hãy cùng tôi nâng bi Ngài Chủ Tịt…” Nó chỉ cần làm thế là tôi thua nó dzồi.

Nó, tên Chủ Tịt Hậu Môn, và bè lũ đảng viên Mafia Hút Máu Dân Việt, sẽ có ngày bị đền tôi; chúng sẽ có ngày bị dân Việt nắm cổ chó lôi từng thằng ra trước cửa chợ, đánh cho mỗi thằng năm, bẩy cái bạt tai, nhổ vào mặt mỗi thằng năm, bẩy bãi nước miếng, đá đít, đuổi đi, tượng Lão Hồ bẻ cổ em nhỏ trước Tòa Đô Chính Sài Gòn sẽ bị dân Sài Gòn kéo đổ, lôi ra cho nằm trước chợ Bến Thành, rất có thể trong Ngày Trị Tội Đền Tội đó có vài thằng Cộng ác ôn bị nhân dân Việt kê súng vào đầu, nổ bọp, như chuyện đã xẩy ra 10 năm trước ở các nước Đông Âu, ở Lỗ, ở Nga, ở Đức. Chuyện ấy, chuyện bọn đảng viên Việt Cộng Ác Ma bị dân Việt bợp tai, đá đít, chuyện tượng anh Gìa Hồ bị dân Việt cho ra nằm ở bãi rác, là chuyện nhất định sẽ đến. Sông có thể không cạn, núi có thể không mòn, nhưng chuyện bọn Cộng Việt bị dân Việt bạt tai, đá đít nhất định sẽ xẩy ra.

Tôi không thấy có Bỉnh Bút Da Việt Nam nào ở Mỹ, tức những nhà bình luận chính trị, viết kể tội người Mỹ, gọi đích danh Tổng Bớt, Ngoại Rai, trong Vụ Án Bọn Cộng Đàn Áp Nhân Quyền ở Việt Nam năm 2007. Ngang ngược nhất là cảnh thằng Công An VC dùng bàn tay mu rùa cộng sản hôi nhớt của nó bịt miệng Linh Mục Nguyễn Văn Lý. Hai người đó, Tổng Bớt, Ngoại Rai, với thái độ Hờ Hững Lạnh Nhạt Ra Mặt của họ với Phong Trào Dân Chủ ở Việt Nam khi họ đến Việt Nam dự Hội Nghị APEC, đã cho phép bọn Việt Cộng thẳng tay đánh những người Việt Dân Chủ ở trong nước. Đau hơn nữa là bọn Cộng chơi trò bổn cũ soạn lại.

Chuyện đó đã xẩy ra với bọn Tầu Cộng. Mỹ cho nó, Tầu Cộng vào WTO, Mỹ rút, cởi, mở hết những xiềng xích kiềm chế nó. Dzô WTO, Mỹ hết gò bó, Mỹ không còn cách xiết được nó, bọn Tầu Cộng hung hăng đánh những người Tầu Dân Chủ hộc máu mồm, hộc cả sì dzầu, chà cháo quẩy, pánh tiu, pánh pò, đánh đến nơi, đến chốn, Trước ngày được dzô WTO, bọn Tầu Cộng để cho Đảng Đối Lập Tầu ra đời, hoạt động, chúng không công nhân nhưng chúng cũng không cấm, không dẹp ngay. Dzô WTO rồi, chúng chơi xả láng. Chủ Tịch Đảng Đối Lập Tầu bị chúng bắt, ra tòa, kết án tù năm bẩy năm về tội phá rối trị an.

Chính phủ Mỹ có làm gì đâu? Biu Lin-tân, Gioọc Bớt, Ngoại Rai im ỉm gái ngồi phải cọc. Phản đối mồm lảm nhảm rồi thôi. Lại xem bọn Tầu Cộng đàn áp những người Tầu Pháp Luân Công. Những người này chỉ ngồi thiền, nó bảo không được ngồi đông nơi công cộng. Cứ ngồi. Nó đánh, nó đá, nó đạp ngay tai chỗ. Đàn ông, đàn bà nó thượng cẳng chân, hạ cẳng tay, nôm na là nó đấm, nó đá, bịt mồm, bẻ tay, quật ngã, còng, cùm như nhau. Nó bắt họ đi tù. Nay có cả ngàn người Pháp Luân Công nằm phơi rốn trong ngục tù Tàu Cộng. Chính phủ Mỹ có làm gì bênh vưc họ đâu! Thương thay! Người thế giới đã quên những người Pháp Luân Công nạn nhân của Tàu Cộng.ï Nay chẳng còn ai nhắc đến Pháp Luân Công. Mà những người Pháp Luân Công ở Mỹ đông hơn, mạnh hơn người Việt ở Mỹ biết bao nhiêu. Đấy là chưa kể việc bọn Tàu Cộng chiếm nứơc Tây Tạng từ 50 năm nay, Đạt Lai Lạt Ma bôn ba thế giới từ năm 1950, đượ gì đâu, dân Tây Tạnh vẫn nằm dưới sự cai trị của bọn Tàu Cộng, nước Tây Tạng vẫn là một tỉnh của nước Tàu.

Tên Chủ Tịt Tầu Hồ cẩm Đào mới đây nói:

- Trung Quốc vẫn giữ chính sách Độc Đảng.

“Độc Đảng” nghĩa là nước Tầu chỉ có một Đảng Cộng Sản Độc Ác cầm quyền, ở nước Tầu chỉ có bọn đảng viên Đảng Cộng Độc có quyền ăn trộm, ăn cắp, ăn chơi sa đọa, hiếp dâm, tham nhũng thả dàn, cướp đất của dân, bán đất, bỏ tù dân, giết dân. Dù chúng không còn là Cộng sản nữa, dù chúng đã cho bọn Kác Mác, Lê-nin xuống hố phân, chúng vẫn cứ giữ cái quyền độc ác giết dân, tham nhũng, trộm cắp của bọn Cộng sản. Bọn Việt Cộng theo đúng thủ đoạn của bọn Tầu Cộng đàn anh chúng. Bọn Tầu Cộng dzô WTO mà vẫn sống, không những chúng chỉ sống, chúng còn sống ngang ngược hơn trước.

Bọn Việt Cộng cũng thế thôi. Khi thấy có Bình Luận Da Việt tiên đoán:

“Dzô WTO bọn Việt Cộng sẽ chết!”

Tôi tự hỏi:

“Bon Tầu Cộng dzô WTO không chết, tại sao bọn Việt Cộng dzô WTO lại chết?”

Chính sách đối phó với những người Tàu đòi Dân Chủ, Nhân Quyền của bọn Tàu Cộng là chúng không thẳng tay diệt những người đối lập chúng khi những người này hoạt động đơn độc, không có đoàn thể, nhưng khi những người này lập Đảng, Phong Trào, có thành viên, là chúng đập chết thôi. Bọn Việt Cộng diệt Linh Mục Nguyễn Văn Lý vì ông có một số tín hữu theo ông, chúng diệt phong trào đối kháng ở hậu giang vì phong trào này có tín đồ Hòa Hảo, Cao Đài. Chúng bao vây, cô lập, làm khó Bác sĩ Nguyễn Đan Quế ở Sài Gòn nhưng chúng không bắt, chúng không bỏ tù ông nữa, chúng để ông lâu lâu gửi một Tâm Thư, hay một cái gọi là Lộ Trình Dân Chủ ra nước ngoài. Ông Bác sĩ có làm hại chúng nhưng cái hại đó chúng chịu được. Người Việt ở nước ngoài đem đô-la về nước ăn chơi, chúng để yên nhưng nếu ai từ nước ngoài về đường Nguyễn Trãi đến gặp Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, hay đến Thanh Minh Thiền Viện đường Trương Tấn Bửu xin thăm Hòa Thượng Thích Quảng Độ, người này vừa ra khỏi chỗ gặp là bọn Công An Đầu Trâu Mặt Ngựa nó áp tới, nó bóp đzế nó lôi đi liền một khi.

Chuyện Chủ Tịt Hậu Môn Nguyễn minh Triết bị giới lập pháp Mỹ hạch hỏi về thành tích đàn áp Nhân Quyền, theo tôi, không có gì đáng cho nó, và bọn đảng viên Cộng Việt, phải sợ. Vừa rút nó ra khỏi Danh Sách Đen Những Nước Mỹ Cần Quan Tâm, không thể năm, bẩy tháng lại đút nó trở dzô. Lập Pháp Mỹ không thể làm cái trò trẻ con đó. Lập pháp Mỹ không thể làm gì có hại đáng kể cho bọn Việt Cộng khi hành pháp, tức chính phủ Mỹ, không đồng ý. Gặp Tổng Thống Mỹ ở Nhà Trắng như một vị quốc khách, dù là Khách Hậu Môn, gặp những nhà lập pháp Mỹ, Nguyễn minh Triết nó có sợ hãi, nó có hứa hẹn sửa đổi gì đâu? Không những nó không sợ, nó còn ngang ngược nói như nó nói trên đấát nó cầm quyền:

- Ở Việt Nam không có tù chính trị.

Nó lẹo lưỡi Chồn nói với người Việt ở Mỹ:

- Sống trên đời để làm gì? Các bạn có đặt câu hỏi đó không? Sống trên đời không phải để thù hận mà chính là để yêu thương với nhau, yêu thương giữa con người với con người, giữa dân tộc. Vì vậy một lần nữa tôi mong bà con của mình, ở đây thì khỏi phải nói rồi, nhưng mà bà con còn xa xa hãy vì quê hương đất nước vì dân tộc này, hãy gác bỏ mọi chuyện cũ đi, mọi tị hiềm của quá khứ, hãy đoàn kết lại và cùng nhau xây dựng một mẹ hiền, một đất nước Việt Nam giàu mạnh. Đó không chỉ là lời nói và ý kiến của tôi mà đó là tâm nguyện của cả dân tộc Việt Nam, là ý chí của đảng và nhà nước Việt Nam

Nó nói dzậy đó, nó nói dzậy ở Cali, Huê Kỳ, ở giữa Thủ Đô của Người Việt Chống Cộng, nó nói dzậy tôi không điên ruột, tôi không sôi máu, tôi không – như Tạ Tốn - rú lên một tiếng thanh thoát, tôi không thổ ra một búng máu tươi, sao được!

Có khác chi nó nói:

- ĐM chúng mày. Chúng mày về nước đi để cho bố chúng mày bịt mõm chúng mày.

Tôi gửi riêng bài này đáp lễ Bình Luận Da Phạm Trần, với lời cám ơn và cước chú:

- Đọc bài của Bình Luận Da, tôi không nguôi hận một ly ông cụ nào. Hình như tôi lại càng thêm hận. Tôi hận mà tôi có làm gì cho tôi nguôi hận được đâu, tôi chỉ có thể chửi chúng nó lèm bèm thế này thôi.

Ngày mai tôi sẽ không viết chuyện chính chị, chính em nữa. Từ đầu năm Heo đến nay tôi đã xa cách những chuyện Tình Yêu Cao Đẹp Ngàn Đời Sống Mãi với Trăng Sao, Thơ Văn Lãng Mạn Châu Ngọc Vàng Y Kim Cang, Đàn Bà Tiên Nữ Đa Tình Đa Cảm Đa Đoan Đa Đủ Thứ, Những Cuộc Tình Xanh Yêu Đương, Trắng Thủy Chung, Rộn Thanh Âm, Rạo Ân Ái, Rực Tình Xuân, Bần Thần Hoài Niệm. Từ ngày mai tôi sẽ viết về

TÌNH và THƠ.

THƠ gì cũng được, Thơ Dzở cũng là Thơ. Cuộc đời có nhiều nhà Thơ Dzở Bỏ Cha đi mà vẫn được ca tụng là Thi Sĩ Lời Lời Châu Ngọc, Hàng Hàng Gấm Thêu, người ta đánh bóng Thơ Người Ta, bôi dzầu vẹc-ni, chà giấy nhám, sịt nước bông Thơ Bạn Người Ta, Thi Sĩ Mướp Đắng bốc Thơ Thi Sĩ Mạt Cưa là “Đệ Nhất Thơ Việt Muôn Đời Ngàn Kiếp,” Thi Sĩ Mạt Cưa nâng Thơ Thi Sĩ Mướp Đắng là “Thơ Tuyệt Vời Kim Cổ.”

Vậy thì thay vì làm cái việc ngu ngơ bới cứt ra mà ngửi, thay vì phí compiutưa viết về những thằng Lộn Giống, tại sao tôi lại không viết về Tình Yêu, về Thơ? Như tự bao giờ tôi vẫn viết. Khi bánh xe lãng tử đưa tôi đến Kỳ Hoa một sáng cuối thu 10 niên trước đây, tôi đã định tôi sẽ chỉ viết về Tình Yêu. Vậy mà vì những nguyên nhân tẹp nhẹp nào, mấy năm nay tôi sa đà vào cõi tục lưu đày nhiễu nhương với những bài chửi Cộng?

Bởi dzậy, từ ngày mai Viết ở Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Đất Trích, tôi sẽ trở lại với chuyện Tình, chuyện Thơ.

Có thể những nữ độc giả thơm như múi mít của tôi không thích khi các nàng phải đọc những chuyện tanh tưởi như chuyện Chủ Tịt Hậu Môn Cộng Chồn đưa cái Lá Đa Gái Việt ra làm món hàng mời chào doanh gia thế giới:

“Ông ơi… Đến Việt Nam đi ông. Việt Nam có Lá Đa ngon lắm.” – bọn Việt Cộng bắt chước bọn Tầu Công gọi cái trò Mời Chào Lá Đa này là “khuyến mãi” - các nàng không thích đọc những chuyện Cao Cầy Nham Nhở Nâng Bi Chủ Tịt Hậu Môn. Tôi sẽ viết chuyện Tình, chuyện Thơ để các nàng đọc.

Tôi kết bài này bằng Thơ Thanh Nam, tôi có phóng tác mấy tiếng. Nếu Thanh Nam sống hôm nay, chắc Thơ Thanh Nam sẽ như vầy:

Ba mươi năm tởm trò dzơ bẩn
Một cõi lưu đày nhớp với nhơ.
Buồn như người lính vừa thua trận
Nằm giữa sa trường nát gió mưa



Đêm đêm từ đáy hồn thương hận
Vẫn Tiếng Kèn Truy Điệu Nước Xưa!

CÔNG TỬ HÀ ĐÔNG

Không có nhận xét nào: