Thời Tông Tông Nguyễn văn Thiệu còn ngồi trên ngai vàng, Việt cộng không có ngán ông chút nào hết. Ngày nào chúng cũng pháo kích, đặt mìn, đào đường đắp mô, phá rối, khủng bố… đủ thứ chuyện trên đời, để lật nhào ông và làm cho chế độ tự do mau sụp đổ để chúng vào cai trị, đè đầu, đè cổ dân chúng miền Nam.
Thậm chí, chúng còn cho người “chui cao, luồn sâu” tận giường ngủ của ông để đêm đêm thọt cù lét cho ông nhột chơi nữa.
Nhưng khi, ông không còn cơ hội cầm cờ trong tay để phất nữa, thì chúng lại sợ và thù ông chí chết
Cả một đời làm tổng thống, ông Thiệu chỉ để lại cho hậu thế một câu danh ngôn “đáng đồng tiền bát gạo”, giá trị hơn nhiều tỉ Mỹ Kim, hơn hẳn 36 tấn vàng mà Bắc Bộ Phủ vội vàng bợ về Bắc chia chác cho nhau ngay những ngày đầu 75.
“Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”
Câu danh ngôn này, ba mươi mốt năm qua, đã làm cho Việt cộng xang bang xất bất. ( không phải cho người Việt hải ngoại tha bang thất quốc đâu)
Nó trở thành một câu “thần chú” vô cùng hiệu nghiệm để hoá giải các chiêu thức của Vi Xi đưa ra “mà mắt thiên hạ”.
Câu “thần chú” này được “nhân dân hóa” thành một “khẩu quyết” dễ nhớ, dễ thuộc để đối phó với ngón võ “Ơn Đảng, ơn Bác”.
Việt cộng bất cứ làm gì, nói gì, ban hành nghị quyết gì, người dân chỉ đọc câu “khẩu quyết” trên là mọi sự đều hóa giải thành con số không hết trọi.
Việt cộng lo sợ, điên đầu và căm thù cái “khẩu quyết” này vô cùng tận. Nhưng cũng không tìm ra chiêu thức mới nào để trừ khử tiêu diệt được nó.
Càng ngày cộng sản càng lộ chân tướng là con cáo đội lốt người, người ta mới thấy và khâm phục “tuệ nhỡn” của Tông Tông Thiệu. Nó giống y chang câu nói của tướng độc nhãn Do Thái Mosche Dayane: Muốn thắng Cộng sản thì hãy cho Cộng sản vô nhà.
Bây giờ thì cộng sản đã “lọt ổ” vô nhà rồi. Bây giờ thì cộng sản tuy tiếng rằng chiếm được đất nhưng đã thấm đòn bị thua. Từ thua tới thua trên mọi con đường: Chính trị, kinh tế, xã hội, nhân văn… nhất là nhân tâm. Người dân trong nước phản kháng chế độ hà khắc bằng cách bất hợp tác. Do sự kiêu căng, hãnh tiến và ngu dốt, họ đã kéo lùi dân tộc ngày càng trở về thời đồ đá, đồ đồng và bây giờ là đồ đểu.
Bây giờ thì Đảng ta ra sức hô hào đổi mới. “Đổi mới hay là ngỏm củ tỉ ” câu khẩu hiệu này đã được trương lên hơn hai mươi năm. Có lẽ dân miền Bắc thấy nó có đổi mới thật. Nhưng dân miền Nam thì thấy nó cũ xì. Nó đang trở lại y chang thời kỳ trước năm 1975 hay còn tệ hơn thế nữa.
Từ chiếc áo dài tha thướt được phục hồi thay cho bộ đồng phục vải Nam Định nhuộm nâu, nhuộm xám ngoài Bắc tràn vô, cho chí mấy cái “văn hóa đồi trụy” như thi tuyển hoa hậu, nhảy đầm…được Đảng ta ra sức phát huy và được long trọng gọi tên khác đi (tránh bắt chước tụi Ngụy) là “Duyên dáng Việt Nam” và “múa đôi” cho có vẻ “đậm đà bản sắc dân tộc” và “hoành tráng - ấn tượng”
Mấy bà già trầu, “má nuôi chiến sĩ” ngày xưa từng đào hầm, gánh gạo nuôi giấu “cán bộ ta” nay mất ruộng, mất nhà, ra vỉa hè nằm lăn lóc, xin ăn qua ngày, há hốc miệng ra, kêu lên:
- Chèng ơi! Sao thấy giống hồi thời Mỹ Ngụy dzậy cà? Nói cách mạng đổi mới sao không thấy tới mà cứ thấy thụt lùi hoài dzậy? Lão Thiệu nói thiệt đúng! Cách mạng mình nói dzậy mà không phải dzậy! Ơn Bác, ơn Đảng! Thiệt tình!
Nói dzậy mà không phải dzậy!
Mời độc giả xem qua cái quyết định dưới đây để coi Đảng ta “Nói dzậy mà…”
Quyết định số: 1568/QĐ-TTg, ngày 27 tháng 11 năm 2006
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Xét đề nghị của Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương,
Quyết định:
Điều 1: Đồng ý chuyển mục đích sử dụng 58 ha đất khu nghĩa địa Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương do Quân khu 7, Bộ Quốc phòng quản lý sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triễn kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương.
Điều 2: Giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương…
Chỉ đạo việc quản lý khu nghĩa địa Bình An bình thường như các nghĩa địa khác theo qui định của pháp luật.
…
Điều 4:Bộ Quốc phòng (Quân khu 7) thực hiện việc di chuyển… hoàn tất trong tháng 7 năm 2007.
Thủ tướng Nguyễn tấn Dũng (ấn ký)
(Công báo số 09-10 (7/12/ 2006)
Trước khi xem cái Quyết định này có ý nghĩa gì, xin mời quí độc giả lượt qua môt đoạn phim ngắn về “quá trình công lao” của tướng râu kẽm Nguyễn cao Kỳ cho cái thành quả này.
Phim có tính chất hư cấu.
“Phó vương Kỳ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, vễnh hàm râu kẽm, hùng dũng tuyên bố với binh sĩ: - Chúng ta quyết đánh tụi Vi Xi đến giọt máu cuối cùng”. Xế chiều, trên TV người ta thấy Phó vương bay trực thăng ra hạm đội 7 của Hoa Kỳ. Cảnh tiếp theo Phó vương xô chiếc trực thăng xuống biển để hạ quyết tâm: - Không đánh đuổi được tụi Vi Xi ra khỏi nước, quyết không về! (Giống câu thề khi đi nhậu: Không say không về!)
Nhiều năm ( bắt chước Bác) tìm đường cứu nước tại Mỹ, Phó vương Kỳ bị thất bại liên miên. Đêm đêm ông mài kiếm dưới trăng, vừa uống X.O vừa chửi trời, chửi đất và chửi đời. Đời đã đá ông bầm dập. Không giống như trong hồi ký ông tự viết về đời mình như là “một đứa con cầu tự”. Đi đánh cá thì cá trốn ráo trọi. Bán ghe lên bờ, mở tiệm rượu. Khách chưa kịp đến mua thì Phó vương sẵn buồn tình trong lòng, nên uống hết sạch. Sập tiệm. Hết vốn vay mượn, phải đến ở nhờ nhà đàn em kiếm cơm qua ngày. Gia đình ly tán. Vợ là Đặng thị với con gái bỏ đi làm MC ca nhạc để mưu sinh.
Năm 1992, Phó vương làm đơn xin về nước, bắt chước Hàn Tín áp dụng “khổ nhục kế” để mưu đại sự. Bắc Bộ phủ vừa nghi kỵ vừa hận về mối thù cũ nên sổ toẹt đơn của Phó vương, không cho về.
Trong thời gian ẩn nhẫn đợi chờ thời cơ, Phó vương chiếm được trái tim bà vợ của đàn em mà mình đang ăn nhờ ở đậu. Người đàn em bị đàn anh “vi chủ thành khách” bèn “ta buồn ta đi lang thang bởi vì đâu!.
Tháng 6 năm 2003, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Việt cộng, Trần đình Bin, sang Mỹ làm công tác kiều vận, kêu gọi “đàn bò sữa đem sữa về nhiều thêm”. Phó vương chớp thời cơ mời Bin đi đánh gôn và ăn cơm nhà hàng. Dịp này, Phó vương xin Bin giúp cho về “thăm quê hương” một chuyến. Lấy cớ là tuổi già sắp theo Bác. Bin ngẫm nghĩ hồi lâu rồi gật đầu đồng ý giúp.
Năm đó, Phó vương về, đi lông rông, không làm nên tích sự gì vì Bắc Bộ phủ còn cho “âm binh” theo dõi và điều tra hành vi nhất cử nhất động “diễn tiến hoà bình” của tên phản động nhiều nợ máu với nhân dân.
Cũng thời gian đó, ở hải ngoại không hiểu được “chí lớn” của Phó vương cứ cho là tên phản bạn lừa thầy nên chửi rủa, thóa mạ kịch liệt. Trước những phản ứng gay gắt, giận dữ của tập thể “huynh đệ chi binh” và Cộng đồng người Việt hải ngoại, Phó vương chỉ nhếch hàm râu kẽm cười khinh bỉ. Cho bọn lính tráng và đám phó thường dân ganh ăn, ghét ở, là lũ chuột nhắt hồ đồ, là chim se sẻ làm sao biết được chí lớn của chim hồng, chim hộc.
Qua năm sau, Phó vương lập được công lớn. Lần này về nước, Phó vương dẫn theo mấy tay “đế quốc tư bản” mang kè kè túi bạc đô la xanh kếch sù, tìm kiếm đất đai tốt để lập nơi du hí. Bắc Bộ phủ thấy đô la đổ ra ào ào, híp mắt sung sướng. Từ đó, Phó vương được Đảng ta tin dùng, nhưng cũng “có mức độ”. Những lời nói của Phó vương đều được “trên” xem xét, mớm trước rồi mới được phát. Hoặc lúc cao hứng, bốc đồng Phó vương có phát ngôn loạn xị thì báo chí cũng được lệnh cắt xén, ráp nối thành những “hòn đá bắn hai chim”, làm cho Phó vương ở cái thế toòng teng “đi chẳng nỡ, ở không xong”.
Dịp may đến lần thứ hai, phước vô đơn chí, họa bất trùng lai, năm 2005, nhân dịp Tể Tướng Khải sang Mỹ cầu viện đô la, phu nhân mới của Phó vương (vợ của đàn em bị chiếm) thỏ thẻ với đức lang quận: -Thiếp có họ hàng với Tể Tướng Khải, tướng công nên tìm cách cận kề thì sẽ được nhiều lợi lộc về sau.
Vợ chồng Phó vương y kế, tìm cách lân la mời Tể tướng Khải đi “in roi” mấy chỗ nhảy sexy. Kết quả rất mỹ mãn. Tể tướng Khải hứng chí ra mặt.
Nhưng ban đầu, Tể Tướng Khải vẫn có thói quen “cảnh giác”, địch lúc nào cũng tìm cách xâm nhập phá hoại ta nên có ý nghi ngờ, e mụ này ý đồ “thấy sang bắt quàng làm họ” nên bắt mụ phải kinh qua “thử máu nhận họ”. Nếu đúng, mới cho lại gần.
Hai người nhỏ máu đầu ngón tay vào ly…nước lã. Hai giọt máu dần dần hòa vào nhau và lạ thay môt ngôi sao vàng hiện lên giữa màu máu đỏ tươi.
Thế là vui quá. Tha hương ngộ cố tri. Hỏi rõ ngọn ngành, té ra hai bên là thông gia.
Từ đó, những ngày ở tại Mỹ, Phó vương Kỳ với Tể Tướng Khải bá vai nhau đi đánh gôn và nhảy đầm, uống rượu và xem vũ sexy thoải mái.
Một hôm, đang lúc vui vẻ, Khải bỗng thở dài, mặt sụ xuống, tỏ vẻ buồn bã. Kỳ ướm lời hỏi han. Khải than rằng:
- Mấy năm nay, bọn Việt kiều gởi tiền về nước nhiều quá, gần bằng 1/5 tổng số tiền cả nước làm hộc máu một năm. Với món hời như thế, bất chiến tự nhìên thành, khoẻ re như bò kéo xe, nên Đảng ta thừa thắng xông lên, muốn moi thêm càng nhiều càng tốt, bèn kêu gọi “hòa hợp hòa giải” để chiêu dụ bọn nó mang đô la về nước làm ăn. Nhưng, kêu khản cả cổ, tốn nhiều giấy in nghị quyết này quyết định nọ vẫn chẳng thấy mấy đứa về. Chỉ tại cái thằng Thiệu nó đầu độc bà con ta là “Đừng tin những gì cộng sản nói”.Ta nghĩ đến đó là lòng thấy buồn, miệng ăn không thấy ngon, rượu X.O uống không thấy đậm đà, mấy em không còn mấy hấp dẫn như trước!
Thời cơ đến, Kỳ được dịp tỏ lòng tri kỷ, hiến kế:
-Tể tướng đừng lo lắng quá mà có hại cho mình rồng. Thần nghĩ, chiêu dụ bọn nó không khó gì. Bọn nó có tính nhân của đàn bà và hay quên. Bây giờ Đảng ta chỉ cần tỏ ra chút ít nhân đạo thì bọn nó sẽ “hồ hởi phấn khởi” quên hết quá khứ đau thương ngay ráo trọi.
- Bằng cách gì? - Khải hỏi tới.
- Trước tiên, theo ý Thần thì nên trả lại Nghĩa trang Quân đội Biên Hoà cho bọn họ.
- Tại sao trả cái nghĩa địa xác chết mà bọn nó lại yên lòng được?
- Hãy bắt chước Nguyễn Trãi “lấy chí nhân mà thay cường bạo”. Bước một Ta vờ hòa giải với người chết trước. Bước hai hòa giải với người sống. Khi được rồi thì ta nắm đầu chúng chẳng khó gì. Cái sách lược 10 ngày học tập để tỏ lòng nhân đạo khoan hồng cũng còn xài tốt lắm. Khi bọn chúng lũ lượt kéo về thì ta sẽ…
- Ừ! Nghe cũng phải. Để ta xem xét cẩn thận mới được.
Đó là rượu nói. Về đến nhà Tể tướng Khải quên tuốt lời hứa. Phó vương Kỳ lại được ( bị) người Việt hải ngoại chửi bới thêm một trận te tua nữa.
Nhưng cũng nhờ bà vợ có chút máu mủ thông gia với Tể Tướng Khải nên vợ chồng Phó vương Kỳ về Việt Nam đều đều như đi chợ để làm “Cò” và “trúng quả” nhiều lắm.
Có người tò mò hỏi:
- Tụi Việt cộng nó thù Ngài lắm. Sao bây giờ cho Ngài đi đi, về về Việt Nam như con thoi vậy?
Kỳ cười bí mật, hàm râu kẽm nhúc nhích lên xuống, hạ giọng thầm thì:
- Mấy “người anh em” họ tha thiết mời tôi về đấy chứ. Tôi nào có thèm lậy lục van xin như cái bọn bố láo, bố lếu ở ngoài này vu cho tôi. Tôi có sứ mạng!
Đùng một cái, Tể Tướng Khải bị Bắc Triều cho rớt đài. Anh nông dân du kích nửa mùa ở miền Tây là Nguyễn Tấn Dũng được Hồ Cẩm Đào đưa lên thay thế. Ban đầu, Bắc bộ phủ ai nấy đều ngạc nhiên lấy làm lạ. Một người như Dũng không có tí thành tích gì trong quá khứ, lại là dân miền Nam không tin được, bỗng chốc nhảy tót lên bàn độc. Sau, bức màn thâm cung bí sử được ông cựu TBT Nguyễn văn Linh hé ra mới biết: Nguyễn tấn Dũng và Nguyễn chí Vịnh đều là “Hổ chủng” của tướng Nguyễn chí Thanh, một tướng của Bắc triều đào tạo, giống như Nông đức Mạnh là “Long chủng” của “Bác Hồ muôn vàn kính” yêu vậy.
Mọi người lúc đó mới mừng rỡ, sung sướng thở phào ra: - À ra thế!
Thời gian cứ đủng đỉnh trôi và mấy cái sân gôn “hoành tráng đầy ấn tượng” ở Sài Gòn, Phú Quốc, Hà Nội…được hình thành.
Phó vương Kỳ trúng mối lớn, ăn chia huê hồng phần trăm với “mấy người anh em” một cách rất “ấn tượng” và vui vẻ trên mức tình cảm.
Trong lúc cụng ly X.O với “mấy người anh em” vấn đề “hòa hợp hòa giải” với người chết lại được Phó vương khoèo lại với Tể tướng Dũng.
Tể tướng Dũng trẻ,đẹp trai, mặt mày sáng sủa, tuy hơi dốt một chút, nhưng không sao. Bác Mười đã từng là thợ thiến heo, Bác Anh từng là phu đồn điền cao su có học hành gì đâu? Thì đã sao? Vẫn đánh thắng được ba tên đế quốc đầu sỏ thế giới. Nước ta vẫn từng bước tiến vững chắc tới hố Chủ Nghĩa Xã Hội đó mà.
Tể tướng Dũng tửu lượng rất cao, xưa kia lúc còn là du kích, đã từng chơi hàng lít đế Gò Đen, nên uống rượu X.O như uống nước lã. Lần này vừa cụng ly với Kỳ vừa bàn chuyện “lấy nhân nghĩa mà thay cho cường bạo” rất lấy làm tâm đắc.
Sau khi cạn chừng ba chai X.O Hennessy, Tể tướng Dũng vỗ vai Phó vương Kỳ và quyết:
- Nghe người anh em nói, tui thấy được quá! Tui chơi tới bến luôn!
Nói thì nói vậy, Phó vương về nhà thao thức chờ đợi “ Cú chơi tới bến”, không ngủ được, hai con mắt cứ trỏm lơ như hai cái vỏ con nghêu úp lên vậy.
Mãi cho đến ngày 27 tháng 11 năm 2006 mới thấy cái Quyết định ở trên ban hành. Phó vương Kỳ chụp vội và đọc cái Quyết định rất kỹ. Đọc tới đọc lui năm lần, bảy lượt vẫn không tin ở mắt mình cái hàng chữ ỡm ờ trong quyết định viết rành rành:
“Điều 1: Đồng ý chuyển mục đích sử dụng 58 ha đất khu nghĩa địa Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương do Quân khu 7, Bộ Quốc phòng quản lý sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triễn kinh tế-xã hội tỉnh Bình Dương.”
Phó vương Kỳ lẩm bẩm:
- Mẹ nó! Mình lại mắc lừa nó rồi! Hôm trước mình xin nó làm một “cú” thật ngoạn mục để mình lấy điểm đặng dằn mặt với cái bọn bố láo hải ngoại rằng là:
“Đảng và Nhà nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam xin trả lại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa cho thân nhân các tử sĩ Quân lực VNCH, được trùng tu phục hồi như cũ, để tỏ thành tâm thiện chí trong việc “hòa hợp hòa giải dân tộc”.
Mà bây giờ, trong quyết định, chúng lại nói khơi khơi “chuyển sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triễn kinh tế”.
Thế là thế nào? Thế có chết mình không chứ!
Hôm sau, Phó vương Kỳ ôm theo cái bản sao Quyết định lên Phủ Tể Tướng xin gặp Dũng để dọ hỏi xem người soạn thảo có viết nhầm hay không. Chầu chực mãi cho đến trưa, bụng đói, mắt hoa, tay chân bắt đầu bắt chuồn chuồn mới được Dũng cho kêu vào.
Phó vương Kỳ chưa kịp nói lời nào, Tể tướng Khải đã chặn họng:
- Tôi đã biết ý anh muốn nói gì rồi. Đây là quyết định của Bộ Chính trị, chứ không phải cá nhân tôi. Tôi có hứa với anh thật, nhưng anh cũng rõ là Đảng và Nhà nước ta đều ở trong cơ chế làm chủ tập thể. Việc anh nêu ý kiến thì tốt đấy. Nhưng Trưng Ương xét thấy mấy cái hài cốt của lính Ngụy đánh thuê cho Mỹ nằm đấy phí đất đi. Nay Đảng quyết định dụng 58 ha đất đó làm kinh tế thì tỉnh Bình Dương nói riêng và đất nước ta nói chung sẽ giàu to. Anh cứ tính nhẩm xem thì biết: Cứ 1 mét vuông trị giá sơ sơ chừng 1 lượng vàng y bốn số chín.
58 ha = 58.000 m2 x 1 lượng vàng = ???
- Thôi anh lui ra. Khỏi ý kiến, ý cò gì nữa. Đảng đã quyết rồi. Không thể sửa.
Nói xong, sai cận vệ đuổi ra cửa.
Phó vương Kỳ tính trong bụng chắc mẫm kỳ này lập công to nhưng không dè cú đá giò lái của Tể tướng Dũng còn độc hơn cú đà đao của Quan vân Trường hay cú hồi mã thương của La Thành nên đứng chết trân. Hai hàng râu kẽm trên mép bỗng quặp xuống, trở nên cứng hơn thép, làm cho môi trên không nhúc nhích được. Từ đó Phó vương Kỳ bị chứng á khẩu. Chỉ có miệng ăn chớ không có miệng nói.
…
Trở lại cái chuyện nghĩa địa Bình An và Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa.
Thế hệ sinh sau năm 1975 có lẽ không biết cái trò lập lờ đánh lận con đen về chữ nghĩa này: Nghĩa địa và nghĩa trang.
Suốt chiều dài chống cộng giữ nước hơn hai mươi năm, mười tám ngàn lính chiến VNCH miền Nam đã hy sinh và được chôn cất tại đây. Phần đất mà những người lính anh dũng đã yên nghĩ vĩnh viễn ở đây đã được Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa long trọng đặt tên là Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa.
Sau năm bảy lăm, không những Việt cộng bắt tất cả Quân, Cán, Chính miền Nam vào các trại tù để lao động khổ sai mà chúng còn giam cầm cả người chết để trả thù. Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa cũng bị giam cầm, canh giữ suốt ba mươi hai năm bởi Quân khu 7. Tính chính xác đến ngày hôm nay là 32 năm 2 tháng.
Chúng cố tình xóa đi cái tên “Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa” và thay vào đó cái tên “nghĩa địa Bình An” để người dân lâu ngày quên đi cái di tích này.
Hành động trả thù người chết của Việt Cộng để thỏa mãn lòng hận thù không thua gì hành động của Vua Gia Long đối với nhà Tây Sơn thuở xưa.
Câu “nghĩa tử là nghĩa tận” đối với cộng sản không có nghĩa lý gì.
Tất cả các nghĩa trang công hay tư khắp miền Nam đều bị cào mồ, cuốc mả, san bằng để chiếm dụng vào việc gọi là “dân sự”.
Nghĩa trang VNCH ở Cần Thơ, ở Gò Vấp, bị san bằng ngay trong những năm đầu tiên để xây nhà cho cán binh VC ở. Nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, nghĩa trang Bắc Việt, Nghĩa trang Chí Hòa cũng bị san phẳng để làm công viên.
Hãy ngẫm lại mà xem, hài cốt lính Mỹ rãi rác khắp nơi từ núi cao cho đến chốn rừng sâu, Việt cộng cũng cố công đi tìm từng lóng xương, để trao trả cho Chính quyền Mỹ. Còn mồ mả lính Cộng Hòa, những người anh em cùng da vàng máu đỏ thì bị cào đi là nghĩa làm sao?
Ngày xưa, Việt cộng xem Mỹ là kẻ thù không đội trời chung, nay lại trải thảm đỏ mời rước vào Dinh Chủ tịch nước vào Phủ Thủ tướng. Trong khi “những khúc ruột xa ngàn dặm” lại cấm cửa. Muốn vô nhà phải xin phép. Vậy cớ làm sao?
Tất cả chỉ vì đồng đô la màu xanh chứ không thể vì cái chữ “nhân” vô nghĩa.
Miệng thì hô hào “hãy quên thù hận cũ để hòa hợp hòa giải” mà bàn tay lông lá lại thò sang tận hai hòn đảo hoang ở Mã Lai và Nam Dương đập nát hai tấm bia của người tỵ nạn.bị bỏ thây dưới lòng đại dương trên đường chạy trốn cái chế độ bạo tàn. Hành động đó đã đủ nói lên cái chủ trương “giết tuyệt, diệt tận” của VC.
Tờ Nhân Dân trong số đề ngày 29 tháng 12/2006 có đăng một tin, tựa đề: “Xây dựng, quản lý và sử dụng nghĩa trang nhân dân phải theo qui hoạch”
Nội dung cho biết là Bộ Xây Dựng đang lấy ý kiến hoàn chỉnh dự thảo “Nghị định về xây dựng, quản lý và sử dụng nghĩa trang nhân dân” trình Thủ tướng trong thời gian tới.
Nhiều người có con em, chồng con hay thân nhân, bạn bè được chôn cất trong Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa bấy lâu nay, rất đau lòng vì không được bén mảng tới nơi để thăm viếng, thắp nén hương trên mộ hằng năm như trước, nay nghe thấy cái Quyết định vừa ban hành của Thủ tướng Việt cộng Nguyễn Tấn Dũng đã vội mừng. Và họ cho rằng cộng sản đã đến lúc hồi tâm chuyển ý. Đồ tể bậy giờ đã chịu bỏ dao xuống để thành Phật.
Nhưng qua những sự thật vừa liệt kê trên, cho thấy cộng sản không từ một thủ đoạn nào để xóa bỏ tất cả “tàn tích” của chế độ cũ.
Bao nhiêu di tích lịch sử đã bị phá bỏ, bao nhiêu nghĩa trang đã bị san bằng, thì cái Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa là cái gai cuối cùng Việt cộng phải nhổ đi thôi. Đã nhổ được cái gai trước mắt, thu được một số tiền khổng lồ từ người chết, lại được tiếng “hòa hợp hòa giải” thì ngu gì mà không làm.
Đạo lý là cái gì? Lương tâm là cái gì? Chỉ là thứ xa xỉ của bọn tiểu tư sản. Người cộng sản không có và cũng không cần những thứ vô bổ đó.
Nó không giúp ích gì cho công cuộc xây dựng và tiến lên Xã hội Chủ nghĩa, tiến tới Thế giới Đại đồng.
Rồi đây, sau thời gian ấn định, tháng 7 năm 2007, tỉnh Bình Dương chắc sẽ ra thông báo cho dân chúng khẩn cấp di dời mộ ở “nghĩa địa Bình An”. Mộ nào không di dời sẽ được coi là mộ hoang, chính quyền sẽ “giúp đỡ di dời”.
58 ha đất vàng ở đây sẽ được mau lẹ chia lô bán để phát triển kinh tế - xã hội.
Chẳng mấy chốc sau đó nhiều hotel ba sao, năm sao sẽ mọc lên. Sân gôn hoành tráng sẽ khánh thành. Nhiều nhà tắm hơi mát xa, cà phê ôm, làng nhậu… sẽ nở rộ. Đám tư bản đỏ cùng cậu ấm cô chiêu sẽ dập dìu kéo nhau tới đó ăn chơi du hí thả dàn.
Người dân nghèo đứng hai bên đường nhìn cảnh tượng đó sẽ ngậm ngùi than lên rằng: Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu nói không sai,
“Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”
Nguyễn Thanh Ty
Thậm chí, chúng còn cho người “chui cao, luồn sâu” tận giường ngủ của ông để đêm đêm thọt cù lét cho ông nhột chơi nữa.
Nhưng khi, ông không còn cơ hội cầm cờ trong tay để phất nữa, thì chúng lại sợ và thù ông chí chết
Cả một đời làm tổng thống, ông Thiệu chỉ để lại cho hậu thế một câu danh ngôn “đáng đồng tiền bát gạo”, giá trị hơn nhiều tỉ Mỹ Kim, hơn hẳn 36 tấn vàng mà Bắc Bộ Phủ vội vàng bợ về Bắc chia chác cho nhau ngay những ngày đầu 75.
“Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”
Câu danh ngôn này, ba mươi mốt năm qua, đã làm cho Việt cộng xang bang xất bất. ( không phải cho người Việt hải ngoại tha bang thất quốc đâu)
Nó trở thành một câu “thần chú” vô cùng hiệu nghiệm để hoá giải các chiêu thức của Vi Xi đưa ra “mà mắt thiên hạ”.
Câu “thần chú” này được “nhân dân hóa” thành một “khẩu quyết” dễ nhớ, dễ thuộc để đối phó với ngón võ “Ơn Đảng, ơn Bác”.
Việt cộng bất cứ làm gì, nói gì, ban hành nghị quyết gì, người dân chỉ đọc câu “khẩu quyết” trên là mọi sự đều hóa giải thành con số không hết trọi.
Việt cộng lo sợ, điên đầu và căm thù cái “khẩu quyết” này vô cùng tận. Nhưng cũng không tìm ra chiêu thức mới nào để trừ khử tiêu diệt được nó.
Càng ngày cộng sản càng lộ chân tướng là con cáo đội lốt người, người ta mới thấy và khâm phục “tuệ nhỡn” của Tông Tông Thiệu. Nó giống y chang câu nói của tướng độc nhãn Do Thái Mosche Dayane: Muốn thắng Cộng sản thì hãy cho Cộng sản vô nhà.
Bây giờ thì cộng sản đã “lọt ổ” vô nhà rồi. Bây giờ thì cộng sản tuy tiếng rằng chiếm được đất nhưng đã thấm đòn bị thua. Từ thua tới thua trên mọi con đường: Chính trị, kinh tế, xã hội, nhân văn… nhất là nhân tâm. Người dân trong nước phản kháng chế độ hà khắc bằng cách bất hợp tác. Do sự kiêu căng, hãnh tiến và ngu dốt, họ đã kéo lùi dân tộc ngày càng trở về thời đồ đá, đồ đồng và bây giờ là đồ đểu.
Bây giờ thì Đảng ta ra sức hô hào đổi mới. “Đổi mới hay là ngỏm củ tỉ ” câu khẩu hiệu này đã được trương lên hơn hai mươi năm. Có lẽ dân miền Bắc thấy nó có đổi mới thật. Nhưng dân miền Nam thì thấy nó cũ xì. Nó đang trở lại y chang thời kỳ trước năm 1975 hay còn tệ hơn thế nữa.
Từ chiếc áo dài tha thướt được phục hồi thay cho bộ đồng phục vải Nam Định nhuộm nâu, nhuộm xám ngoài Bắc tràn vô, cho chí mấy cái “văn hóa đồi trụy” như thi tuyển hoa hậu, nhảy đầm…được Đảng ta ra sức phát huy và được long trọng gọi tên khác đi (tránh bắt chước tụi Ngụy) là “Duyên dáng Việt Nam” và “múa đôi” cho có vẻ “đậm đà bản sắc dân tộc” và “hoành tráng - ấn tượng”
Mấy bà già trầu, “má nuôi chiến sĩ” ngày xưa từng đào hầm, gánh gạo nuôi giấu “cán bộ ta” nay mất ruộng, mất nhà, ra vỉa hè nằm lăn lóc, xin ăn qua ngày, há hốc miệng ra, kêu lên:
- Chèng ơi! Sao thấy giống hồi thời Mỹ Ngụy dzậy cà? Nói cách mạng đổi mới sao không thấy tới mà cứ thấy thụt lùi hoài dzậy? Lão Thiệu nói thiệt đúng! Cách mạng mình nói dzậy mà không phải dzậy! Ơn Bác, ơn Đảng! Thiệt tình!
Nói dzậy mà không phải dzậy!
Mời độc giả xem qua cái quyết định dưới đây để coi Đảng ta “Nói dzậy mà…”
Quyết định số: 1568/QĐ-TTg, ngày 27 tháng 11 năm 2006
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Xét đề nghị của Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương,
Quyết định:
Điều 1: Đồng ý chuyển mục đích sử dụng 58 ha đất khu nghĩa địa Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương do Quân khu 7, Bộ Quốc phòng quản lý sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triễn kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương.
Điều 2: Giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương…
Chỉ đạo việc quản lý khu nghĩa địa Bình An bình thường như các nghĩa địa khác theo qui định của pháp luật.
…
Điều 4:Bộ Quốc phòng (Quân khu 7) thực hiện việc di chuyển… hoàn tất trong tháng 7 năm 2007.
Thủ tướng Nguyễn tấn Dũng (ấn ký)
(Công báo số 09-10 (7/12/ 2006)
Trước khi xem cái Quyết định này có ý nghĩa gì, xin mời quí độc giả lượt qua môt đoạn phim ngắn về “quá trình công lao” của tướng râu kẽm Nguyễn cao Kỳ cho cái thành quả này.
Phim có tính chất hư cấu.
“Phó vương Kỳ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, vễnh hàm râu kẽm, hùng dũng tuyên bố với binh sĩ: - Chúng ta quyết đánh tụi Vi Xi đến giọt máu cuối cùng”. Xế chiều, trên TV người ta thấy Phó vương bay trực thăng ra hạm đội 7 của Hoa Kỳ. Cảnh tiếp theo Phó vương xô chiếc trực thăng xuống biển để hạ quyết tâm: - Không đánh đuổi được tụi Vi Xi ra khỏi nước, quyết không về! (Giống câu thề khi đi nhậu: Không say không về!)
Nhiều năm ( bắt chước Bác) tìm đường cứu nước tại Mỹ, Phó vương Kỳ bị thất bại liên miên. Đêm đêm ông mài kiếm dưới trăng, vừa uống X.O vừa chửi trời, chửi đất và chửi đời. Đời đã đá ông bầm dập. Không giống như trong hồi ký ông tự viết về đời mình như là “một đứa con cầu tự”. Đi đánh cá thì cá trốn ráo trọi. Bán ghe lên bờ, mở tiệm rượu. Khách chưa kịp đến mua thì Phó vương sẵn buồn tình trong lòng, nên uống hết sạch. Sập tiệm. Hết vốn vay mượn, phải đến ở nhờ nhà đàn em kiếm cơm qua ngày. Gia đình ly tán. Vợ là Đặng thị với con gái bỏ đi làm MC ca nhạc để mưu sinh.
Năm 1992, Phó vương làm đơn xin về nước, bắt chước Hàn Tín áp dụng “khổ nhục kế” để mưu đại sự. Bắc Bộ phủ vừa nghi kỵ vừa hận về mối thù cũ nên sổ toẹt đơn của Phó vương, không cho về.
Trong thời gian ẩn nhẫn đợi chờ thời cơ, Phó vương chiếm được trái tim bà vợ của đàn em mà mình đang ăn nhờ ở đậu. Người đàn em bị đàn anh “vi chủ thành khách” bèn “ta buồn ta đi lang thang bởi vì đâu!.
Tháng 6 năm 2003, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Việt cộng, Trần đình Bin, sang Mỹ làm công tác kiều vận, kêu gọi “đàn bò sữa đem sữa về nhiều thêm”. Phó vương chớp thời cơ mời Bin đi đánh gôn và ăn cơm nhà hàng. Dịp này, Phó vương xin Bin giúp cho về “thăm quê hương” một chuyến. Lấy cớ là tuổi già sắp theo Bác. Bin ngẫm nghĩ hồi lâu rồi gật đầu đồng ý giúp.
Năm đó, Phó vương về, đi lông rông, không làm nên tích sự gì vì Bắc Bộ phủ còn cho “âm binh” theo dõi và điều tra hành vi nhất cử nhất động “diễn tiến hoà bình” của tên phản động nhiều nợ máu với nhân dân.
Cũng thời gian đó, ở hải ngoại không hiểu được “chí lớn” của Phó vương cứ cho là tên phản bạn lừa thầy nên chửi rủa, thóa mạ kịch liệt. Trước những phản ứng gay gắt, giận dữ của tập thể “huynh đệ chi binh” và Cộng đồng người Việt hải ngoại, Phó vương chỉ nhếch hàm râu kẽm cười khinh bỉ. Cho bọn lính tráng và đám phó thường dân ganh ăn, ghét ở, là lũ chuột nhắt hồ đồ, là chim se sẻ làm sao biết được chí lớn của chim hồng, chim hộc.
Qua năm sau, Phó vương lập được công lớn. Lần này về nước, Phó vương dẫn theo mấy tay “đế quốc tư bản” mang kè kè túi bạc đô la xanh kếch sù, tìm kiếm đất đai tốt để lập nơi du hí. Bắc Bộ phủ thấy đô la đổ ra ào ào, híp mắt sung sướng. Từ đó, Phó vương được Đảng ta tin dùng, nhưng cũng “có mức độ”. Những lời nói của Phó vương đều được “trên” xem xét, mớm trước rồi mới được phát. Hoặc lúc cao hứng, bốc đồng Phó vương có phát ngôn loạn xị thì báo chí cũng được lệnh cắt xén, ráp nối thành những “hòn đá bắn hai chim”, làm cho Phó vương ở cái thế toòng teng “đi chẳng nỡ, ở không xong”.
Dịp may đến lần thứ hai, phước vô đơn chí, họa bất trùng lai, năm 2005, nhân dịp Tể Tướng Khải sang Mỹ cầu viện đô la, phu nhân mới của Phó vương (vợ của đàn em bị chiếm) thỏ thẻ với đức lang quận: -Thiếp có họ hàng với Tể Tướng Khải, tướng công nên tìm cách cận kề thì sẽ được nhiều lợi lộc về sau.
Vợ chồng Phó vương y kế, tìm cách lân la mời Tể tướng Khải đi “in roi” mấy chỗ nhảy sexy. Kết quả rất mỹ mãn. Tể tướng Khải hứng chí ra mặt.
Nhưng ban đầu, Tể Tướng Khải vẫn có thói quen “cảnh giác”, địch lúc nào cũng tìm cách xâm nhập phá hoại ta nên có ý nghi ngờ, e mụ này ý đồ “thấy sang bắt quàng làm họ” nên bắt mụ phải kinh qua “thử máu nhận họ”. Nếu đúng, mới cho lại gần.
Hai người nhỏ máu đầu ngón tay vào ly…nước lã. Hai giọt máu dần dần hòa vào nhau và lạ thay môt ngôi sao vàng hiện lên giữa màu máu đỏ tươi.
Thế là vui quá. Tha hương ngộ cố tri. Hỏi rõ ngọn ngành, té ra hai bên là thông gia.
Từ đó, những ngày ở tại Mỹ, Phó vương Kỳ với Tể Tướng Khải bá vai nhau đi đánh gôn và nhảy đầm, uống rượu và xem vũ sexy thoải mái.
Một hôm, đang lúc vui vẻ, Khải bỗng thở dài, mặt sụ xuống, tỏ vẻ buồn bã. Kỳ ướm lời hỏi han. Khải than rằng:
- Mấy năm nay, bọn Việt kiều gởi tiền về nước nhiều quá, gần bằng 1/5 tổng số tiền cả nước làm hộc máu một năm. Với món hời như thế, bất chiến tự nhìên thành, khoẻ re như bò kéo xe, nên Đảng ta thừa thắng xông lên, muốn moi thêm càng nhiều càng tốt, bèn kêu gọi “hòa hợp hòa giải” để chiêu dụ bọn nó mang đô la về nước làm ăn. Nhưng, kêu khản cả cổ, tốn nhiều giấy in nghị quyết này quyết định nọ vẫn chẳng thấy mấy đứa về. Chỉ tại cái thằng Thiệu nó đầu độc bà con ta là “Đừng tin những gì cộng sản nói”.Ta nghĩ đến đó là lòng thấy buồn, miệng ăn không thấy ngon, rượu X.O uống không thấy đậm đà, mấy em không còn mấy hấp dẫn như trước!
Thời cơ đến, Kỳ được dịp tỏ lòng tri kỷ, hiến kế:
-Tể tướng đừng lo lắng quá mà có hại cho mình rồng. Thần nghĩ, chiêu dụ bọn nó không khó gì. Bọn nó có tính nhân của đàn bà và hay quên. Bây giờ Đảng ta chỉ cần tỏ ra chút ít nhân đạo thì bọn nó sẽ “hồ hởi phấn khởi” quên hết quá khứ đau thương ngay ráo trọi.
- Bằng cách gì? - Khải hỏi tới.
- Trước tiên, theo ý Thần thì nên trả lại Nghĩa trang Quân đội Biên Hoà cho bọn họ.
- Tại sao trả cái nghĩa địa xác chết mà bọn nó lại yên lòng được?
- Hãy bắt chước Nguyễn Trãi “lấy chí nhân mà thay cường bạo”. Bước một Ta vờ hòa giải với người chết trước. Bước hai hòa giải với người sống. Khi được rồi thì ta nắm đầu chúng chẳng khó gì. Cái sách lược 10 ngày học tập để tỏ lòng nhân đạo khoan hồng cũng còn xài tốt lắm. Khi bọn chúng lũ lượt kéo về thì ta sẽ…
- Ừ! Nghe cũng phải. Để ta xem xét cẩn thận mới được.
Đó là rượu nói. Về đến nhà Tể tướng Khải quên tuốt lời hứa. Phó vương Kỳ lại được ( bị) người Việt hải ngoại chửi bới thêm một trận te tua nữa.
Nhưng cũng nhờ bà vợ có chút máu mủ thông gia với Tể Tướng Khải nên vợ chồng Phó vương Kỳ về Việt Nam đều đều như đi chợ để làm “Cò” và “trúng quả” nhiều lắm.
Có người tò mò hỏi:
- Tụi Việt cộng nó thù Ngài lắm. Sao bây giờ cho Ngài đi đi, về về Việt Nam như con thoi vậy?
Kỳ cười bí mật, hàm râu kẽm nhúc nhích lên xuống, hạ giọng thầm thì:
- Mấy “người anh em” họ tha thiết mời tôi về đấy chứ. Tôi nào có thèm lậy lục van xin như cái bọn bố láo, bố lếu ở ngoài này vu cho tôi. Tôi có sứ mạng!
Đùng một cái, Tể Tướng Khải bị Bắc Triều cho rớt đài. Anh nông dân du kích nửa mùa ở miền Tây là Nguyễn Tấn Dũng được Hồ Cẩm Đào đưa lên thay thế. Ban đầu, Bắc bộ phủ ai nấy đều ngạc nhiên lấy làm lạ. Một người như Dũng không có tí thành tích gì trong quá khứ, lại là dân miền Nam không tin được, bỗng chốc nhảy tót lên bàn độc. Sau, bức màn thâm cung bí sử được ông cựu TBT Nguyễn văn Linh hé ra mới biết: Nguyễn tấn Dũng và Nguyễn chí Vịnh đều là “Hổ chủng” của tướng Nguyễn chí Thanh, một tướng của Bắc triều đào tạo, giống như Nông đức Mạnh là “Long chủng” của “Bác Hồ muôn vàn kính” yêu vậy.
Mọi người lúc đó mới mừng rỡ, sung sướng thở phào ra: - À ra thế!
Thời gian cứ đủng đỉnh trôi và mấy cái sân gôn “hoành tráng đầy ấn tượng” ở Sài Gòn, Phú Quốc, Hà Nội…được hình thành.
Phó vương Kỳ trúng mối lớn, ăn chia huê hồng phần trăm với “mấy người anh em” một cách rất “ấn tượng” và vui vẻ trên mức tình cảm.
Trong lúc cụng ly X.O với “mấy người anh em” vấn đề “hòa hợp hòa giải” với người chết lại được Phó vương khoèo lại với Tể tướng Dũng.
Tể tướng Dũng trẻ,đẹp trai, mặt mày sáng sủa, tuy hơi dốt một chút, nhưng không sao. Bác Mười đã từng là thợ thiến heo, Bác Anh từng là phu đồn điền cao su có học hành gì đâu? Thì đã sao? Vẫn đánh thắng được ba tên đế quốc đầu sỏ thế giới. Nước ta vẫn từng bước tiến vững chắc tới hố Chủ Nghĩa Xã Hội đó mà.
Tể tướng Dũng tửu lượng rất cao, xưa kia lúc còn là du kích, đã từng chơi hàng lít đế Gò Đen, nên uống rượu X.O như uống nước lã. Lần này vừa cụng ly với Kỳ vừa bàn chuyện “lấy nhân nghĩa mà thay cho cường bạo” rất lấy làm tâm đắc.
Sau khi cạn chừng ba chai X.O Hennessy, Tể tướng Dũng vỗ vai Phó vương Kỳ và quyết:
- Nghe người anh em nói, tui thấy được quá! Tui chơi tới bến luôn!
Nói thì nói vậy, Phó vương về nhà thao thức chờ đợi “ Cú chơi tới bến”, không ngủ được, hai con mắt cứ trỏm lơ như hai cái vỏ con nghêu úp lên vậy.
Mãi cho đến ngày 27 tháng 11 năm 2006 mới thấy cái Quyết định ở trên ban hành. Phó vương Kỳ chụp vội và đọc cái Quyết định rất kỹ. Đọc tới đọc lui năm lần, bảy lượt vẫn không tin ở mắt mình cái hàng chữ ỡm ờ trong quyết định viết rành rành:
“Điều 1: Đồng ý chuyển mục đích sử dụng 58 ha đất khu nghĩa địa Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương do Quân khu 7, Bộ Quốc phòng quản lý sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triễn kinh tế-xã hội tỉnh Bình Dương.”
Phó vương Kỳ lẩm bẩm:
- Mẹ nó! Mình lại mắc lừa nó rồi! Hôm trước mình xin nó làm một “cú” thật ngoạn mục để mình lấy điểm đặng dằn mặt với cái bọn bố láo hải ngoại rằng là:
“Đảng và Nhà nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam xin trả lại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa cho thân nhân các tử sĩ Quân lực VNCH, được trùng tu phục hồi như cũ, để tỏ thành tâm thiện chí trong việc “hòa hợp hòa giải dân tộc”.
Mà bây giờ, trong quyết định, chúng lại nói khơi khơi “chuyển sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triễn kinh tế”.
Thế là thế nào? Thế có chết mình không chứ!
Hôm sau, Phó vương Kỳ ôm theo cái bản sao Quyết định lên Phủ Tể Tướng xin gặp Dũng để dọ hỏi xem người soạn thảo có viết nhầm hay không. Chầu chực mãi cho đến trưa, bụng đói, mắt hoa, tay chân bắt đầu bắt chuồn chuồn mới được Dũng cho kêu vào.
Phó vương Kỳ chưa kịp nói lời nào, Tể tướng Khải đã chặn họng:
- Tôi đã biết ý anh muốn nói gì rồi. Đây là quyết định của Bộ Chính trị, chứ không phải cá nhân tôi. Tôi có hứa với anh thật, nhưng anh cũng rõ là Đảng và Nhà nước ta đều ở trong cơ chế làm chủ tập thể. Việc anh nêu ý kiến thì tốt đấy. Nhưng Trưng Ương xét thấy mấy cái hài cốt của lính Ngụy đánh thuê cho Mỹ nằm đấy phí đất đi. Nay Đảng quyết định dụng 58 ha đất đó làm kinh tế thì tỉnh Bình Dương nói riêng và đất nước ta nói chung sẽ giàu to. Anh cứ tính nhẩm xem thì biết: Cứ 1 mét vuông trị giá sơ sơ chừng 1 lượng vàng y bốn số chín.
58 ha = 58.000 m2 x 1 lượng vàng = ???
- Thôi anh lui ra. Khỏi ý kiến, ý cò gì nữa. Đảng đã quyết rồi. Không thể sửa.
Nói xong, sai cận vệ đuổi ra cửa.
Phó vương Kỳ tính trong bụng chắc mẫm kỳ này lập công to nhưng không dè cú đá giò lái của Tể tướng Dũng còn độc hơn cú đà đao của Quan vân Trường hay cú hồi mã thương của La Thành nên đứng chết trân. Hai hàng râu kẽm trên mép bỗng quặp xuống, trở nên cứng hơn thép, làm cho môi trên không nhúc nhích được. Từ đó Phó vương Kỳ bị chứng á khẩu. Chỉ có miệng ăn chớ không có miệng nói.
…
Trở lại cái chuyện nghĩa địa Bình An và Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa.
Thế hệ sinh sau năm 1975 có lẽ không biết cái trò lập lờ đánh lận con đen về chữ nghĩa này: Nghĩa địa và nghĩa trang.
Suốt chiều dài chống cộng giữ nước hơn hai mươi năm, mười tám ngàn lính chiến VNCH miền Nam đã hy sinh và được chôn cất tại đây. Phần đất mà những người lính anh dũng đã yên nghĩ vĩnh viễn ở đây đã được Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa long trọng đặt tên là Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa.
Sau năm bảy lăm, không những Việt cộng bắt tất cả Quân, Cán, Chính miền Nam vào các trại tù để lao động khổ sai mà chúng còn giam cầm cả người chết để trả thù. Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa cũng bị giam cầm, canh giữ suốt ba mươi hai năm bởi Quân khu 7. Tính chính xác đến ngày hôm nay là 32 năm 2 tháng.
Chúng cố tình xóa đi cái tên “Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa” và thay vào đó cái tên “nghĩa địa Bình An” để người dân lâu ngày quên đi cái di tích này.
Hành động trả thù người chết của Việt Cộng để thỏa mãn lòng hận thù không thua gì hành động của Vua Gia Long đối với nhà Tây Sơn thuở xưa.
Câu “nghĩa tử là nghĩa tận” đối với cộng sản không có nghĩa lý gì.
Tất cả các nghĩa trang công hay tư khắp miền Nam đều bị cào mồ, cuốc mả, san bằng để chiếm dụng vào việc gọi là “dân sự”.
Nghĩa trang VNCH ở Cần Thơ, ở Gò Vấp, bị san bằng ngay trong những năm đầu tiên để xây nhà cho cán binh VC ở. Nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, nghĩa trang Bắc Việt, Nghĩa trang Chí Hòa cũng bị san phẳng để làm công viên.
Hãy ngẫm lại mà xem, hài cốt lính Mỹ rãi rác khắp nơi từ núi cao cho đến chốn rừng sâu, Việt cộng cũng cố công đi tìm từng lóng xương, để trao trả cho Chính quyền Mỹ. Còn mồ mả lính Cộng Hòa, những người anh em cùng da vàng máu đỏ thì bị cào đi là nghĩa làm sao?
Ngày xưa, Việt cộng xem Mỹ là kẻ thù không đội trời chung, nay lại trải thảm đỏ mời rước vào Dinh Chủ tịch nước vào Phủ Thủ tướng. Trong khi “những khúc ruột xa ngàn dặm” lại cấm cửa. Muốn vô nhà phải xin phép. Vậy cớ làm sao?
Tất cả chỉ vì đồng đô la màu xanh chứ không thể vì cái chữ “nhân” vô nghĩa.
Miệng thì hô hào “hãy quên thù hận cũ để hòa hợp hòa giải” mà bàn tay lông lá lại thò sang tận hai hòn đảo hoang ở Mã Lai và Nam Dương đập nát hai tấm bia của người tỵ nạn.bị bỏ thây dưới lòng đại dương trên đường chạy trốn cái chế độ bạo tàn. Hành động đó đã đủ nói lên cái chủ trương “giết tuyệt, diệt tận” của VC.
Tờ Nhân Dân trong số đề ngày 29 tháng 12/2006 có đăng một tin, tựa đề: “Xây dựng, quản lý và sử dụng nghĩa trang nhân dân phải theo qui hoạch”
Nội dung cho biết là Bộ Xây Dựng đang lấy ý kiến hoàn chỉnh dự thảo “Nghị định về xây dựng, quản lý và sử dụng nghĩa trang nhân dân” trình Thủ tướng trong thời gian tới.
Nhiều người có con em, chồng con hay thân nhân, bạn bè được chôn cất trong Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa bấy lâu nay, rất đau lòng vì không được bén mảng tới nơi để thăm viếng, thắp nén hương trên mộ hằng năm như trước, nay nghe thấy cái Quyết định vừa ban hành của Thủ tướng Việt cộng Nguyễn Tấn Dũng đã vội mừng. Và họ cho rằng cộng sản đã đến lúc hồi tâm chuyển ý. Đồ tể bậy giờ đã chịu bỏ dao xuống để thành Phật.
Nhưng qua những sự thật vừa liệt kê trên, cho thấy cộng sản không từ một thủ đoạn nào để xóa bỏ tất cả “tàn tích” của chế độ cũ.
Bao nhiêu di tích lịch sử đã bị phá bỏ, bao nhiêu nghĩa trang đã bị san bằng, thì cái Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa là cái gai cuối cùng Việt cộng phải nhổ đi thôi. Đã nhổ được cái gai trước mắt, thu được một số tiền khổng lồ từ người chết, lại được tiếng “hòa hợp hòa giải” thì ngu gì mà không làm.
Đạo lý là cái gì? Lương tâm là cái gì? Chỉ là thứ xa xỉ của bọn tiểu tư sản. Người cộng sản không có và cũng không cần những thứ vô bổ đó.
Nó không giúp ích gì cho công cuộc xây dựng và tiến lên Xã hội Chủ nghĩa, tiến tới Thế giới Đại đồng.
Rồi đây, sau thời gian ấn định, tháng 7 năm 2007, tỉnh Bình Dương chắc sẽ ra thông báo cho dân chúng khẩn cấp di dời mộ ở “nghĩa địa Bình An”. Mộ nào không di dời sẽ được coi là mộ hoang, chính quyền sẽ “giúp đỡ di dời”.
58 ha đất vàng ở đây sẽ được mau lẹ chia lô bán để phát triển kinh tế - xã hội.
Chẳng mấy chốc sau đó nhiều hotel ba sao, năm sao sẽ mọc lên. Sân gôn hoành tráng sẽ khánh thành. Nhiều nhà tắm hơi mát xa, cà phê ôm, làng nhậu… sẽ nở rộ. Đám tư bản đỏ cùng cậu ấm cô chiêu sẽ dập dìu kéo nhau tới đó ăn chơi du hí thả dàn.
Người dân nghèo đứng hai bên đường nhìn cảnh tượng đó sẽ ngậm ngùi than lên rằng: Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu nói không sai,
“Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”
Nguyễn Thanh Ty
1 nhận xét:
Bài viết tuyệt quá.Save lại đọc và ngẫm dần
Đăng nhận xét