Thứ Tư, 23 tháng 9, 2009

Ðâu Là Sự Thật ? - Ðặng Xuân Khánh

(Sinh viên trẻ đang sống trong lòng quê hương VNXHCN)

Giới trẻ chúng tôi, thành phần lớn lên sau chiến tranh không hiểu biết lý do tại sao đã có cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2 (1954-1975), mà báo chí ngoại quốc thường gọi là chiến tranh Việt Nam (Vietnam War).

Chúng tôi đã được học tập dưới hệ thống nhà trường xã hội chủ nghĩa (XHCN) về lý do tại sao có cuộc chiến tranh Việt Nam qua những cụm từ như "chế độ khát máu Mỹ-Diệm", "miền Nam bị Mỹ, nguỵ kìm kẹp", "đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào", "ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ", "giải phóng miền Nam" v.v…

Nhưng ngày nay, với sự phổ biến của công nghệ thông tin, chúng tôi đã biết nhiều hơn trước. Về lý do tại sao đã có và do ai gây ra cuộc chiến Việt Nam 1954-1975, hoàn toàn không phải như chúng tôi đã được tuyên truyền trong nhà trường.

Tuy nhiên, chúng tôi cũng còn vài thắc mắc rất đơn giản. Kính mong các bác, các chú, là những người đã và đang phục vụ cho đảng và nhà nước Việt Nam và những người vẫn khư khư cho rằng chiến tranh Việt Nam là cần thiết để "giải phóng miền Nam" thoát khỏi sự "kìm kẹp của Mỹ, Ngụy" v.v giải thích giùm:

1. Sau năm 1954, sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ, Hiệp định Geneve đã được ký kết ngày 27/10/1954 chấm dứt chiến tranh Ðông Dương lần thứ nhất. Trong thời gian chủ tịch Hồ Chí Minh (HCM) lãnh đạo chính quyền miền Bắc, tại sao 1 triệu người miền Bắc đã phải lên tàu đua nhau bỏ chạy vào miền Nam để cho "Mỹ - Diệm kìm kẹp" mà không ở lại cùng nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và chủ tịch HCM? Số 1 triệu người này có thể còn nhiều lần hơn nếu nhà nước không dùng bạo lực ngăn chặn, không cho họ ra đi! Tại sao ngoại trừ một số các cán bộ đảng viên cộng sản (CS) tập kết ra Bắc, người dân miền Nam lại không đua nhau chạy ra Bắc theo chế độ CS của chủ tịch HCM, mà tuyệt đại đa số cứ nhất quyết ở lại cho "Mỹ - Diệm kìm kẹp"? Theo hiệp định Genève thì lúc đó mọi người được hoàn toàn tự do lựa chọn đi ra miền Bắc hay ở lại miền Nam cơ mà??

2. Tại sao hồi còn chiến tranh Việt Nam (trước 30/4/1975), mỗi khi có giao tranh giữa quân đội miền Nam (VNCH) và bộ đội "giải phóng" thì dân chúng đều chạy về phía có lính miền Nam trú đóng, chứ không chạy về phía bộ đội "giải phóng"? Nếu dân miền Nam bị "Mỹ, Ngụy kìm kẹp", cần phải được "giải phóng", thì lẽ ra họ phải hồ hởi mà chạy về phía các "đồng chí bộ đội", tay bắt mặt mừng và cám ơn "được giải phóng", chứ sao lại bồng bế nhau mà chạy trối chết để xa lánh các "đồng chí" ấy? Ðua nhau chạy vế phía có lính miền Nam để tiếp tục bị "kìm kẹp", không lẽ họ ngu đần đến nỗi chỉ thích bị "Mỹ, Ngụy kìm kẹp" chứ không muốn được "giải phóng" à?

3. Năm 1975, sau khi chiến tranh chấm dứt, "bộ đội giải phóng" chiếm toàn bộ miền Nam, đất nước thống nhất, Mỹ đã cút, Ngụy đã nhào. Tại sao dân miền Nam lại lũ lượt trốn chạy ra đi, bất chấp nguy hiểm, bão tố, cá mập, hải tặc mà vượt Biển Ðông; bất chấp các bãi mìn, hay bị Khơ-me Ðỏ chặt đầu; để bằng đường bộ băng qua Campuchia sang Thái Lan?

Theo ước tính của các cơ quan truyền thông, thông tin quốc tế thì hơn 1 triệu người đã đi bằng hình thức này (http://archives. cbc.ca/id- 1-69-324/ l...ty/boat_ people).

Chúng tôi đã được học tập là "Mỹ- Diệm đã ban hành đạo luật 10/59 tố Cộng, diệt Cộng, lê máy chém đi khắp miền Nam", nào là "bè lũ tay sai quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu", nào là "ghi khắc tội ác dã man của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai"… v.v…. Khi học xong, đọc hay nghe những dòng chữ như thế, thì chúng tôi nghĩ, chắc hẳn chế độ ở miền Nam dù với Diệm hay Thiệu thì cũng tàn ác kinh khủng lắm, thế nhưng tại sao lại suốt từ 1954 cho thời điểm ngày "Giải phóng" 30/4/1975 - 20 năm trời, không hề có hiện tượng người dân miền nam từ bỏ, trốn khỏi miền Nam để xuống tầu đi vượt biên? Thay vì đến khi bộ đội ta từ miền Bắc vào Nam "giải phóng", lẽ ra phải ở lại mừng vui, thì họ lại kéo nhau ra đi là thế nào? Thế thì có tréo cẳng ngỗng không? Tại sao hàng ngàn dân miền Bắc, nhất là từ Hải Phòng, đã có kinh nghiệm sống dưới sự lãnh đạo của Bác và Ðảng hơn 20 năm, cũng bỏ miền Bắc XHCN, vượt vịnh Bắc Bộ sang Hong Kong mong có cơ hội được sống với thế giới tư bản, chứ nhất định không ở lại miền Bắc XHCN "tươi đẹp"?

4. Năm 2005, sau khi hoà bình đã về trên quê hương được 30 năm, đảng CS đã lãnh đạo đất nước được 30 năm, (chính quyền Sài Gòn chỉ lãnh đạo miền nam có 20 năm thôi, 1954-1975), thì tại sao dân chúng vẫn còn lũ lượt tìm cách rủ nhau ra đi. Trai thì đi lao động cho nước ngoài, rồi tìm cách trốn ở lại, gái thì cắn răng chịu đựng tủi nhục lấy toàn đàn ông (già cả, tàn tật, hết thời, …) của Ðài Loan, Singapore, Ðại Hàn, để có cơ hội thoát khỏi Việt Nam??? Tại sao du học sinh, thành phần gọi là tương lai của đất nước vẫn luôn tìm mọi cách (ngay cả khi chưa học xong) để ở lại nước ngoài, như lập hôn thú (giả có mà thật cũng có) với người Việt hải ngoại, chứ nhất định không chịu trở về Việt nam???

5. Những năm gần nay, những người Việt trước nay đã trốn đi vượt biên, chạy theo để "bám gót đế quốc", là "rác rưởi trôi dạt về bên kia bờ đại dương", là "thành phần phản động", là "những kẻ ăn bơ thừa, sữa cặn" như nhà nước Việt Nam vẫn từng đã nói. Nay được chào đón hoan nghênh trở về Việt Nam làm ăn sinh sống và được gọi là "Việt kiều yêu nước", "khúc ruột ngàn dặm"? Có đúng họ "yêu nước" không? Tai sao họ không dám từ bỏ hoàn toàn quốc tịch Mỹ, Pháp, Canada, Úc, xé bỏ hộ chiếu nước ngoài và xin nhập lại quốc tịch Việt Nam và vĩnh viễn làm công dân nước Cộng Hoà XHCN Việt Nam???

6. Trong bộ môn lịch sử chương trình lớp 12, chúng tôi được giảng dạy rằng, "Mặt trận Giải phóng Miền Nam" thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu "đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ và chính quyền tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước". Theo như chúng tôi tìm hiểu, năm 1961 khi Ngô Ðình Diệm ký Hiệp ước quân sự với Mỹ, thì miền Nam lúc ấy chỉ có các cố vấn Mỹ và một ít quân mang tính yểm trợ (US Support Troopes) với nhiệm vụ chính là xây dựng phi trường, cầu cống, đường xá… Mỹ chỉ bắt đầu đưa lính vào miền Nam từ năm 1965, sau khi lật đổ và giết Ngô Ðình Diệm do cương quyết từ chối không cho Mỹ trực tiếp can thiệp quân sự. Quân Mỹ thực sự đổ quân vào miền Nam sau sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964. Vậy thì vào thời điểm 20/12/1960, làm gì có bóng dáng lính Mỹ nào ở Miền Nam, làm gì đã có ai xâm lược mà chống?? Các bác, các chú chống ai, chống cái gì vào năm 1960???

Ðặng Xuân Khánh

http://vietlinhweb.com/Diendan/index.php?showtopic=10160&hl=

Chủ Nhật, 20 tháng 9, 2009

Hèn? hay hùa?

"Trí thức Việt Nam không cần phải kêu ca là cảm thấy "hèn quá!" mà nên can đảm tiếp sức với tôn giáo và nhân dân một cách tích cực để tỏ thái độ với đảng CS. Đã đến lúc không thể tiếp tục "hùa" với CS để hành động phản lại nguyện vọng chung của dân.
Không cần phải thật can đảm mà chỉ cần thật tình tin tưởng vào nhau là có thể làm cho CS xuống hố."



Cả tuần nay cứ nghe ra rả các báo (báo in và điện bảo), các đài phát thanh hải ngoại lập lại các lời nói của các nhân vật thuộc lớp xướng ca "siêu sao" mà cộng đồng cũng đã từng biết tên tuổi thành tích; hoặc trích lục bàn loạn về các bài viết, hồi ký, sách mới xuất bản của các cựu đảng CS đang thoi thóp sắp mãn phần về cái tâm trạng gọi là "hèn" của họ khi phải sống dưới chế độ CS hoặc phải "làm việc" hay "cộng tác" với CS.

Người xấu thì ở đâu chẳng có; bạn xấu, đồng nghiệp xấu, láng giềng xấu, người thân trong gia đình xấu… ngay cả chính bản thân chúng ta trong đời sống hàng ngày đôi khi gặp ngày trở trời (bad day) bị ấm đầu cũng không tránh được việc cư xử "không đẹp" với người chung quanh. Nhưng sau đó, bản chất tốt ("tính bản thiện") của con người cũng lại trở về… Còn nếu không, thì mọi người cũng phải tìm cách xa lánh người xấu bởi vì những cái độc địa của "người xấu" sẽ gây thiệt hại cho những người phải tiếp xúc sinh họat với họ cả về vật chât (hao tài, tốn của, tốn thời giờ, nhức đầu, lên máu, đau bao tử, táo bón, yếu tim…) lẫn tinh thần (chán nản, tuyệt vọng, yếm thế, trầm cảm…) Những người xấu này chẳng sớm thì muộn rồi sẽ bị sống cô lập và không còn có ảnh hưởng gì đến chúng ta nữa. Cái khổ phải than thở kêu trời trách đất, muốn tìm mọi cách xa lánh, trốn thóat (vượt biên ?) cũng không được, chẳng đặng đừng muốn nói ở đây là cái đám người xấu xí đó lại là những người CS đã và đang lãnh đạo đất nước Việt Nam với một chính sách thật xấu xí tàn bạo kéo dài gần 100 năm rồi… người dân Việt đã nhận ra là họ phải chịu đựng sự khống chế của CS từ thế hệ cha đến thế hệ con cháu qua sự việc CS dùng vấn đề nhu cầu thấp nhất và cần thiết của đời sống là cơm áo và an ninh như cặp còng số 8 để giữ họ sống mà cũng như đã chết trong cái chuồng khỉ XHCN; không làm sao thóat ra được!

Tuy vậy, CSVN gian ác đã thấy sự tan rã tất nhiên hàng loạt của các nước xã hội chủ nghĩa anh em (Liên xô, Đông âu…) nên cũng e ngại đến lúc dân Việt đói quá thì có thể thiên đường XHCN sẽ loạn, sẽ sụp đổ; và hơn thế nữa là người dân Việt nhớ dai và cũng thù dai lắm chứ không dễ dãi mát tính như mấy đồng chí nhân dân của CS Đông âu (!) Cho nên CS mới có các chính sách "mở cửa," "đổi mới," "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (!)"…" để nhằm xoa dịu bớt cơn đói và rét của dân. Dân Việt thấy cửa hé mở, bắt đầu "tự lo," tìm kiếm sống bằng mọi phương cách. Sau một thời gian gọi là "đổi mới" dân đen lại nhận ra là chế độ "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" chỉ khác chế độ "bao cấp" một điểm rõ rệt nhất là: "các nhân vật lãnh đạo và đảng viên cán bộ cao cấp CS chẳng phải đổ mồ hôi mà họ giầu có nhanh một cách chóng mặt…" Ngoại trừ một số nhỏ nhân dân đen biết cách bám ống đu đủ hoặc đu dây theo quyền lực cai trị độc đoán và cực kỳ thô bạo của CS qua luật rừng, hối lộ, tiền cò, quà cáp thì ăn nên làm ra, còn đại đa số dân đen vẫn khổ hơn… chó! Đám thiểu số theo đóm ăn tàn ăn nên làm ra quên (lại quên!) không để ý đến cái tâm địa thâm độc của CS trong cái đuôi "định hướng xã hội chủ nghĩa:" có nghĩa là CS đến một lúc nào đó sẽ lại sẵn sàng trắng trợn thu lấy lại tất cả các của cải mồ hôi nước mắt của họ đã gây dựng ra trong giai đọan "đổi mới." (Một số lớn Việt kiều yêu nước đã trắng mắt về việc đem hết của về Việt Nam làm ăn với CS rồi phải bỏ của chạy lấy thân!) Sờ sờ trước mặt, chúng ta còn nhớ CS và chỉ có XHCN mới có cái màn cướp ban ngày quái gở gọi là "đánh tư sản mai bản???" – CS có vẻ ưa chuộng và rất thích hợp với 2 động từ: "Đánh" (đánh Mỹ cứu nước, đánh tư sản…) và "Cướp" (cướp chính quyền, cướp đất…)

Cộng đồng tị nạn sống ở hải ngoại xa cách quận Ba đình cả chục ngàn cây số, có cái may mắn được chính phủ dân chủ nơi tạm dung bảo vệ mọi quyền công dân, mà không (chưa) thấy có hành động sáng suốt can đảm, hay đưa ra một sáng kiến cụ thể khả dĩ để làm cho CS phải trả lại cho dân cái "tiền dân mênh mông" và những nhân quyền căn bản; đưa đám khỉ CS trở về lại rừng nơi mà khỉ đã đi ra... mà chỉ biết cách ngồi chửi ngày chửi đêm; hết chửi đổng rồi quay ra chửi lẫn nhau hết ngày (thấy lửa cháy mà đứng ngòai la thì bố ai không la được!) Làm sao mà trách người dân đang sống dưới một chế độ đang dùng một thứ luật pháp (?) quái gở trên quả đất là (CS) muốn bắt ai thì bắt lúc nào cũng được; (CS) muốn ghép tội người mà họ (CS) không thích với tội gì cũng được!

Nhiều người dân bi quan đến độ phải kết luận là:

"HCM (và CSVN) từ cách mạng tháng 8 /1945, đã dần dần đưa dân tộc vào con đường hết thuốc chữa!"

Hoặc:

"Bây giờ mà có phục hưng lại thì cũng chẳng còn gì để xây dựng…"

Đại đa số tiến sĩ, giáo sư mà CS đào tạo ở trong nước chỉ có một cách hót theo bài vở đã biên sẵn của CS chứ không có một khả năng xây dựng hay sáng tạo gì (họ biết là phải đi bên lề bên phải thì mới yên tâhn và có ăn!) Nếu mai đây may ra Việt Nam chưa mất vào tay tầu phù, thì sau khi diệt sạch đảng CS cũng phải cần khỏang 60 năm nữa (Có vẻ hơi bi quan?! Hay tự ti vì cho là Đông âu dân trí của họ khá hơn mình mà họ đã cần đến 20 năm!) những cảm tình viên của CS mới chết hết, con bịnh Việt Nam mới mong chữa lành bịnh. Xin phép nêu lên vài con số như thế để thấy tai họa CS đã bao trùm nặng và dầy trên đất nước đến mức độ nào (mà chưa thấy ai sáng mắt ra?…) Việt Nam cần phải có một thiên tài chính trị can đảm đứng lên dẫn dắt dân đen (Xin lậy giời cao đất dầy đừng cho chúng con một HCM thứ 2!!!). Hay phải có một phép lạ mới chóng hóa giải được cái trù dập khốn khổ mà HCM đã đưa dẫn tổ quốc và dân tộc Việt Nam vào. Các nước láng giềng như Hồng kông, Đài loan, Nam hàn, Thái lan, Tân gia ba sở dĩ họ từ từ khá lên sau đệ nhị thế chiến vì lãnh đạo của họ không phải là lọai như HCM... Vậy mà vẫn còn có nhiều con vẹt ngây thơ cứ ca bài "Việt Nam - HCM" làm cái quỉ gì không biết? Không có HCM, đất nước Việt Nam có lẽ không đến nỗi ra nông nỗi thối như hũ tương tầu ngày hôm nay… Vẻ vang ở chỗ nào? Vinh quang chỗ nào? Đảng CS đã làm dân Việt hoang tưởng đến độ là họ đang sống đời lạc hậu nô lệ mà không biết mình là yếu kém nô lệ; cứ tưởng mình là anh hùng kiệt suất liệt sĩ cả… Trí thức Việt Nam hiểu biết một chút, có tư cách một chút không tài nào ngóc đầu lên nổi để tạo được một phong trào có sức mạnh có thể giúp dân chúng nói lên cái nguyện vọng thèm khát dân chủ tự do của dân… Trí thức XHCN đã có đủ kiên nhẫn xếp hàng lãnh tem phiếu; quý 1 ký thịt, 1 ký gạo như là vàng, như hàng hiếm; hoặc hoan hỉ nhận huân chương bằng khen của bác và đảng nhưng lại nhẫn tâm để mặc kệ dân đen lẻ tẻ dăm ba người, thiếu tổ chức đứng trước cơ quan chính quyền CS kêu oan; để cho công an, cảnh sát đánh dùi cui vỡ đầu vỡ trán giải tán; dăm ba ngày sau lại đâu vào đó như không có chuyện gì xẩy ra…

Người dân Việt trong nước có đáng bị gọi là "hèn" hay không? Xin hãy thận trọng nghĩ lại câu nói quen thuộc "hãy nhìn kỹ những gì CS làm" trước khi trả lời câu hỏi này. Đại đa số nhân dân đen đã bị cả đảng lẫn và bác thay phiên nhau "nhân danh nhân dân…" lợi dụng cái "văn hóa nhân dân…" vắt chanh "quân đội nhân dân" thành lập các "Ủy ban bóp cổ nhân dân..." cho dân đi tù không thấy ngày về gặp lại cha mẹ vợ con qua cái gọi là "tòa án bịt mồm nhân dân…" Cứ mở miệng nói từ chuyện to đến chuyện nhỏ là có chữ "nhân dân…" (nhưng ngân hàng thì lại phải là "ngân hàng nhà nước" đấy; cho nhân dân vào ngân hàng là hỏng việc đảng ngay?) để hà hiếp (dâm) nhân dân nhiều lần ngay giữa ban ngày giữa chợ đông người. Nhân dân đen không có ai bênh vực cho cảnh thấp cổ bé họng của mình thì phải "sợ" (không phải là "hèn") là chuyện dễ hiểu... Phần các ông trí thức có nhiều tuổi đảng, có nhiều huân chương "nhân dân này, nhân dân nọ… (nhà giáo nhân dân, hiệp sĩ công nghiệp, nghệ sĩ nhân dân…) có nhiều thành tích trói tay hay bịt mồm dân đen cho đảng "làm việc" mà bây giờ lại tự thú là "hèn!" "Hèn" là thế nào? Cứ căn cứ theo hòan cảnh sử xự của các ông trí thức loại này ở Việt Nam hiện nay thì theo tự điển tiếng Việt, trái (nghĩa) với "can đảm" (brave) không phải là "hèn" (coward) mà là "hùa" (conformed) chứ chưa phải là "nhát" (scared. afraid). Cả cuộc đời họ đã "hùa" theo CS phá hoại đất nước đến tận cùng, bây giờ vài anh cựu đảng viên CS (phần lớn đã bị thất sủng vì một vài lý do riêng nào đó!) ở cuối cuộc đời mới than thở, thốt lời tự thú qua vài cái "Hồi ký của một thằng hèn (hay thằng "hùa"?), "Tôi đã hết hèn (hay ’Tôi đã quá ngu đần?’)"… coi bộ không được ăn khách cho lắm!!!

Phải thẳng thắn công nhận là những người dân Việt có cái may mắn sống ở hải ngoại, nơi có môi trường thuận tiện hơn, nơi có nhiều tự do hơn để phát triển về giáo dục, tri thức, kinh tế và thông tin; phải có trách nhiệm đứng ra gánh vách công cuộc "diệt sạch (eradicate) cộng sản" để phục hưng đất nước chứ không thể trông cậy ở mấy ông trí thức tiến sĩ, giáo sư ở trong nước. Hiện nay Việt Nam có nhiều tiến sĩ thật; nhưng đại đa số các bác này được đào tạo từ một hệ thống giáo dục hạng bét trên thế giới thì khả năng của họ cũng thảm hại lắm!!! Đặc biệt nhóm "trí thức yêu nước" (còn gọi là chuẩn liệt sĩ) này rất nhậy cảm. Hơi động vào một tí là mấy bác ấy đã nhẩy cỡn la toáng lên và phang vùn vụt lại ngay là "cái lũ đó (người Việt sống tị nạn ở hải ngoại) đã chạy theo liếm giầy, ăn bơ thừa sữa cặn… của đế quốc." Óai oăm thật đấy... Các bác đã nhậy cảm nóng tính mà lại hay dung cái văn hóa "ếch ngồi đáy giếng" chán ghê! Nói cho được việc đấy chứ! Cứ cho là các bác có giầu tưởng tượng nhưng cũng phải thành thật nhìn thấy dân Việt không kể gì sinh mạng cá nhân và gia đình bỏ chạy thoát ra khỏi chế độ CS sống đời tị nạn ở ngoại quốc không phải vì miếng "bơ thừa sữa cặn" hay thèm món "liếm giầy đế quốc" đâu các bác ạ!" Các bác cũng biết thừa là ở ngòai nước Việt Nam không một chỗ nào có "bơ thừa sữa cặn" cả. Tất cả thực phẩm thứ nhất phải đúng tiêu chuẩn mới đem ra bán đuợc; thứ nhì phải có tiền mới mua được. Các bác nếu còn không tin thì cứ kiểm lại với con cháu của các bác đang gởi ra ngoại quốc học (du sinh) trên đồng tiền của nhân dân… Dân tị nạn CS kém nhất phải đi cắt cỏ thì cũng sống với đầy đủ quyền công dân được luật pháp bảo vệ ngày cũng như đêm (đó là chưa muốn nói các bác cắt cỏ lúc buồn buồn uống vào vài chai bia mà có muốn chửi tổng thống Mỹ, thống đốc tiểu bang, dân biểu quốc hội, cảnh sát… lúc nào cũng được chẳng ai dám động lến cái lông chân), vợ con các bác cắt cỏ mỗi người lái 1 ô tô riêng, gia đình các bác làm chủ 1-2 căn nhà, cơm no áo ấm quần áo mặc suốt ngày, con cái đi học đại học cả chứ không đến khổ như phải chạy xe ôm bữa đói bữa no đâu!…

Các bác tị nạn CS ở hải ngoại quan tâm về vận mạng của đất nước cho rằng con đường duy nhất phục hưng đất nước, đem lại thịnh vượng cho dân tộc là phải hoàn toàn lật đổ chế độ CS; lập một chính phủ đa đảng với các cơ chế dân chủ có quyền hạn và khả năng tự kiểm soát lẫn nhau ("check and balance"); và con đường diệt cộng này không đi đến đâu nếu không có sự tham gia của người dân trong nước… Nhưng đến nay, chỉ thấy có thất vọng. Thất vọng vì thấy là người dân Việt sống dưới XHCN bây giờ yếu đuối đến mức độ ngoài sức tưởng tượng: Cứ im lặng chịu đựng mọi sự bất công, kìm kẹp, cấm đoán, bắt bớ, kiểm duyệt của CS ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác; mà không tài nào có cách nổi dậy phản kháng, đòi hỏi nhân quyền… Chỉ vì đại đa số dân đen mỗi ngày phải quá bận tâm đến miếng ăn và sự an tòan của bản thân và gia đình. Chỉ vì hôm nay, có trên 50% dân số Việt Nam sinh sau ngày 30/4/1975. Ngay từ lớp 1 (nếu may mắn được đi học!) họ đã được CS dậy cho quên đi quyền công dân của mình; ngay từ lớp 1 (không đi lớp học cũng không sao!) họ đã được "học tập và sống theo gương đạo đức của HCM (?)" và phải học cách sống cho quen với cái bụng đói của mình (qua loa phát thanh của phường). Thực tế đã cho thấy dân trong hoàn cảnh tâm trí bị dồn ép đầy ắp các giáo điều tại hại của CS quốc tế mà thể xác lại suy dinh dưỡng, nhu nhược. Dân đã quá đói rách mà lại thiếu hoặc không có cơ hội đòan kết nào thì có muốn phản đối CS cũng không được; Chỉ rên rỉ than vãn, cầu trời may ra… Tất cà vấn đề khó nói khó làm này tựu trung ở yếu tố quyền lực: Đảng CS là đảng chính trị hơp pháp duy nhất nắm hết mọi quyền hành một cách tập trung; Đảng vừa là quốc hội lập pháp, vừa là chính phủ hành pháp trung ương và các ủy ban nhân dân (?) thành phố, phường, tỉnh, huyện; vừa là tư pháp với hệ thống "tòa án nhân dân" do đảng viên "xử lý"… đồng thời đảng chỉ huy cả quân đội, công an mật vụ cảnh sát; giữ quyền ban phát ân huệ kinh tế; sai khiến tôn giáo; kiểm sóat thông tin báo chí văn nghệ, tổ chức lễ hội, mít tinh… Đảng đã to mà lại nhiều tay nhiều tài đến thế… Thử hỏi là người dân có cái quyền và lực gì? Dựa vào chỗ nào? để có thể nói lên nguyện vọng của mình.

Ai cũng thấy lý tưởng cộng sản hôm nay chỉ còn viết trên nghị quyết, công hàm, diễn văn, khẩu hiệu băng rôn, pa nô và in khắc trên các cặp còng số 8 thôi chứ cứ nhìn cấp lãnh đạo CS (và con cháu họ) thì thấy các hình ảnh hoàn toàn trái ngược hẳn với giáo điều, cương lĩnh của chủ nghĩa vô sản mà họ cổ võ. Họ giầu vì tha hồ vơ vét cưỡng đoạt tài sản mồ hôi nước mắt của dân chúng, lũng đọan tài nguyên của quốc gia đồng thời công khai bày tỏ lòng thờ kính Phật Chúa, tin phong thủy tử vi… mới là nghịch lý… Lần về thăm Việt Nam, gặp lại một số bạn cũ, họ hàng là đảng viên CS; khi thử nhắc đến vấn đề "học tập tốt, lao động tốt" thì anh nào cũng cười một cách nhạo báng… lý tưởng CS và đạo đức HCM chỉ là vải thưa còn che mắt được ai?

Nhiều người dân luận ra là: "Nếu mình không đủ sức chống lại nó; thì phải chấp nhận chung sống với nó thôi!" (If you can not force it; then fit it!) Chẳng những chấp nhận chung sống mà còn phải miễn cưỡng nuôi sống nó dài dài!!! Con đường duy nhất để sống, để sinh tồn là làm mọi cách gia nhập đảng CS... bởi vì sau này nếu muốn xin xỏ cái gì thì là đảng viên cũng dễ dãi hơn… thế thì tội gì không gia nhập??? Vì vậy vấn đề "Việt nam là con bệnh hết thuốc chữa" là ở đây.

Tôn giáo lớn với tổ chức có sẵn như giáo phận, nhà thờ; giáo hội, chùa, tổ đình… sẽ là nơi lý tưởng tập hợp được sự phản kháng của dân. Tôn giáo dường như sẽ là 1 giải pháp tốt nhất mà dân có thể nương tựa vào để từ đó xây dựng sức mạnh đối lập; để dần dần tiến đến 1 phong trào "tòan dân nổi dậy" lật đổ chế độ CS. Lịch sử Việt Nam cận đại cho thấy chính phủ Ngô Đình Diệm tương đối khá mạnh mà chỉ đụng vào Phật gíáo thôi đã bị chấm dứt một cách bi thảm… Trong khi CS hiện nay phải đương đầu với sự phản kháng khá rộng rãi của cả 4 tôn giáo lớn ở Việt Nam cùng 1 lúc: Phật giáo, Công giáo, Tin lành và Hòa hảo; thì hệ quả bi thảm sắp dành cho lãnh đạo CS chắc chắn sẽ gấp 4 lần bi thảm mà chính phủ Ngô Đình Diệm đã lãnh đủ… CS gian ác đánh hơi được mối nguy nếu phải đối đầu với sự tập hợp và chống đối của tôn giáo, CS đang nỗ lực một mặt ra lệnh bắt bớ giam cầm, bịt mồm, loan tin thất thiệt lăng mạ uy tín các lãnh đạo tôn gíáo, một mặt ngày đêm gài người (dùng một số cán bộ công an CS làm sư và linh mục quốc doanh) để cố tình lũng đọan các tổ chức tôn giáo; ngăn chặn bằng mọi giá sự nổi dậy của dân qua ngõ tôn giáo…

Ngoài ra 1 khủng hỏang kinh tế (chẳng hạn như một suy thóai kinh tế trầm trọng) hay khủng hỏang quân sự (chẳng hạn như chiến tranh tòan diện với TQ) thật lớn xẩy đến cho Việt Nam lúc này cũng sẽ kéo theo sự sụp đổ của chế độ CS bở vì CS không hề được lòng của dân… Nhưng sự khủng hỏang này khó có thể tiên đóan là sẽ xẩy ra khi nào? Chờ đến khi nào? CS đang ở thế phải phục tùng thiên triều TQ, thỏa mãn tất cả các đòi hỏi của TC để trước hết tránh chiến tranh trực tiếp với TC; một khác dùng TQ như là lá chắn kinh tế trong trường hợp kinh tế Việt Nam xụp đổ. Vì vậy không lạ gì khi thấy lãnh đạo CSVN hòan tòan bịt tai che mắt trước sự kêu gọi của toàn dân trong nước về việc để TQ khai thác "bauxite" và lãnh thầu các công trình xây cất, kiến thiết ở Việt Nam hiện nay.

Trí thức Việt Nam không cần phải kêu ca là cảm thấy "hèn quá!" mà nên can đảm tiếp sức với tôn giáo và nhân dân một cách tích cực để tỏ thái độ với đảng CS. Đã đến lúc không thể tiếp tục "hùa" với CS để hành động phản lại nguyện vọng chung của dân.

Không cần phải thật can đảm mà chỉ cần thật tình tin tưởng vào nhau là có thể làm cho CS xuống hố.

Trần Văn Giang
___
MGP

Thứ Bảy, 19 tháng 9, 2009

Đế Quốc Phương Bắc Thôn Tính Biển Đông.


Việt Nam Đầu Hàng Đại Hán?

Luật Sư Nguyễn Hữu Thống

Ngày 7-5 vừa qua Chính Phủ Hà Nội đã đệ trình đơn đăng ký từng phần (partial submission) để yêu cầu Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc cho Việt Nam mở rộng thềm lục địa pháp lý 200 hải lý (370km) thành thềm lục địa mở rộng hay thềm lục địa địa chất tới mức 350 hải lý (650 km) chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982. Đơn đăng ký đã được đệ nạp trong thời hạn luật định và sẽ được Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc đăng đường vào khóa họp tại Nữu Ước từ trung tuần tháng 8 đến trung tuần tháng 9 tới đây. Sau khi cứu xét hồ sơ căn cứ vào những tiêu chuẩn đặc thù ghi trong Bản Cương Lĩnh về Khoa Học Kỹ Thuật ngày 13-5-1999, Ủy Ban Phân Định Thềm Lục Địa sẽ công bố những khuyến cáo có hiệu lực chấp hành chung quyết buộc các quốc gia đăng ký phải tôn trọng và thi hành.

Về mặt pháp lý, chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, tại Biển Đông Nam Á hay Biển Đông, các quốc gia duyên hải như Trung Quốc, Việt Nam, Nam Dương, Mã Lai, Brunei, Phi Luật Tân được hưởng quy chế thềm lục địa pháp lý rộng 200 hải lý từ biển lãnh thổ ra khơi. Chiếu Điều 77 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển thềm lục địa 200 hải lý thuộc chủ quyền tuyệt đối và đặc quyền chuyên hữu của quốc gia duyên hải trong việc thăm dò và khai thác dầu khí. Mọi sự xâm chiếm dầu có võ trang hay không của ngoại bang đều vô giá trị và vô hiệu lực. Chủ quyền tuyệt đối của Việt Nam tại các thềm lục địa Hoàng Sa và Trường Sa không tùy thuộc vào điều kiện phải có sự chiếm cứ (occupation), thăm dò (exploration), khai thác (exploitation) hay công bố minh thị (express proclamation). Do đó dầu không còn chiếm cứ 13 đảo tại Hoàng Sa từ 1974, và một số đảo, cồn , đá, bãi tại Trường Sa từ 1988, Việt Nam vẫn không mất chủ quyền lãnh thổ tại các hải đảo này.

Tại quần đảo Hoàng Sa về phía đông bắc có 7 đảo thuộc Nhóm An Vĩnh (Amphitrite) là các đảo Phú Lâm, Lincoln, đảo Cây, đảo Hòn Đá, đảo Bắc, đảo Trung và đảo Nam. Về phía tây nam có 6 đảo thuộc Nhóm Lưỡi Liềm (Cresscent, tiếng Pháp là Croissant) là các đảo Hoàng Sa, Quang Hòa, Duy Mộng, Quang Ảnh, Hữu Nhật và Trí Tôn. Các hải đảo này nằm trên thềm lục địa Việt Nam tại các Vỹ Tuyến 17-16-15 cách bờ biển Việt Nam khoảng 160 hải lý. Riêng đảo Trí Tôn phía cực nam tọa lạc tại Vỹ Tuyến 15.47 Bắc cách Quảng Ngãi 135 hải lý.

Theo Tòa Án Quốc Tế The Hague muốn thủ đắc chủ quyền các đảo vô chủ, phải có sự chiếm cứ hòa bình trong một thời gian liên tục và trường kỳ.

Tháng 1-1974 thừa dịp quân lực Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam, Trung Quốc đã dùng võ trang xâm chiếm 6 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm Lưỡi Liềm. Trước đó, vào cuối năm 1946, thừa dịp Hải Quân Pháp rút khỏi Biển Đông, Trung Quốc đã xâm chiếm bất hợp pháp 7 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm An Vĩnh. Sự chiếm cứ võ trang này đi trái với án lệ cố định của Tòa Án Quốc Tế The Hague cũng như trái với Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.

Hơn nữa từ thế kỷ 16 dưới đời Nhà Nguyễn Xứ Đàng Trong, kế đến đời Nhà Nguyễn Tây Sơn và Quốc Gia Việt Nam thống nhất đời Nhà Nguyễn Gia Long, Việt Nam đã chiếm cứ ôn hòa, trường kỳ và liên tục các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời minh thị công bố chủ quyền và hành sử chủ quyền tại các quần đảo này. Như vậy các hải đảo của Việt Nam tại Biển Đông không phải là đất vô chủ (terra nullius) vì thuộc chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam liên tục ít nhất từ 5 thế kỷ nay.

Năm 1949, do Hiệp Định Elysee, Pháp trao trả chủ quyền độc lập và thống nhất cho Quốc Gia Việt Nam với sự toàn vẹn lãnh thổ từ Nam Quan đến Cà Mâu. Lãnh thổ có nghĩa là đất liền, hải phận và không phận. Như vậy không có sự chối cãi rằng Quốc Gia Việt Nam đã thủ đắc chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Sự xâm chiếm Biển Đông bằng võ trang của Quân Đội Trung Quốc trong những năm 1946, 1974 và 1988 không được Tòa Án và Luật Pháp nhìn nhận. cũng như sự xâm chiếm võ trang các hải đảo tại Biển Đông của Quân Đội Nhật Bản thời Thế Chiến II.

Năm 1951, 51 quốc gia đồng minh tham dự Hội Nghị San Francisco để ký Hiệp Ước Hòa Bình và Tái Thiết Nhật Bản. Tại Hội Nghị Nhật Bản tuyên bố khước từ chủ quyền tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhưng không nói để trả cho nước nào. Trong Dự Án Hiệp Ước Hòa Bình San Francisco 1951, các quốc gia đồng minh tham dự Hội Nghị chỉ quyết định trao trả cho Trung Quốc đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ tại Thái Bình Dương. Trong một phiên họp khoáng đại Ngoại Trưởng Liên Sô đệ nạp bản Tu Chính Án yêu cầu Hội Nghi trao cho Trung Quốc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên tu chính án của Liên Sô đã bị Đại Hội bác bỏ với 46 phiếu chống và 3 phiếu thuận. Sau đó trưởng phái đoàn Quốc Gia Việt Nam là Thủ Tướng Trần Văn Hữu đã lên diễn đàn công bố chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp sự phản kháng nào, kể cả của Liên Sô (lúc này là quốc gia đồng minh với Anh, Mỹ, Pháp và Trung Hoa từ thời Thế Chiến II).

Năm 1954, 7 quốc gia tham dự Hội Nghị Geneva về Việt Nam trong đó có ngũ cường Anh, Mỹ, Pháp, Liên Sô và Trung Quốc cùng 2 nước Việt Nam là Quốc Gia Việt Nam (Miền Nam) và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc). Anh Quốc và Liên Sô là đồng chủ tịch Hội Nghị. Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 một lần nữa đã minh thị xác nhận chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của Quốc Gia Việt Nam từ Vỹ Tuyến 17 vào Nam (Quảng Trị-Cà Mâu).

Điều 4 Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 quy định như sau:

Giới tuyến giữa Miền Nam và Miền Bắc kéo dài ra ngoài hải phận theo một đường thẳng góc với đường ven biển. Quân đội Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải rút khỏi tất cả các hải đảo về phía Nam giới tuyến (Vỹ Tuyến 17) để trao trả chủ quyền các hải đảo này (tại Hoàng Sa và Trường Sa) cho Quốc Gia Việt Nam (năm 1954) và Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1955. Các hải đảo này tọa lạc từ Vỹ Tuyến 17 (Quảng Trị) đến Vỹ Tuyến 7 (phía Đông Nam Cà Mâu)

Năm 1954 Pháp và Trung Quốc đã chủ xướng triệu tập Hội Nghị Geneva về Việt Nam với Liên Sô và Trung Quốc là đồng chủ tịch Hội Nghị. Như vậy về mặt quốc tế công pháp Trung Quốc có nghĩa vụ phải tôn trọng và thi hành những điều khoản của Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954, đặc biệt là Điều 4 xác nhận chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

VỀ ĐƠN THỈNH NGUYỆN CỦA VIỆT NAM YÊU CẦU MỞ RỘNG THỀM LỤC ĐỊA

Ngày 7-5-2009 Chính Phủ Việt Nam đệ trình Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc bản báo cáo có kèm theo Họa Đồ (Figure) và Bản Tọa Độ (Table) với 45 điểm ranh mốc xác định giới tuyến thềm lục địa mở rộng (extended continental shelf). Như đã trình bày đơn thỉnh nguyện (submission) của Việt Nam sẽ được Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa đăng đường vào khóa họp tại Nữu Ước từ trung tuần tháng 8 đến trung tuần tháng 9 tới đây.

Phản ứng tiên khởi của Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền là ngỡ ngàng và xót xa.

Vì hai lý do:

1. Theo Họa Đồ số 1 (Figure 1 Outer limits of the Vietnam’s extended continental shelf: North Area (VNM-N) do Chính Phủ Hà Nội xuất trình, điểm khởi hành của ranh giới Thềm Lục Địa Mở Rộng (Vietnam 350M), về hải phận phía Bắc đối diện với Trung Quốc chỉ khởi sự từ ranh mốc số 1 tọa lạc tại Vỹ Tuyến 15.06 Bắc (ngang tầm với Quảng Ngãi) và Kinh Tuyến 115.14 Đông.

Điểm 45 kết thúc giới tuyến Thềm Lục Địa Mở Rộng tọa lạc tại Vỹ Tuyến 10.75 Bắc (ngang tầm với Phan Thiết) và Kinh Tuyến 112.62 Đông.

Như vậy Chính Phủ Việt Nam đã chính thức xác nhận với Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc rằng Thềm Lục Địa Mở Rộng của Việt Nam tại hải phận phía Bắc chỉ chạy từ Vỹ Tuyến 15.06 Bắc xuống Vỹ Tuyến 10.75 Bắc (từ Quảng Ngãi xuống Phan Thiết).

Trong trường hợp này Chính Phủ Hà Nội đã mặc nhiên khước từ chủ quyền lãnh hải của Việt Nam từ Vỹ Tuyến 15.06 Bắc (Quảng Ngãi) lên Vỹ Tuyến 17 (Quảng Trị). Nghĩa là Việt Nam đã cống hiến cho Trung Quốc một hải phận gồm 3 Vỹ Tuyến 15- 16-17 trong đó tọa lạc 13 đảo Hoàng Sa. Về mặt vị trí, đảo Trí Tôn tại cực nam (với tọa độ 15.47 Bắc) cũng nằm về phía Bắc tọa độ 15.06 Bắc mà Chính Phủ Hà Nội chọn làm điểm ranh mốc cao nhất về phía Bắc của Thềm Lục Địa Mở Rộng Việt Nam. Kết quả là từ nay Trung Quốc có tư thế để đòi chủ quyền lãnh hải từ bờ biển Quảng Đông tại Vỹ Tuyến 22 xuống tới vùng biển Quảng Ngãi tại Vỹ Tuyến 15 nghĩa là toàn thể Quần Đảo Hoàng Sa.

2. Cũng theo Họa Đồ (Figure 1 nói trên), giới tuyến Thềm Lục Địa Pháp Lý 200 hải lý (Vietnam 200M) theo hướng Bắc-Nam, chạy song hành với bờ biển Việt Nam, từ Vỹ Tuyến 16 (Đà Nẵng) xuống Vỹ Tuyến 7 (Bãi Tứ Chính: Vanguard) dọc theo Kinh Tuyến 112 Đông.

Địa hình này xác nhận rằng Thềm Lục Địa Việt Nam chỉ khởi sự từ Vỹ Tuyến 16 (Đà Nẵng) xuống Vỹ Tuyến 7 phía đông nam Cà Mâu. Do đó nó mặc nhiên nhìn nhận rằng ngoại trừ đảo Tri Tôn tại Vỹ Tuyến 15.47 Bắc, vùng hải phận từ Vỹ Tuyến 16 trở về Bắc, trong đó tọa lạc 12 đảo Hoàng Sa, không thuộc chủ quyền lãnh hải của Việt Nam.

Theo hiểu biết thông thường, nếu không có Thềm Lục Địa thì không có lục địa. Nếu không có lục địa thì không có hải phận. Mà nếu không có hải phận thì cũng không có các hải đảo tọa lạc trong đó.

Trong cả hai trường hợp do Chính Phủ Hà Nội viện dẫn về Thềm Lục Địa Mở Rộng và Thềm Lục Địa Pháp Lý, Việt Nam đã khước từ chủ quyền ít nhất 12 hải đảo thuộc Quần Đảo Hoàng Sa tọa lạc tại các Vỹ Tuyến 17 và 16 Bắc từ Quảng Trị xuống Quảng Nam. (Đảo Hoàng Sa có vỹ độ 16.32 Bắc; đảo Phú Lâm có vỹ độ 16.50 Bắc).

Đây là một Thảm Họa cho Việt Nam.

Và là một Đại Thắng của Đế Quốc Đại Hán.

Tất cả những phản ứng đạo diễn của Bắc Kinh và Hà Nội nằm trong chiến thuật hỏa mù để đánh lạc dư luận quần chúng và đánh lừa dân tộc Việt Nam. Vì như ai cũng biết cho đến nay, Bắc Kinh vẫn nằng nặc đòi chủ quyền hơn 80% hải phận Biển Đông Nam Á mà họ gọi là Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc.

Chúng tôi kêu gọi các bậc thức giả tham gia ý kiến về vấn đề này.

Thay Mặt Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống
(13-5-2009)

http://nguyenhuuthong.blogspot.com

Kiếp Trâu, Kiếp Người - Vĩnh Liêm

(Qúi tặng các anh chị em lao công VN ở khắp thế giới)

Tôi là kiếp con trâu từ muôn thuở,
Mở mắt ra, người ta gọi là trâu.
Phận làm trâu, tôi chẳng biết buồn rầu,
Vì trâu chỉ biết nhai, không biết khóc.

Trâu làm việc toàn những điều nặng nhọc,
Vì sức người đâu sánh lại bằng trâu.
Nhưng con người họ biết cách làm giàu,
Còn trâu chỉ là trâu cày ngoan ngoãn!

Ðấy, số kiếp trâu đúng là kiếp nạn,
Nên trâu nào cũng vẫn chỉ trâu thôi!
Ðược miếng ăn là hạnh phúc lắm rồi!
Ðòi gì nữa? Vì kiếp trâu là thế!

Trâu đã khổ, mà có người còn tệ,
Nguyện thay trâu làm những việc như trâu!
Thảm thương thay! Sao có chuyện lộn đầu,
Người thành vật, vật thành người như thế?!

Vì quốc nạn, chứ chẳng do kinh tế,
Nên con người phải vất vả như trâu.
Dân thiếu ăn, còn cán bộ quá giàu!
Vì bụng đói, dân phải làm nô lệ.

Việc xuất cảng lao nô nhiều vô kể!
Tiền thu vào chia chác với quan trên.
Còn lao nô thì mặc sức kêu rên,
Chủ bỏ đói, lại khấu trừ lương bỗng!

Lương chết đói thì làm sao đủ sống!
Tiền mối manh cứ đe dọa hàng ngày!
Xác thân tàn chẳng thấy được tương lai !
Trâu đã đói, mà con người cũng đói!

Thảm thuơng quá ! Không còn gì để nói!

(Ðức Phố, 26-01-2009, Tết Kỷ Sửu)


VĨNH LIÊM

Nghị Quyết 36 - Vĩnh Liêm


Lại Nghị Quyết! Đây là lần 36,
Nghị quyết này nhất quyết chiếm mục tiêu
Đó là dân tị nạn, tức " Việt kiều "
Phải chiếm lấy, vì tài nguyên vô giá.

Đảng nhất quyết, phen này, bằng mọi giá,
Chiếm cộng đồng, hốt trọn ổ dân ta.
Với chiêu bài " khúc ruột nối quê nhà ",
"Khúc ruột " ấy là khối tiền vô kể.

Đảng thương nhớ vì đô-la lắm thế,
(Bốn tỉ đô "viện trợ" Đảng hàng năm)
Đảng sống nhăn, "hồ hởi", chẳng nhọc nhằn,
Cứ như thế, chẳng bao giờ Đảng chết.

Người hải ngoại hàng năm về ăn Tết,
Cứ cho về, Đảng vét sạch đô-la.
Xài hết tiền thì họ lại trở ra,
"Cày" chết bỏ, rồi năm sau về lại.

Đảng biết thế nên không hề ngần ngại,
Cứ moi tiền để cán bộ phì gia.
"Bọn Việt kiều" vì nhớ nước thương nhà,
Nên nuôi Đảng, họ chẳng hề ý thức.

Vì lẽ đó, Đảng cần nên lập tức
Ra chiêu bài dụ dỗ kẻ ngây thơ.
Càng ngây thơ, thì Đảng lại càng nhờ,
Làm công cụ không công-như đầy tớ.

Kẻ háo sắc, háo danh, ưa bợ đỡ…
Chúng cho làm những chức vụ rất kêu.
Còn chúng ta thì chúng gọi "Việt kiều",
Cứ an phận, ham tiền, vui thoải mái…

Thích nghe nhạc, giải sầu theo điệu nhảy?
Dễ dàng thôi! Đảng gửi đám văn công.
Đọc báo ư? Sẽ có báo biếu không.
Quên tiếng Việt? Đảng có thầy mở lớp…

Muốn tu tỉnh? Đảng xây Chùa thích hợp,
Có cả Thầy, Sư sải với ni-cô…
Cứ mở Chùa là Đảng có tiền đô,
Mê tín ngưỡng thì hết làm chính trị.

Khi vỡ lẽ thì mọi người nhụt chí,
Sợ tiếng đời dị nghị, bị người khinh…
Nên dù đau, miệng vẫn phải làm thinh,
Cứ tiếp tục đổ tiền đô cho Đảng…

Người tranh đấu, có nghe, xin đừng nản!
Đường ta đi sẽ chiến thắng gian tà.
Còn bọn người ham lợi sẽ tiêu ma,
Những cặn bã làm sao mà sống sót.

Xin cảnh giác! Hãy loại trừ ung nhọt,
Trong cộng đồng, trong tổ chức, trong nhà…
Có ngừa sâu thì dàn mướp mới ra hoa,
Có ngăn địch thì cộng đồng vững mạnh.

Hãy trừng trị những kẻ nào ương ngạnh.

(Đức Phố, ngày 22 tháng 5 năm 2004)

Tuấn ơi !

Sao vầy nè Tuấn ơi !